; }

Thursday, April 26, 2018

NHÂN DỊP "THÁNG TƯ ĐEN", THỬ TÌM LẠI "TẾT MẬU THÂN OAN NGHIỆT" VÀ "MÙA XUÂN PRAHA BẼ BÀNG" CỦA NĂM 1968

Trần Đoan Hùng
26/Apr/2018
HUYỀN THOẠI “68”

Nếu có ai sinh vào năm Mậu Thân 1968 thì đến năm Mậu Tuất nầy, 2018, vừa tròn sinh nhật năm thứ 50, Kim Khánh làm người, lễ Vàng của sự kiện bắt đầu cuộc hành hương trong kiếp nhân sinh !

50 năm, một chặng đường vừa đủ cho một đời người, và cũng đủ để một người hiểu được toàn bộ sinh mệnh của chính mình : Ngũ thập nhi tri thiên mệnh.[1]

Trên bình diện “thời sự quốc tế”, năm 68 đã xảy ra nhiều biến cố quan trọng, trong đó có hai sự kiện tiêu biểu : Cuộc Tổng Công Kích Tết Mậu Thân (The Tet Offensive) tại Nam Việt Nam và Mùa Xuân Praha (The Prague Spring) tại Tiệp Khắc.

Nhân dịp kỷ niệm “Kim Khánh” của cái “Năm 68 huyền thoại” nầy (1968-2018), chúng ta thử dành ra một khoảnh khắc để dừng lại suy tư và chiêm nghiệm đôi điều về 2 sự kiện quan trọng xảy ra trên hai phần Đông-Tây của thế giới : MÙA XUÂN MẬU THÂN OAN NGHIỆT với Cuộc “Tổng công kích của Việt Cọng” tại Việt Nam và “MÙA XUÂN PRAHA BẼ BÀNG” với cuộc đàn áp tàn bạo của khối cọng sản Liên Sô-Đông Âu (Vác-xa-va) tại Tiệp Khắc.

Nhắc lại một “trang buồn” của lịch sử không nhằm “xé toạt vết thương” để đào sâu thêm những vết hằn chia cách, mà là để rút ra những “bài học sự thật” như phương thuốc chữa lành.

I. MẬU THÂN OAN NGHIỆT : BÀN THỜ GIỖ CHUNG

Trong nền văn hóa Á Đông, Tết chính là một “đại lễ hội” lớn nhất, quan trọng nhất và cũng đầy ý nghĩa văn hóa, tâm linh, nhân bản nhất, trong mọi lễ hội của năm; đồng thời cũng là dịp lễ truyền thống vượt qua mọi biên giới tôn giáo, chủng tộc, ý thức hệ, tín ngưỡng…để trở thành “ngày hội chung”, ngày vui chung, ngày lễ chung của mọi gia đình, mọi phận người. Chính vì lẽ ấy, mà từ những ngày cuối năm Âm Lịch chuẩn bị đón Tết cho tới những ngày “Minh Niên”, từ chùa cho đến thánh đường, từ những miếu mạo ẩn khuất, xa xăm, cho tới những ngôi nhà thờ mái tranh vách đất hẻo lánh…đâu đâu cũng tấp nập kẻ tới người lui, hoa xuân tươi thắm, khói hương đậm đà…

Đặc biệt, với tâm tình hưởng phước cầu may, ước mong giải hạn, khai trừ mọi tai ương hoạn nạn, không ai mong Tết lại gặp “chuyện xui”, thiên tai địch hoạ…; mà chỉ mong hạnh phúc an khang, lộc xuân đầy ắp, như câu đối Tết nổi tiếng của nữ sĩ Hồ Xuân Hương :

Tối ba mươi khép cánh càn khôn, ních chặt lại kẻo Ma vương đưa quỷ tới,

Sáng mồng một lỏng then tạo hóa, mở toang ra cho thiếu nữ đón Xuân vào.

Cũng trong ý nghĩa đó, nhà thơ và đại công thần Nguyễn Công Trứ cũng đã từng ươm mơ về ngày Tết với câu đối ngộ nghĩnh dễ thương :

Chiều ba mươi nợ réo tít mù, co cẳng đạp thằng bần ra cửa,

Sáng mồng một rượu say túy lúy, giơ tay bồng ông phúc vào nhà.

Thế nhưng, cách đây đúng 50 năm, trong cái Tết Mậu Thân, người dân Việt chúng ta không những chẳng được “giơ tay bồng ông phúc vào nhà” mà đã bị những người cọng sản, đúng thật là những “Ma vương đưa quỷ tới”.

Không biết có phải là may mắn hay không, nhưng bạn tôi, người kể lại “chuyện đời 50 năm”, đã tin rằng : phải có “Ơn Trên” gìn giữ quan phòng, mới có thể sống qua những chuỗi ngày đạn bom ác liệt của cái Tết Mậu Thân oan nghiệt năm 1968, một cái Tết, một mùa xuân đầy bất hạnh của đồng bào Miền Nam (và cả miền Bắc).

Thật vậy, thay vì đón Tết trong tưng bừng của pháo, của hoa, của thân thương gặp gỡ, biết bao nhiêu gia đình Việt Nam thuở ấy đã phải lãnh trọn quả đắng thương đau của đổ nát, tan hoang, chia ly chết chóc, khi những “đoàn quân mang tên giải phóng”, với vũ khí của Nga, Tàu, tràn vào các thành phố, thị xã…trên khắp Miền Nam Việt Nam, thực hiện cuộc tương tàn huynh đệ dã man nhất trong lịch sử !

Và cũng từ cái Tết Mậu Thân oan nghiệt ấy, biết bao mái đầu xanh trai trẻ của “Bộ đội Cụ Hồ” miền Bắc hay “những anh chị em du kích” của Mặt Trận Giải phóng Miền Nam, cùng bao nhiêu cuộc đời xinh tươi của quân dân Việt Nam Cộng Hoà, đáng lẽ được mở toang cánh cửa tương lai để đón chào mùa xuân, đã vĩnh viễn nằm lại hoặc nơi phố thị hay giữa đường quê, nhất là nơi núi rừng trường sơn hay trong những mồ chôn tập thể, mà cho đến mãi hôm nay vẫn chưa tìm ra xương cốt !

Mặc dù đã 50 năm rồi, nhưng sự kiện lịch sử thương đau của cả dân tộc vẫn còn là một “ẩn số” mà giải đáp thật sự vẫn còn bỏ ngõ, mặc cho cách lý giải tuỳ tiện của mỗi bên tham chiến, cố thêu thùa sơn phết sao cho “hợp lý” để biện minh cho chính nghĩa của riêng mình.

