TS Nguyễn Tiến Hưng
Trên vai những pho tượng trắng trong
vườn Lục Xâm Bảo, lá vàng đã bắt đầu rơi lất phất. Mùa Thu Paris thật
lãng mạn. Henry Kissinger đi dạo quanh một hồ nhỏ ở ngoại ô gần
Rambouillet. Nơi đây từng cặp tình nhân đang nắm tay nhau bên những cành
cây la đà bóng hồ. Ông thấy lòng mình nao nao (melancholic) vì sắp tới
phiên họp quan trọng nhất với ông Lê Đức Thọ.
“Người ta thường hỏi tôi lúc nào tôi đã xúc động nhất trong cuộc đời công vụ của mình,” Kissinger viết,
“Giờ phút làm tôi cảm động nhất phải là buổi sau trưa ngày Chủ Nhật mát
dịu vào mùa Thu năm ấy, khi bóng rợp bao trùm lên thành phố Paris êm
đềm...” Hôm ấy là Chủ Nhật, ngày 8/10/1972.
Bưổi họp với ông Thọ dẫn đến việc ký kết Hiệp Định Paris ngày 27/1/1973.
Danh tiếng của Kissinger nổi lên như
sóng cồn. Và ông nhận được Giải Nobel Hòa Bình 1973 (cùng với ông Lê Đức
Thọ, nhưng ông Thọ không nhận).
Ngày 10/12/1973 là ngày trao giải
thưởng. Vì không thể có mặt tại Oslo vào ngày này, Kissinger nhờ ông
Thomas R. Byrne, Đại sứ Mỹ tại Na Uy đọc bài diễn văn thay ông. Rất hùng
biện về ý nghĩa của Hòa Bình. Bài diễn văn mở đầu:
“Giải thưởng Nobel Hòa bình là một giải thưởng cho một mục đích cũng như giải thưởng cho một cá nhân. Hơn cả thành tựu về hòa bình, nó tượng trưng cho chính sự đi tìm kiếm hòa bình.”
Phát biểu như vậy là Kissinger đã nói
dối với cả thế giới, với lịch sử. Và điều này thì chính Ủy Ban Nobel
cũng đã nghi ngờ khi quyết định trao giải thưởng.
Mới đây, ngày 12/1/2023 – theo Reuters thì hồ sơ về các đề cử cho Giải Nobel Hòa Bình 1973 đã được giữ bí mật trong 50 năm theo quy định,
cho nên bây giờ mới được tiết lộ. Hồ sơ này cho biết Ủy ban Nobel vẫn
trao giải Hòa bình 1973 cho nhà ngoại giao hàng đầu của Hoa Kỳ Henry
Kissinger và ông Lê Đức Thọ của Bắc Việt Nam. Nhưng đây là một trong những giải gây tranh cãi nhất trong lịch sử của giải này.
Ủy Ban vẫn trao giải dù khi đã biết rõ rằng Chiến tranh Việt Nam khó có
thể kết thúc sớm. Stein Toennesson, giáo sư tại Viện Nghiên cứu Hòa
bình Oslo, người đã xem xét các tài liệu liên hệ nói với Reuters: “Bây giờ tôi thậm chí còn ngạc nhiên hơn lúc đó, rằng ủy ban có thể đưa ra một quyết định tồi tệ đến như vậy.” Lúc ấy hai trong số năm thành viên của Ủy ban Nobel đã từ chức để phản đối.
Sở dĩ như vậy là vì Kissinger đã “đi
tìm kiếm hòa bình” trong gian dối và với “mục đích” – một phần không
nhỏ là phục vụ quyền lợi riêng của mình – như tác giả Dallek đã thuật
lại:
“TT Nixon và Tướng Haig tin chắc rằng “Henry được thúc đẩy mạnh mẽ về tất cả những sự việc này là vì muốn rằng – sau cùng – thì chính mình là người đã mang lại hòa bình. Hai người cho rằng đây là một vấn đề lớn vì do vậy mà Kissinger đã cố gắng thúc đẩy cho bằng được để có một hiệp định.” (Henry
is strongly motivated in all this by a desire for pesonnaly being the
one to finally bring about the final peace settlement.” They saw this as
“a major problem in that it’s causing him to push harder for a
settlement”).
Bốn năm mật đàm là hư vô
Bốn năm mật đàm là hư vô
Dù trong thời gian 2016-2023 một số
tài liệu về Hiệp Định Paris đã được giải mật nhưng toàn bộ hồ sơ liên hệ
tới mật đàm của ông Kissinger vẫn chưa được tiết lộ. Đó là vì Kissinger đã giấu nhẹm hồ sơ này đi và nó không còn nằm ở Hội Đồng An Ninh Quốc Gia tại Tòa Bạch Ốc nữa.