Chừng nào “sự thật lịch sử” chưa được mọi người con dân nước Việt cùng chấp nhận một cách “thuyên giải” khách quan, trung thực, một bài học đắt giá để rọi sáng cho tương lai, để thế hệ tiếp theo không rơi vào lối cũ…thì mãi mãi dân tộc Việt Nam vẫn ở bên đôi bờ chiến tuyến.

Nhưng trước hết, để khái quát lại “biến cố Mậu Thân”, chúng ta thử tham khảo những tư liệu với những nhận định đa chiều sau đây :

1. “Lề Phải” của “Bên thắng cuộc” : HÀO QUANG BẤT TỬ

(Xin được “tạm dùng” nhóm từ “Bên Thắng Cuộc”, nguyên là tên của một tác phẩm mang nội dung “bối cảnh lịch sử về Việt Nam kể từ năm 1975” của nhà báo-nhà văn Huy Đức[2], để chỉ “bên Cọng Sản” hay chính quyền Cọng Sản đang cai trị Việt Nam, kể từ sau cuộc sụp đổ của nền “Đệ nhị Cọng hòa” tại Miền Nam Việt Nam.)

Đã 50 năm rồi, cái “loa phường tuyên truyền của Đảng Cọng Sản Việt Nam” hay còn được gọi là “báo lễ phải”, nhìn và viết về biến cố Mậu Thân vẫn theo một lập trường, một đường lối “trước sau như một” : một chiến thắng lẫy lừng trong công cuộc giải phóng và thống nhất đất nước, như bài viết của Nguyễn Xuân Phúc, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đăng trên trang đầu của Báo Nhân Dân ngày 03/01/2018 với đề tài :

Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968 – Khát vọng hòa bình, độc lập, thống nhất của dân tộc Việt Nam. Xin trích :

Cách đây tròn nửa thế kỷ, vào thời khắc giao thừa Tết Mậu Thân 1968, trên Ðài Tiếng nói Việt Nam ngân vang những vần thơ chúc Tết hào sảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu: "Xuân này hơn hẳn mấy Xuân qua/ Thắng trận tin vui khắp nước nhà/ Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ/ Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta". Ðó là lời hiệu triệu cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 của quân và dân ta trên khắp miền nam, trọng tâm là Sài Gòn, Huế, Ðà Nẵng. Ðây là cuộc tổng tiến công đầy táo bạo, bất ngờ, đánh thẳng vào sào huyệt của kẻ thù, thể hiện sâu sắc tư tưởng chiến lược tiến công, nét đặc sắc của nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân Việt Nam, là biểu hiện tập trung sức mạnh của chủ nghĩa anh hùng cách mạng thời đại Hồ Chí Minh, thể hiện bản lĩnh, trí tuệ và khát vọng hòa bình, độc lập, thống nhất của dân tộc Việt Nam….Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là một bản anh hùng ca bất hủ, khắc ghi vào lịch sử đấu tranh giành độc lập hào hùng của dân tộc ta và còn mãi mãi trong trái tim của những người con Việt Nam. Biết bao người con ưu tú của dân tộc Việt Nam đã ngã xuống hoặc để lại một phần máu thịt nơi chiến trường khốc liệt trong các cuộc chiến tranh…”[3]

2. “Lề trái” của “Bên Thắng cuộc” : THẢM HOẠ VÔ CÙNG

Ngược lại với “lập luận tuyên truyền cũ rích sáo mòn” của Đảng, có những cái nhìn nhân văn, tỉnh táo và đậm màu “tình tự dân tộc” của những đầu óc chưa bị “nhuộm đỏ”; trong số đó có nhà văn Phạm Đình Trọng[4], tác giả đã trình bày một cái nhìn khá quân bình và nhân văn về sự cố Mậu Thân nơi Phần 3 của Chuyên luận VỀ VỚI DÂN mang chủ đề : Khắc khoải xuân Mậu Thân 1968. Xin trích :

“Tết Mậu Thân 1968 là thảm họa người Việt giết người Việt với qui mô lớn nhất, quyết liệt nhất, mê say nhất, tàn bạo nhất và số người bị giết lớn nhất, phải tính tới con số hàng trăm ngàn mà bên bị tổn thất về người nặng nề nhất chính là đội quân dồn dập đánh vào các thành phố, thị xã miền Nam dưới sự đôn đốc từ Hà Nội do sự háo danh của người nhiều tham vọng quyền lực….”

Nhà văn nầy còn nhắc lại một giai thoại liên quan đến cuộc chiến Mậu Thân trong cuộc họp mặt các nhà văn miền Bắc vào năm 1976. Xin trích :

“Trong không khí vui vẻ, nhà văn Xuân Thiều giãi bày: Thưa bác, tôi là Xuân Thiều, đại tá, nhà văn quân đội. Tôi đang viết tiểu thuyết về Huế trong tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Tôi thấy Tết Mậu Thân sáu tám ở Huế chết chóc nhiều quá, mất mát đau thương lớn quá. Bộ đội chết không còn người để chôn nhau. Dân chết cũng nhiều...

Mới nghe có thế, Tổng Bí thư đã đứng bật dậy, đỏ mặt quát: Ngu! Ngu! Đại tá mà ngu!... rồi ông đùng đùng bước nhanh ra cửa như chạy trốn.

Thực chất của Tết Mậu Thân 1968 là vậy. Đến người chủ mưu khởi xướng ra chiến cuộc Xuân Mậu Thân 1968 cũng co cẳng chạy trốn khi nghe nhắc đến Mậu Thân 1968 thì hằng năm có nên tưng bừng kỉ niệm chiến thắng Xuân Mậu Thân 1968 không nhỉ?”[5]

3. Chứng nhân ngoại cuộc : CHÍNH NGHĨA THUỘC VỀ AI : QUỐC HAY CỌNG ?

a/. Người Cọng sản nước ngoài đánh giá Cọng sản Việt Nam (Miền Bắc) : Ý THỨC HỆ LÀ TRÊN HẾT (Mục đích biện minh cho phương tiện).

- J. Leroy – một nhà hoạt động xã hội và cũng là đảng viên đảng cộng sản Pháp, trong tác phẩm “Đối Nghịch” đã nhận định :

"Việc coi đối thủ về ý thức chính trị là kẻ thù đôi khi bị đẩy đi quá xa. Cuộc chiến ở Việt Nam là một minh chứng. Nói riêng về cuộc sự kiện thảm sát ở Huế - thành phố miền Trung Việt Nam năm 1968 là một nỗi đau lớn. Có khoảng 5000 nghìn người bị chết oan uổng dù họ chỉ là dân thường đi làm công ăn lương cho chính quyền cộng hòa. Người Miền Bắc coi những người cùng dòng máu này là những kẻ thù địch. Thật oan cho họ khi họ không phải là những người cầm súng hoặc tham gia gián tiếp vào các hành động quân sự...”[6] (Hết trích).

- Đó cũng chính là nhận định của nhà nghiên cứu Trung Quốc Hà Cấn trong tác phẩm “Mao chủ tịch của tôi”. Xin trích :

"Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo cần phải thanh trừng bọn chống đối nhân dân khi các thành phố được giải phóng trong cuộc tổng nổi dậy tết 1968, chúng không có lợi cho lực lượng cách mạng vào tiếp quản thành phố. Hồ Chủ tịch đã học theo cách làm của Mao Chủ Tịch khi Trung quốc tiến hành Vạn lý Trường Chinh….”.[7]

Thì ra, chủ trương xuyên suốt của người Cọng Sản, từ Lenin tới Stalin, Mao Trạch Đông hay Polpốt, Hồ Chí Minh hay Ceauşescu …lấy mục đích biện minh cho phương tiện. Mục đích là “chuyên chính vô sản”, là sự lên ngôi của Đảng Cọng Sản, là hệ thống chính trị trên nền tảng học thuyết Mác-Lê…và mọi phương tiện như : mạng sống con người, hạnh phúc gia đình, sự tồn vong của tổ quốc, sự thánh thiêng của tôn giáo…đều phải hy sinh và phục vụ cho mục đích cao cả đó. Chính khi chấp nhận và áp dụng triệt để nguyên tắc nầy nên việc chính quyền Cọng sản Việt Nam sẵn sàng hy sinh vài triệu hay vài ba chục triệu sinh linh, cắt nhượng vài ngàn kilômet biên giới đường bộ, vài trăm ngàn km2 diện tích biển hay vài ba chục hòn đảo hay cả quần đảo ở Biển Đông để có được “sự ổn định chính trị” trong hệ thống “Xã Hội Chủ Nghĩa”…cũng là chuyện đương nhiên không cần lý giải !

Và phải chăng đó chính là điểm khác biệt trong mục tiêu chiến đấu của quân dân Miền Nam Việt Nam, một đất nước, một hệ thống chính trị, đã bị bức tử và trở thành kẻ chiến bại !

Tuy nhiên, “kẻ chiến bại không phải bao giờ cũng là kẻ xấu, kẻ sai”; trách nhiệm của thế hệ hôm nay phải tìm cho ra ánh sáng sự thật đã bị che khuất trong cái “nhập nhằng nguỵ sử” do hệ thống chính trị Cọng sản nhào nặn ra.

b/. Người Mỹ nhận định về quân lực Miền Nam Việt Nam : KHÔNG ĐƯỢC COI THƯỜNG HỌ

Qua hệ thống tuyên truyền mạnh mẽ, Cọng Sản Bắc Việt luôn hét toáng lên : quân đội Cộng Hoà Miền Nam chỉ là “lính đánh thuê cho Mỹ”, là “bọn nguỵ quân” liếm gót giày đế quốc, hoàn toàn dựa lưng vào “con chủ bài đế quốc Mỹ xâm lược” chứ không có một chút thực lực nào. Nhiều người Mỹ thuộc diện “phản chiến” cũng có cái nhìn hoàn toàn tiêu cực như thế về chế độ chính trị và nhất là quân đội Việt Nam Cọng Hoà. Lợi thế chính trị của Bắc Việt lúc bấy giờ chính là điểm cốt lỏi nầy : Đánh Mỹ, chống xâm lược Mỹ.

Tuy nhiên, Andrew Wiest, giáo sư về lịch sử và là giám đốc sáng lập của Trung tâm Nghiên cứu Chiến tranh và Xã hội Dale tại trường Đại học Nam Mississippi, là tác giả của quyển “Vietnam’s Forgotten Army: Heroism and Betrayal in the ARVN” (Một Quân đội bị lãng quên : Anh hùng và sự phản bội trong quân lực Việt Nam Cọng Hoà), đã nhận định bằng một bài viết với chủ đề : ĐỢT TẤN CÔNG TRONG TRONG TẾT MẬU THÂN KHÔNG PHẢI LÀ VÌ NGƯỜI MỸ. Xin trích :

Trong bối cảnh rộng lớn hơn, Tết thậm chí còn là một thất bại lớn cho Bắc Việt ở mọi cấp độ. Người cộng sản từ lâu cho rằng QLVNCH là một lực lượng bù nhìn sẽ sụp đổ khi đối đầu với áp lực quân sự thật sự. Nhưng QLVNCH đã chiến đấu cứng rắn và tốt trong thời gian Tết Mậu Thân, đẩy lùi người cộng sản ở mọi nơi. Tình hình càng tồi tệ hơn khi người Nam Việt Nam đã không nổi dậy để ủng hộ miền Bắc, mặc dù chiến sự tàn ác đã khiến cho 600.000 người họ trở thành những người tỵ nạn. Với kế hoạch Tết Mậu Thân bị xé nát, người cộng sản buộc phải suy nghĩ lại về cố gắng chiến tranh của họ, và về tầm nhìn của họ đến những gì thật sự là Nam Việt Nam.[8]

4. Lịch sử cần phải được “bóc trần” để tìm ra sự thật :

- “Nguỵ sử” cần phải được “giải ảo” : Có thể chọn lựa “lời tóm kết” nội dung của bài khảo luận dài mang tự đề : “31.1.1968 – 31.1.2018: Kỷ niệm 50 năm chiến cuộc Tết Mậu Thân – Nhìn lại bước ngoặt chiến tranh để giải ảo ngụy sử” của Tiến sĩ Đỗ Kim Thêm[9] :

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là một đại bại quân sự của ĐCSVN, vì khả năng chiến đấu tinh nhuệ của QLVNCH chưa bị tiêu hao và toàn thể dân chúng miền Nam không một lòng ủng hộ, nhưng nó đã tạo ra các thắng lợi chính trị tại Hoa Kỳ và công luận thế giới thành một bước ngoặt chiến lược trong chiến tranh Việt Nam.

Với quyết định việc tấn công này, ĐCSVN đã lừa dối đồng bào miền Bắc về ý nghĩa đấu tranh và thực trạng của miền Nam để buộc họ phải hy sinh xương máu cho Đảng. Vi phạm hưu chiến để gây bao đau thương tang tóc cho nhân dân miền Nam không phải là sự lựa chọn sáng suốt để ĐCSVN thực hiện sứ mệnh lịch sử mà giai cấp công nhân và nhân dân lao động miền Bắc giao phó.