Thật may mắn là hồ sơ vẫn còn được TT
Nguyễn Văn Thiệu cất giữ và chúng tôi đã được ông trao cho và giữ lại
cho lịch sử. Về bối cảnh chung quanh câu chuyện này thì chúng tôi đã ghi
lại trong cuốn sách “Bức Tử VNCH-Kissinger và 8 thủ đoạn nham hiểm” (BTVNCH) sắp được xuất bản nay mai.
Kissinger đã đánh lừa nhân dân Mỹ, cả thế giới và cả TT Nixon nữa, nhưng ông đã không đánh lừa được TT Thiệu.
Trở lại buổi họp Kissinger – Thọ ngày
8/10/1972: họp xong Kissinger bay về Washington báo cáo cho TT Nixon là
ông Thọ đã nhượng bộ hoàn toàn và thuyết phục ông Nixon cho phép ông bí
mật bay đi Hà Nội để ký tắt vào bản sơ thảo hiệp định, kế hoạch là vào
ngày 24/10/1972. Ký xong thì trở về Washington, và lúc ấy thì mới tiết
lộ về hòa bình. Theo kịch bản này thì sự tiết lộ về chuyến đi Hà Nội
chắc chắn sẽ gây chấn động hơn là việc TT Nixon tiết lộ về việc ông
Kissinger đã mật đàm tại Paris và việc ông đi Bắc Kinh hồi tháng 7/1971.
Nhưng vì ngày bầu cử nhiệm kỳ hai của
TT Nixon (20/11/1972) đã gần kề, ông e ngại rằng ông Thiệu sẽ phản thùng
(không ký) giống như hồi bầu cử 1968 (do chính Nixon xúi để chống ông
Humphrey) thì ảnh hưởng lại bất lợi. Vì vậy, ông chỉ thị Kissinger phải
ghé Sàigòn thuyết phục ông Thiệu trên đường đi Hà Nội.
"Tôi sẽ không ký"
Kissinger tới Sàigòn ngày 18/10/1972
và họp với Tổng thống Thiệu tại Dinh Độc Lập ngày hôm sau. Hết sức thân
mật, niềm nở, ông trao cho ông Thiệu một lá thư của Tổng thống Nixon đề
ngày 16/10/1972. Lời lẽ lâm ly thống thiết, bức thư thật dài đã giải
thích cặn kẽ về kết quả tốt đẹp của việc đàm phán tại Paris, và "Đây quả là một sự đảo ngược quan trọng về lập trường của Bắc Việt." Thêm vào đó là những hứa hẹn đủ điều. Để tăng mức độ tin cậy, ký thư xong, Nixon còn viết tay thêm vào là:
"Đề nghị này thỏa mãn được điều kiện tuyệt đối của
tôi là VNCH phải tồn tại như một quốc gia tự do."
Cái đau đớn cho ông Thiệu là phải ngồi
nghe Kissinger thao thao bất tuyệt: "Đây là lúc thuận lợi để đi tới một
hiệp ước với Bắc Việt vì dù sao chăng nữa, VNCH cũng đã có một quân lực
trên một triệu người và đã kiểm soát được 85% dân số rồi."
Khi ông Thiệu hỏi tại sao trong hiệp
định không có đoạn nào nói tới việc Bắc Việt rút quân khỏi Miền Nam thì
Kissinger trả lời: "Chúng tôi đã thảo luận điều đó với Bắc Việt nhưng
họ không chấp nhận, cho nên chúng tôi nghĩ rằng không nên để nó vào
(văn bản) để khỏi làm hỏng bầu không khí!" Không chế ngự được nữa, ông Thiệu đã phản ứng mạnh và đã có những cuộc đối thoại gay gắt trong hai ngày tiếp theo.
Từ Sàigòn, ngày 21/10/1972, Kissinger
đánh điện về Washington yêu cầu TT Nixon cứ cho ông đi Hà Nội mặc dù
Sàigòn chống đối hiệp định. Hôm sau, Kissinger lại báo cáo thêm: "Những yêu sách của ông Thiệu gần như là điên khùng."
Chỉ còn vài tuần lễ nữa là tới ngày bầu cử. Nixon lưu ý Kissinger là
nếu hấp tấp quá mà không có sự đồng ý của ông Thiệu thì sẽ là một trở
ngại chính trị.
Dù sao, Kissinger hy vọng là cuối cùng với những cam kết chắc chắn của TT Nixon, ông Thiệu sẽ đồng ý ký.
Khi nói chuyện với chúng tôi về giai đoạn này, TT Thiệu tâm sự: "Kissinger đến với mình không như một chiến hữu mà là đến để biện hộ cho lập trường của Bắc Việt..." Tâm
trạng ông như vậy nên ta có thể hiểu được câu kết luận của ông vào
cuối buổi họp khi Đại sứ Mỹ Ellsworth Bunker (cùng đi với Kissinger) đặt
câu hỏi
-- "Vậy thì, thưa Tổng thống,", "lập trường chót của Ngài là không ký, phải không?"