50 năm trước, MTGPMN tháo chạy nhưng hô hào là chiến thắng và nạn nhân chiến cuộc được trao tặng 8 chữ vàng “Tấn công, nổi dậy, anh dũng, kiên cường”. 50 năm sau, bản chất không thay đổi, ĐCSVN lại tự tuyên dương chiến thắng, quên đi bao tổn thất nặng nề và những sai lầm gây tội ác thảm sát. Với những nghịch lý bi đát này, ngụy sử đã không được sáng tỏ mà còn làm trầm trọng hơn.

Thảm sát Xuân Mậu thân là một vết nhơ trong lịch sử của đất nước: Đó là lý do chính đáng để chúng ta không tham gia mừng lễ kỷ niệm 50 năm chiến thắng Xuân Mậu Thân mà tưởng niệm cho những người quá cố của hai miền vì cái chết oan uổng là do các quyết định hiếu chiến, liều lĩnh, thiếu hiểu biết và vô nhân đạo của ĐCSVN trước lương tâm, công luận và lịch sử.[10]

- Cần có một “bàn thờ giỗ chung” :

Và một khi sự thật lịch sử đã được “bóc trần”, cho dù có “khó nuốt” đến đâu cho cả bên thắng cuộc hay bên thua cuộc, cũng phải can đảm chấp nhận với tinh thần “sám hối”, như cách người Mỹ chấp nhận cái “kết đắng” của cuộc nội chiến, mà nữ tác giả “GIẢI KHĂN SÔ CHO HUẾ”, nhà văn Nhã Ca[11], đã nhận xét và được nhà báo Bùi Ngọc Phú ghi lai như sau :

Nhã Ca nhìn lại sử thời Pháp thuộc, năm Ất Dậu 1885 ba vạn dân quân Huế tấn công vào đồn Mang Cá, 1500 người hy sinh. Năm sau người dân đã lập đàn tưởng niệm, xây miếu âm hồn trong Thành Nội. Hàng năm chế độ thực dân vẫn cho phép cử hành lễ giỗ.

Số nạn nhân của vụ tàn sát Mậu Thân nhiều gấp năm lần, nhưng sau năm 1975 chế độ cộng sản đã phá huỷ đài tưởng niệm và công an cấm tụ họp làm đám giỗ.

Nhã Ca nhắc đến nội chiến ở Hoa Kỳ. Sau khi chấm dứt, không diễn binh, không ăn mừng chiến thắng mà chỉ có một “ngày tủi nhục quốc gia” để cùng nhau xưng tội, cầu nguyện xin tha thứ. Nhờ đó mà có được nước Mỹ như ngày nay.

“Trong khi đó, ngày nay ở Việt Nam cũng như tại nhiều nơi, trong nhiều cái đầu vẫn chưa biết nghĩ lại.” Nhà văn than thở và mong ước một ngày sẽ “có một bàn thờ chung, ngày giỗ chung tại quê hương, nơi từng biết thế nào là sự ăn ở tử tế, như từng biết thế nào là văn hóa, lịch sử.”[12]

II. “MÙA XUÂN PRAHA” : ƯỚC MƠ XANH NÁT MỤC ĐÃ TRỖ HOA

Và cũng trong chính “mùa xuân Mậu Thân” oan nghiệt đó, bên vùng trời Đông Âu, trên quê hương của nhà sọan nhạc lừng danh Tiệp Khắc, Bohuslav Martinů (1890-1950), tác giả nhạc phẩm bất hủ Piano Concerto No.1, đã diễn ra một “Mùa Xuân Praha” với khởi đầu đầy tin yêu hy vọng để rồi đã lụi tàn trong đau thương tức tưởi vào tháng 8 sau đó khi những gót giày và xích sắt của “đạo quân đồng mình xã hội chủ nghĩa, khối Vác-xa-va” nghiền nát.

1. Một thoáng lịch sử : Tổng quan sự kiện “Mùa Xuân Praha” :

Chúng ta thử đọc lại tư liệu của trang Bách Khoa Toàn thư mở Wikipedia trình bày khái quát về một sự kiện chính trị có tầm quan trọng vào bậc nhất của thế giới năm Mậu Thân 1968 tại miền đất phía tây của thế giới : MÙA XUÂN PRAHA CỦA TIỆP KHẮC.

Mùa xuân Praha (tiếng Séc: Pražské jaro, tiếng Slovak: Pražská jar) là một giai đoạn phi Xô Viết (tự do hóa) nền chính trị tại Tiệp Khắc trong thời kỳ nước này chịu ảnh hưởng từ Liên bang Xô viết sau cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Nó bắt đầu ngày 5 tháng 1 năm 1968, khi nhà cải cách người Slovak Alexander Dubček lên nắm quyền lực, và kéo dài tới ngày 21 tháng 8 khi Liên Xô và các thành viên Khối hiệp ước Warszawa đồng minh tấn công nước này để ngăn cản các cuộc cải cách.

Các cuộc cải cách Mùa xuân Praha là một nỗ lực của Dubček nhằm trao thêm quyền cho các công dân trong một hành động nhằm phi tập trung đảng phái nền kinh tế và dân chủ hoá. Các quyền tự do được trao gồm nới lỏng các hạn chế với truyền thông, ngôn luận và đi lại. Dubček cũng liên bang hoá đất nước thành hai nhà nước cộng hoà riêng biệt; đây là thay đổi duy nhất còn tồn tại sau khi phong trào Mùa xuân Praha chấm dứt.

Những cuộc cải cách, không được những người Xô viết tiếp nhận, và sau những cuộc đàm phán không thành công, Liên xô đã gửi hàng nghìn quân của Khối hiệp ước Warszawa cùng xe tăng tới chiếm Tiệp Khắc. Một làn sóng di cư lớn xảy ra trên cả nước. Trong khi nhiều cuộc tuần hành phi bạo lực diễn ra trong nước, gồm cả vụ tự sát để phản đối của một sinh viên, không hề có sự kháng cự quân sự và Tiệp Khắc tiếp tục bị chiếm đóng cho tới năm 1990.[13]

2. Những điểm nhấn của cuộc cách mạng”Mùa Xuân Praha” :

- Xây dựng một xã hội xã hội chủ nghĩa với khuôn mặt người : "xây dựng một xã hội xã hội chủ nghĩa tiên tiến trên những nền tảng kinh tế lành mạnh... một chủ nghĩa xã hội tương thích với các truyền thống dân chủ lịch sử của Tiệp Khắc, tương ứng với kinh nghiệm của các đảng cộng sản khác”[14]

- Trả lại các quyền tự do căn bản để tiến tới một nền kinh tế thị trường và một thể chế chính trị đa đảng : "Chương trình hành động" tự do hoá, gồm tăng tự do cho báo chí, tự do ngôn luận và tự do di chuyển, với sự nhấn mạnh kinh tế trên hàng hoá tiêu dùng và khả năng một chính phủ đa đảng.”[15]

- Tạo dựng một hệ thống chính trị mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân phù hợp với truyền thống văn hoá và địa dư của mỗi nước cộng hoà trong một Liên bang : "Chủ nghĩa xã hội không thể chỉ có nghĩa là giải phóng người lao động khỏi sự thống trị của tầng lớp bóc lột, mà phải tính xa hơn nữa tới một cuộc sống đầy đủ hơn cho cá nhân hơn bất kỳ tại một chế độ dân chủ tư sản nào." Chương trình sẽ giới hạn quyền lực của công an chìm[13] và dự định liên bang hoá ČSSR thành hai nước cộng hoà có vị thế như nhau…”[16]

3. Tác dụng xã hội của “Mùa Xuân Praha” :

- Phong trào cải cách xã hội dâng cao cùng với việc “bài Liên Sô” : Dù Chương trình hành động cho rằng cải cách phải được tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Tiệp Khắc, áp lực của dân chúng lên cao đòi thực hiện cải cách ngay lập tức. Các thành viên cấp tiến trở nên to mồm hơn: những cuộc bút chiến chống Liên xô xuất hiện trên báo chí (sau khi chính thức bãi bỏ kiểm duyệt ngày 26 tháng 6 năm 1968)[17]

- Các tổ chức chính trị xuất hiện bên cạnh các biện pháp đối phó của Đảng Cọng sản đương quyền : “Những người Dân chủ Xã hội bắt đầu thành lập một đảng riêng biệt, và những câu lạc bộ chính trị mới phi đảng phái được lập ra. Những người thân Liên Xô trong đảng hối thúc các biện pháp trấn áp, nhưng Dubček không có hành động thái quá và tái nhấn mạnh sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Tại cuộc họp của Đoàn chủ tịch Đảng Cộng sản Tiệp Khắc vào tháng 4, Dubček thông báo một chương trình chính trị "chủ nghĩa xã hội với khuôn mặt người". Tháng 5, ông thông báo rằng Đại hội Đảng lần thứ 14 sẽ được nhóm họp một phiên sớm vào ngày 9 tháng 9. Đại hội sẽ đưa Chương trình hành động vào trong các nghị quyết của đảng, phác thảo một luận liên bang, và bầu ra một Uỷ ban Trung ương mới.”[18]

4. Phản ứng của Khối Cọng Sản Liên sô-Đông Âu và thái độ của Tiệp Khắc :

- Những phản ứng không đồng thuận ban đầu : Phản ứng ban đầu biên trong khối Cộng sản khá khác biệt. János Kádár, lãnh đạo Hungary nhiệt liệt ủng hộ việc chỉ định Dubček vào tháng 1, nhưng Leonid Brezhnev và những người khác ngày càng lo ngại về những cuộc cải cách của Dubček, mà họ sợ rằng có thể làm suy yếu vị thế của Khối Cộng sản trong thời Chiến tranh Lạnh.[19]

- Tiệp Khắc cam kết trung thành với khối Vác-xa-va và chủ nghĩa xã hội : “Các đại biểu Đảng Cộng sản Tiệp Khắc tái xác nhận sự trung thành của họ với Khối hiệp ước Warszawa và hứa hẹn ngăn chặn các khuynh hướng "chống chủ nghĩa xã hội", ngăn cản sự hồi phục của Đảng Dân chủ Xã hội Tiệp Khắc, và kiểm soát báo chí một cách hiệu quả hơn. Những người Xô viết đồng ý rút quân (vẫn ở Tiệp Khắc sau cuộc tập luyện vào tháng 6) và cho phép Đại hội đảng ngày 9 tháng 9 diễn ra…”[20]

- Biện pháp dè chừng của Liên sô và khối Vác-xa-va : “Ngày 3 tháng 8 các đại biểu từ Liên xô, Đông Đức, Ba Lan, Hungary, Bulgaria, và Tiệp Khắc họp tại Bratislava và ký Tuyên bố Bratislava. Tuyên bố tái khẳng định sự trung thành không thể lay chuyển với Chủ nghĩa Mác-Lenin và chủ nghĩa vô sản quốc tế và tuyên bố một cuộc chiến đấu không ngừng nghỉ chống lại tư tưởng "tư sản" và mọi thế lực "chống chủ nghĩa xã hội".[32] Liên xô thể hiện ý định can thiệp vào một quốc gia thuộc Khối hiệp ước Warszawa nếu một hệ thống "tư sản" —một hệ thống đa đảng gồm nhiều đảng chính trị đại diện cho các phe phái khác nhau — được hình thành. Sau hội nghị Bratislava, quân đội Liên xô rời lãnh thổ Tiệp Khắc nhưng vẫn đóng dọc theo biên giới nước này”[21]

5. Mùa Xuân bị dập tắt :

- Liên Sô và sự can thiêp quân sự của khối Vác-xa-va : “Khi những cuộc đàm phán đó không mang lại kết quả như mong đợi, những người Liên Xô bắt đầu xem xét một hành động quân sự. Chính sách của Liên xô trấn áp các chính phủ các quốc gia vệ tinh buộc họ phải gắn các lợi ích quốc gia với các lợi ích của "Khối Đông Âu" (thông qua hành động quân sự nếu cần thiết) bắt đầu được gọi là Học thuyết Brezhnev. Đêm ngày 20-21 tháng 8 năm 1968, quân đội các nước thuộc khối Warszawa — Liên xô, Bulgaria, Ba Lan và Hungary—xâm lược Tiệp Khắc.

Đêm hôm đó, 200,000 lính Khối hiệp ước Warszawa và 2,000 xe tăng tiến vào Tiệp Khắc. Đầu tiên họ chiếm Sân bay quốc tế Ruzyně, nơi quân lính tiếp tục được không vận tới. Các lực lượng Tiệp Khắc bị cấm trại và bị bao vây cho tới khi mối đe doạ về một cuộc phản công đã bị loại bỏ. Tới sáng ngày 21 tháng 8 Tiệp Khắc đã bị chiếm đóng.”[22]

- Hậu quả của cuộc xâm lược : “Trong cuộc tấn công của quân đội Khối Warszawa, 72 người Séc và người Slovak đã bị giết hại (19 trong số đó tại Slovakia), 266 người bị thương nặng và 436 người khác bị thương nhẹ. Alexander Dubček kêu gọi người dân không kháng cự… Sau cuộc xâm lược là một làn sóng di cư, lớn chưa từng có, và cũng chấm dứt ngay sau đó. Ước tính 70,000 người đã bỏ đi ngay lập tức, và con số tổng cộng lên tới 300,000 người.”