-- "Vâng, đó là lập trường cuối cùng của tôi," ông Thiệu đáp,"
Tôi sẽ không ký và xin Ngài thông báo cho Tổng thống Nixon biết như
thế. Xin quý vị trở về Washington và nói với Tổng thống Nixon rằng tôi
cần được câu trả lời. »
Tại sao TT Thiệu không ký
Đó
là là vì ông Henry Kissinger đã thất bại hoàn toàn trong việc đàm phán
với ông Lê Đức Thọ nhưng lại báo cáo với TT Nixon ngược lại và thuyết
phục ông ép TT Thiệu chấp nhận ký kết hiệp định trên căn bản là “phía
Cộng Sản đã nhượng bộ hoàn toàn.”
Thay vì đi vào chi tiết từng điểm của
Hiệp Định, như vậy sẽ quá dài, nên có lẽ đơn giản và gọn gàng nhất là ta
cứ so sánh kết quả của những sự việc theo phương pháp ‘trước và sau’ đàm phán.
Bắt đầu đàm phán, lập trường của hai bên là như thế nào?
Lập trường phía Bắc Việt:
Ngày 9/5/1969, phía Cộng sản đưa ra lập trường ‘10 Điểm của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam’
(MTGPMN) đòi hỏi (1) quân đội Mỹ rút toàn bộ khỏi Miền Nam; và (2i)
đang khi chờ đợi một cuộc tổng tuyển cử tự do, dân chủ ở Miền Nam, tất
cả các phe phái chính trị Miền Nam sẽ đàm phán để thành lập một chính
phủ liên hiệp tạm thời.
Lập trường Hoa Kỳ và VNCH:
Ngày 14/5/1969, Tổng thống
Nixon tuyên bố lập trường chung của Hoa Kỳ và VNCH: thay vì đòi quân đội
Bắc Việt phải rút 6 tháng trước khi quân đội Mỹ bắt đầu rút (như lập
trường của TT Lyndon Johnson), ông Nixon đưa ra đề nghị là ‘cả hai bên
cùng rút một lúc.’ Rồi ông tóm lại trên đài truyền hình cho cả thế giới
nghe:
“Chúng tôi đã gạt bỏ ra ngoài
hoặc là việc rút lui khỏi Việt Nam một cách đơn phương, hoặc việc chấp
nhận tại Paris bất cứ giải pháp nào có tính cách như một thất bại ngụy
trang...
“Và đó là phác họa về một giải
pháp mà chúng tôi muốn đàm phán ở Paris. Nguyên tắc căn bản của nó là
đơn giản: triệt thoái cả hai bên bất cứ quân đội nào không phải là quân
đội Miền Nam ra khỏi Miền Nam Việt Nam và dành quyền tự quyết cho dân
tộc Việt Nam” (xem ‘Khi Đồng Minh Tháo Chạy,’ trang 646)
Henry Kissinger vào cuộc
Ngày 4/8/1969 (năm đầu của nhiệm kỳ
Tổng thống Nixon), ông Kissinger giả bộ đi Paris gặp Tổng thống Georges
Pompidou nhưng thực ra là để gặp hai ông Xuân Thủy và Mai Văn Bộ tại nhà
ông Jean Sainteny không xa phố sang trọng Rue de Rivoli. Ông mở đầu
bằng câu phát biểu: “Chúng tôi sẵn sàng thảo luận về lập trường ‘10 Điểm của Mặt Trận Giải Phóng’, nhưng chúng tôi không thể chấp nhận rằng nó giống như Mười Điều Răn Chúa, nó đã được khắc vào bia đá, không thể điều đình được.” (We
were prepared to discuss the Ten points of the National Liberation
Front, but we could not accept that like the Ten Commandments they were
graven in stone and not subject to negotiation).
Kết thúc mật đàm, lập trường của hai bên ra sao?
Kết thúc mật đàm là Hiệp định Paris ký
ngày 27/1/1973. Hiệp định này rất phức tạp, gồm 23 điều, mỗi điều khoản
gồm nhiều tiểu điều, dài dòng văn tự. Ngay từ 1973, chúng tôi đã bỏ ra
nhiều công sức tìm kiếm những lập trường đàm phán để so sánh, vì ít
người còn nhớ hay quan tâm đến lập trường của hai bên đàm phán vào năm
1969. Xem xét toàn bộ hồ sơ tại Dinh Độc Lập chúng tôi cũng không tìm
thấy văn kiện nào về sự so sánh này. Người dân và truyền thông Hoa Kỳ
thì cũng chỉ biết được những gì do hai ông Kissinger và Nixon tuyên bố,
phân tích.