6. Phản ứng của Tiệp Khắc và thế giới :

- Tiệp Khắc và thái độ phản kháng ôn hoà : “Tại Tiệp Khắc, sự phản đối của dân chúng với cuộc xâm lược được thể hiện bằng nhiều hành động phản kháng đồng thời và phi bạo lực. Ngày 19 tháng 1 năm 1969, sinh viên Jan Palach tự thiêu tại Quảng trường Wenceslas ở Praha để phản đối sự trấn áp quyền tự do ngôn luận mới được tái lập. Sự phản đối của dân chúng khiến Liên bang Xô viết phải từ bỏ kế hoạch ban đầu loại bỏ vị Bí thư thứ nhất.”[23]

- Các phần còn lại của thế giới cọng sản : “…Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Romania, nơi lãnh đạo nước này Nicolae Ceauşescu, đã là một người đối lập mạnh với các ảnh hưởng từ Liên xô và tự tuyên bố mình là một người ủng hộ Dubček, có một bài phát biểu công khai tại Bucharest trong ngày diễn ra cuộc xâm lược, lên án các chính sách của Liên xô với những lời lẽ mạnh mẽ. Tại Phần Lan, một quốc gia nằm dưới một số ảnh hưởng chính trị của Liên xô, vụ xâm lược đã gây ra một scandal lớn. Như Italia và Pháp, Đảng Cộng sản Phần Lan bác bỏ sự chiếm đóng…”[24]

- Hoa kỳ và các nước phương tây : “Các quốc gia phương Tây chỉ đưa ra những lời chỉ trích sau cuộc xâm lược. Đêm diễn ra cuộc xâm lược Canada, Đan Mạch, Pháp, Paraguay, Anh Quốc và Hoa Kỳ yêu cầu một cuộc họp của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc. Tại cuộc họp, đại sứ Tiệp Khắc Jan Muzik bác bỏ cuộc xâm lược. Đại sứ Liên xô Jacob Malik nhấn mạnh rằng những hành động của Khối hiệp ước Warszawa là "sự giúp đỡ anh em" chống lại "các lực lượng chống xã hội". Ngày hôm sau, nhiều quốc gia đề nghị một nghị quyết lên án sự can thiệp và kêu gọi rút quân ngay lập tức.”[25]

7. Kết quả : Mùa đông và hạt lúa mì :

- Kết quả : “Mùa xuân” trở lại “mùa đông” : “Tháng 4 năm 1969, Dubček bị thay thế khỏi chức vụ Bí thư thứ nhất bởi Gustáv Husák, và một giai đoạn "bình thường hóa" bắt đầu. Dubček bị trục xuất khỏi Đảng Cộng sản Tiệp Khắc và được trao cho một công việc tại sở kiểm lâm. Husák đã đảo ngược các biện pháp cải cách của Dubček, thanh trừng các thành viên tự do trong đảng, và loại bỏ khỏi các văn phòng nhà nước các cá nhân chuyên môn và trí thức đã công khai thể hiện sự bất bình với sự chuyển tiếp chính trị. Husák tái lập quyền lực của cảnh sát và tăng cường quan hệ với các quốc gia xã hội chủ nghĩa khác. Ông cũng tìm cách tái tập trung hoá nền kinh tế, bởi một số lượng lớn các quyền tự do đã được trao cho các ngành công nghiệp trong thời kỳ diễn ra phong trào Mùa xuân Praha. Việc bình luận về chính trị một lần nữa bị ngăn cấm trên truyền thông chính thức và những lời tuyên bố chính trị của bất kỳ ai không được coi là "tin tưởng hoàn toàn về chính trị" đều bị ngăn cấm. Sự thay đổi lớn duy nhất còn tồn tại là việc liên bang hoá đất nước, tạo ra Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Séc và Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Slovak năm 1969…”[26]

- Hạt lúa mì trỗ hoa : “Năm 1987, lãnh đạo Liên xô Mikhail Gorbachev thừa nhận rằng các chính sách tự do hoá glasnost và perestroika của ông rất giống với "chủ nghĩa xã hội với khuôn mặt người" của Dubček. Với sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội năm 1989, Dubček trở thành chủ tịch nghị viện liên bang thuộc chính quyền Havel. Khi được hỏi về sự khác biệt giữa Mùa xuân Praha và những cuộc cải cách của Gorbachev, một người phát ngôn Bộ Ngoại giao đã trả lời, "Mười chín năm." Sau khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ tại Tiệp Khắc trong cuộc Cách mạng Nhung năm 1989, Dubček được bầu làm Chủ tịch Nghị viện Liên bang, chức vụ mà ông giữ tới tận tháng 6 năm 1992”[27]

8. “Mùa xuân Praha” trên những nẻo đường thế giới :

- Những “mùa xuân” tiếp nối : “Mùa xuân Praha càng làm vỡ mộng nhiều người cánh tả ở phương Tây có quan điểm Mác-Lenin. Nó góp phần vào sự phát triển của các ý tưởng chủ nghĩa Cộng sản Tây Âu trong các đảng cộng sản phương Tây, tìm cách tách xa khỏi Liên xô, và cuối cùng dẫn tới sự giải tán nhiều nhóm trong số đó. Một thập kỷ sau, một giai đoạn tự do hóa chính trị của Trung Quốc được gọi là Mùa xuân Bắc Kinh. Nó cũng một phần gây ảnh hưởng tới phong trào Mùa xuân Croatia tại Nam Tư…”[28]

- Mùa xuân Praha trong văn học nghệ thuật : Sự kiện này đã được đề cập trong âm nhạc đại chúng, gồm bài hát của Karel Kryl, Luboš Fišer Requiem, và Music for Prague 1968 của Karel Husa. "They Can't Stop The Spring", một bài hát của nhà báo và nghệ sĩ sáng tác người Ireland John Waters, … trích dẫn câu nói được cho là của Dubček: "Họ có thể dẫm đạp hoa, nhưng họ không thể ngăn cản mùa xuân." Mùa xuân Praha cũng xuất hiện trong văn học. Milan Kundera đã nghiền ngẫm tác phẩm The Unbearable Lightness of Being của mình trong thời gian diễn ra phong trào Mùa xuân Praha. …. Một bộ phim chuyển thể vào năm 1988. Những người giải phóng, của Viktor Suvorov, là một miêu tả của một chứng nhân về cuộc xâm lược Tiệp Khắc năm 1968, từ quan điểm của một sĩ quan xe tăng Liên xô. Rock 'n' Roll, một vở kịch của nhà soạn kịch Tom Stoppard, có đề cập đến Mùa xuân Praha, cũng như cuộc Cách mạng Nhung năm 1989. …”[29]

Thay lời kết : BỐ ƠI ! CON KHÔNG HIỂU !

Nếu con số “68”[30] đã đi vào lịch sử văn hoá của dân tộc Tiệp-Khắc như một dấu ấn không phai mờ của một “Mùa Xuân Praha” đầy huyền thoại, một mùa xuân đã khơi gợi lên sức sống của dân chủ, tự do và những giá trị nhân văn tuyệt vời, để làm nền tảng cho sự phát triển bền vững hôm nay của đất nước nầy, dân tộc nầy, thì “Tết Mậu Thân” lại là một kỷ niệm thương đau, oan nghiệt của dân tộc Việt Nam.

Suốt 50 năm qua, đã có quá nhiều “người lớn”, trong số đó có những nhà văn, thi sĩ, nghiên cứu lịch sử, bình luận chính trị, bút ký,…đã viết, đã nói, đã toạ đàm, mổ xẻ, tranh luận…về hai biến cố lịch sử đặc biệt nầy. Nên có lẽ đã đến lúc, chúng ta cần lắng nghe tiếng nói của thế hệ trẻ hôm nay, thế hệ con cháu của những người đã từng một thời “nồi da xáo thịt”. Xin được giới thiệu bài viết “CON KHÔNG THỂ NÀO HIỂU NỖI”, như một lời kết cho những suy tư nầy, của nữ sinh Lê Trần Thu Nguyệt. Xin trích :

Lê Trần Thu Nguyệt - Lớp 12/A4 - Trường THCS III - Quận... TP/HCM

Môn Văn Học - Đề bài: “Xung quanh bạn, những thành tựu đổi mới của xã hội đất nước, có thứ nào đôi khi có thể sẽ tốt hơn, nếu: (theo suy nghĩ của bạn)...?”

Bài Làm

Sáng ngày 30 tháng 4 - Trôi theo dòng người tấp nập, tôi ngược lên cầu Thị Nghè rẽ trái đường Nguyễn Bỉnh Khiêm định vào đại lộ Lê Duẩn xem lễ duyệt binh chào mừng “Đại Thắng”, nhưng đến trước thảo cầm viên là cảnh sát công an ách lại kiểm tra, chỉ có giấy mời mới vào được khu vực trung tâm hành lễ.

Lỡ đi rồi biết làm sao, đứng bên lề đường trưa nắng như thiêu đốt, một chiếc xe bus quân đội đời mới dừng lại mở cửa hơi lạnh từ trong xe hắt ra mát rượi nhiều người đứng tuổi trên xe bước xuống, quân phục “Giải Phóng Quân” mới tinh một màu xanh lá với huân, huy chương lủng lẳng đầy ngực xếp hàng đủng đỉnh oai vệ đi sau người cầm cờ hướng vào khán đài.

Khát nước, bước qua bên kia đường mua ly nước mía, mắt tôi chợt dừng lại dưới đất cách vài bước chân ngồi bên cột đèn đường hứng cái nắng chói chang gay gắt là một bóng người lớn tuổi đen đúa cụt cả đôi chân cái nón vải sùm sụp trên đầu và chiếc áo rằn ri lá cây rừng bạc màu nắng gió trước mặt là cái lon sắt cũ kỹ đựng tiền lẽ.

Cầm ly nước mía tự nhiên đôi chân tôi bước lại, ngồi xuống 2 tay bê ly nước tôi ngỏ lời: Thưa, cho cháu mời bác ly nước và cũng không quên bỏ vào cái lon sắt tờ bạc mười ngàn đồng, ngạc nhiên bên trong cái lon sắt nằm chèo queo là cái huy chương bằng kim loại cũ mèm, tôi cầm lên ngắm nghía hỏi khẽ: bác là thương binh? Bác ấy cười móm mém: Thưa cô, tôi là phế binh chế độ cũ QL/VNCH, cái huy chương đó là “Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu” kỷ niệm trận ĐăkTô, Tân Cảnh.

Đứng ở đây xa quá không xem được gì nhiều. Tôi mua vé vào Thảo Cầm Viên kề bên, ngồi trên thảm cỏ xanh dưới bóng cây trốn cái nắng mang theo trong lòng một thứ gì đó nằng nặng, không dưng tự nhiên bỗng thấy vương vấn một thoáng ngậm ngùi...

Rồi tự hỏi: Sao cũng là người Việt Nam cũng chiến binh như nhau nhưng ngày “đại thắng” thống nhất non sông, dân tộc chứng kiến 2 số phận “Vinh Nhục” đôi đường tương phản đến não lòng như vậy?.

Rồi như tự trả lời cho chính mình: Nếu ngày xưa sau khi bị chia đôi 2 miền đất nước vào năm 1954 sao Miền Bắc, Bác Hồ không làm như miền Nam là “tuyên chiến” nhưng tuyên chiến với đói nghèo lạc hậu với nhược tiểu của một quốc gia vừa thoát tròng 100 năm nô lệ, 2 miền Bắc Nam cùng thi đua nhau, Sài Gòn ông Ngô Đình Diệm thì dựa vào viện trợ của Mỹ và các nước tư bản để phát triển cùng nhịp điệu với các quốc gia Đông Nam Á. Hà Nội thì ông Hồ Chí Minh dựa vào Liên Xô, Trung Quốc và khối Đông Âu viện trợ xây dựng lại miền Bắc sau cơn đói tang thương Ất Dậu, chưa cần thiết phải tuyên chiến đánh nhau và với vị trí đắc địa nhìn ra Biển Đông trên “đại lộ” hàng hải quốc tế thì sau hơn 60 năm (kể từ 1954) nếu sáng suốt và khôn khéo thì hôm nay chí ít 2 miền Bắc Nam đã như là Hàn Quốc - Đài Loan hay Singapore, kinh tế phát triển bao nhiêu thì xã hội kiến thức văn minh con người cũng cao theo chừng ấy và lúc này sau bao nhiêu năm, là lúc người dân 2 miền sẽ biết phải làm như thế nào để tương thích với tầm cao trí tuệ, để nhân danh nhân quyền nhất trí bằng một cuộc biểu quyết thống nhất trong êm đềm văn minh như Đông và Tây Đức trước kia và sẽ bầu tổng thống và Quốc Hội mà nhân sự là tổng hợp nhân tài trộn lẫn của cả 3 miền Trung Nam Bắc trong công bằng quang minh chính trực.