Kết quả sự nghiên cứu của chúng tôi là 10 điều khoản vắn gọn do Mặt Trận Giải Phóng đưa ra ngày 9/5/1969 (mà tới lúc ký Hiệp Định Paris thì chẳng ai còn nhớ)
đã được gói ghém trọn vẹn và còn được liệt kê ra cho rõ chi tiết, cặn
kẽ hơn nữa trong 23 điều khoản dài dòng của Hiệp định Paris ký ngày
17/1/1973.
Trong cuốn BTVNCH chúng tôi đã
có bản so sánh chi tiết về hai lập trường này và kết luận rằng: HĐ Paris
còn nhượng bộ nhiều hơn là đòi hỏi của MTGP đưa ra năm 1969. Tóm gọn là
như thế này: chỉ có hai vấn đề quan trọng nhất cần đàm phán, đó là:
(1) quân đội Bắc Việt tiếp tục đóng lại ở miền Nam, và (2) một chính phủ
liên hiệp giữa các phe nhóm Miền Nam.
Trong hai điều đó, điều (1) có ý nghĩa
quan trọng nhất: Hiệp định Paris đã nhượng bộ hoàn toàn về vấn đề này.
Điều (2): chỉ có một cái tên được thay đổi: “Hội đồng hòa giải và hòa
hợp dân tộc” được sử dụng thay vì ‘Chính phủ Liên Hiệp’. Tuy nhiên, sự
khác biệt là không đáng kể vì Hội Đồng này bao gồm tất cả các chức năng
chính của một chính phủ Liên Hiệp như được những người Cộng sản định
nghĩa vào năm 1969.
Hiệp Định Paris đã gói trọn những điều mà Kissinger gọi là "10 Điều Răn Của Chúa." Thí dụ như điều khoản về quân sự là điều quyết định sự sống còn của VNCH, hiệp định này lại còn nhượng bộ hơn là đòi hỏi ban đầu:
vì còn thêm vào là quân đội Mỹ và đồng minh phải rút "nội trong 60
ngày," và quy định việc rút đi một cách chặt chẽ, đầy đủ hơn nhiều:
- Điều 2 của '10 Điểm' do MTGP đưa ra năm 1969 chỉ đòi là:
“Chính phủ Hoa Kỳ phải triệt thoái
khỏi Miền Nam Việt Nam tất cả quân đội, vũ khí và vật dụng chiến tranh
của Hoa Kỳ và của tất cả các quốc gia thuộc phe Hoa Kỳ, mà không đòi hỏi
bất cứ điều kiện nào."
- Điều 5 của Hiệp định Paris năm 1973:
“Nội trong 60 ngày, sau khi bản
Hiệp Định được ký kết, tất cả quân đội, cố vấn quân sự, và nhân viên dân
chính làm việc cho quân đội, bao gồm nhân viên kỹ thuật làm việc trong
các chương trình bình định, vũ khí, và đạn dược, và vật dụng chiến tranh
của Hoa Kỳ và của các quốc gia khác, đã dẫn ở Điều Ba, phải được hoàn
toàn triệt thoái khỏi miền Nam Việt Nam. Các cố vấn cho các tổ chức bán
quân sự và cảnh sát thuộc các quốc gia nêu trên cũng phải triệt thoái
trong thời hạn nêu trên.”
***
Kết quả mật đàm là như vậy, cho nên
khi TT Nixon nghe lời của Kissinger mà ép TT Thiệu phải chấp nhận, ông
đã tuyệt vọng đến mức phải viết thẳng cho TT Nixon trong thư ngày
11/11/1072:
“Thưa Tổng thống, nếu như Hiệp
định này cho phép quân đội Bắc Việt đóng lại ở Miền Nam Việt Nam thì
những công lao tranh đấu và bao nhiêu hy sinh chúng ta đã gánh chịu
trong qúa nhiều năm đều trở thành vô nghĩa!”
Trân trọng
Thiệu (ký)
Những hy sinh mà VNCH phải gánh
chịu bao gồm từng trăm ngàn mạng sống của những chiến sĩ và người dân
cũng như sự tàn phá khôn lường của chiến tranh. Những hy sinh mà chính
Hoa Kỳ phải gánh chịu là 15,000 sinh mạng quân nhân Mỹ, 100,000 người bị
thương và 62 tỷ đô la, cộng với những chi phí khác mà xã hội Mỹ phải
gánh chịu trong suốt 4 năm đàm phán bí mật 1969-1972.
Như vậy, Henry Kissinger đã phản bội cả VNCH lẫn Hoa Kỳ.
Nguyễn Tiến Hưng
No comments:
Post a Comment