Và như vậy là hoàn toàn không có mấy triệu người, một thế hệ thanh niên rường cột quốc gia nằm xuống, không có biết bao cảnh tang thương đoạn trường do khói lửa chiến tranh bom đạn từ nước ngoài mang vào gây ra và quan trọng là đôi khi qua cuộc bầu cử thống nhất bởi trí tuệ văn minh nhân quyền đích thực của toàn dân phát triển qua 60 năm không bị chiên tranh hôm nay có thể Việt Nam không phải là một nước CS/XHCN mà được toàn dân chọn lựa là một quốc gia đa nguyên tự do dân chủ như đa phần các quốc gia trong LHQ hiện nay và vì vậy chắc chắn không có hình ảnh ngày lễ “Thống Nhất” duyệt binh mà có Bác thương binh QL/VNCH miền Nam ngồi bên vệ đường nắng bụi cùng cái huy “Anh Dũng Bội Tinh” và nhất là sẽ có gần trăm triệu người cùng chung vui chứ chẳng có triệu người nào buồn…

Tóm lại có rất nhiều thứ, nhưng một thứ lớn nhất “có thể sẽ làm cho xã hội tốt hơn rất nhiều so với ngày nay, nếu không có cuộc chiến tranh phát xuất từ miền Bắc vào miền Nam” gây ra.

----------------------------

Con gái tôi dưới nhà đi lên hỏi: Ba thấy bài viết con ra sao mà Thầy con nói “rất muốn cho em điểm 9 bài văn này, nhưng không thể”? mà con thì không thể nào hiểu nổi?

Tôi im lặng chỉ cười buồn nhìn con mình cắp cặp lên lầu chuẩn bị làm lại bài mới dù muốn nói với con: Hơn ba triệu đảng viên CSVN trong đó hàng chục ngàn Thạc Sĩ, Tiến sĩ, Giáo sư mà họ còn không muốn hiểu thì một học sinh 17 tuổi như con thì làm sao hiểu được... Một mai không còn chủ nghĩa CS trên đất nước mình ắt con sẽ hiểu mà không cần đến ai để giải thích.[31]

Trần Đoan Hùng

Tháng 4 2018

[1] Khổng-Tử đã kể lại các giai-đoạn thành-đạt của cuộc đời ngài như sau: "Ngô thập hữu ngũ nhi chí vu học, tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri thiên-mệnh, lục thập nhi nhĩ thuận, và thất thập nhi tùng tâm sở dục bất du củ" (Ta tới mười lăm tuổi mới chuyên-chú vào việc học, ba mươi tuổi mới tự-lập, bốn mươi tuổi mới thấu-hiểu hết sự lý trong thiên-hạ, năm mươi tuổi mới biết mệnh trời, sáu mươi tuổi mới có kiến-thức và kinh-nghiệm hoàn-hảo để có thể phán-đoán ngay được mọi sự-lý và nhân-vật mà không thấy có điều gì chướng-ngại khi nghe được, và bảy mươi tuổi mới có thể nói hay làm những điều đúng theo ý-muốn của lòng mình mà không ra ngoài khuôn-khổ đạo-lý). Nguồn : http://triamquan.forumvi.com/t527-topic

[2] Xem thêm tư liệu của trang mạng Bách Khoa Toàn thư mở Wikipedia : “Bên Thắng cuộc là cuốn sách tiếng Việt của nhà báo Huy Đức, gồm hai tập: Tập 1: Giải Phóng và Tập 2: Quyền Bính, được chào bán lần lượt vào 12 tháng 12 năm 2012 và 13 tháng 1 năm 2013 trên Amazon.[1] cũng như bản in với mã xuất bản ISBN 1-4840-4000-7. ISBN 1-4848-3072-5. Cuốn sách tường thuật lại những sự kiện đã xảy ra tại Việt Nam, đặc biệt là về mặt chính trị và lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, chủ yếu từ thời điểm 30/4/1975 tại Việt Nam cho tới gần đây. Cuốn sách nhận được rất nhiều tranh cãi cả khen ngợi và phê bình trên báo trong và ngoài nước cũng như dư luận. Cuốn sách là cuốn sách bán chạy nhất trong mục về Lịch sử Đông Nam Á trên trang Amazon trong tháng 12/2012. Sách in cũng được nhật báo Người Việt tại Mỹ phát hành...”. Nguồn :

https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%AAn_th%E1%BA%AFng_cu%E1%BB%99c

[3] Nguồn : Trang điện tử của Báo Nhân Dân : link : http://www.nhandan.com.vn/chinhtri/item/35175802-tong-tien-cong-va-noi-day-xuan-mau-than-nam-1968-%E2%80%93-khat-vong-hoa-binh-doc-lap-thong-nhat-cua-dan-toc-viet-nam.html

[4] Nhà văn Phạm Đình Trọng, tên và bút danh Phạm Đình Trọng, sinh năm 1944 tại Hải Phòng. Ông sáng tác nhiều thể loại như truyện ngắn, ký… Đã từng đạt giải nhì cuộc thi bút ký Báo Văn nghệ - Hội Nhà văn tổ chức (1987).

[5] Bài viết : “Tết Mậu Thân 1968 nhìn từ một nhà văn cọng sản ở Hà Nội”. Nguồn :

https://nhatbaovanhoa.com/a692/tet-mau-than-1968-nhin-tu-mot-nha-van-dang-vien-cong-san-o-ha-noi

[6] Đặng Chí Hùng, bài viết : Những sự thật không thể chối bỏ (Phần 14) Ai làm cho Huế đau thương.

Nguồn : http://danlambaovn.blogspot.com/2012/08/nhung-su-that-khong-choi-bo-phan-14-ai.html

[7] Tài liệu đã dẫn trên. (Đặng Chí Hùng, bài viết : Những sự thật không thể chối bỏ).

[8] Bài dịch của Phan Ba. Nguồn : https://phanba.wordpress.com/2018/03/14/dot-tong-tan-cong-tet-mau-than-khong-phai-la-vi-nguoi-my/

[9] Dr. Đỗ Kim Thêm L.L.M; M.A : Non Governmental Advisor, International Competition Network (ICN); Research Associate International Competition Law and Policy. United Nations Conference on Trade and Developpement (UNCTAD).

[10] Nguồn : http://www.vietnamdaily.com/?c=article&p=105886 ; hoặc : http://namle171.blogspot.com/2018/02/2476-50-nam-chien-cuoc-tet-mau-than.html

[11] Nhã Ca, tên thật là Trần Thị Thu Vân (sinh 1939), là một nữ văn sĩ người Việt với nhiều tác phẩm viết thời Việt Nam Cộng hoà, hiện định cư ở Hoa Kỳ. Nguồn : https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A3_Ca

[12] Bài viết : Sách về Mậu Thân ra mắt độc giả Mỹ của Nhà báo tự do Bùi Văn Phú Gửi cho BBC từ ĐH Berkeley (Tường thuật buổi giới thiệu bản dịch tiếng Anh tác phẩm Giải khăn sô cho Huế của Nhã Ca, nguyên bản tiếng Việt được xuất bản lần đầu tại Sài Gòn năm 1969 vào chiều thứ Tư 25/2/15, tại Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á của Đại học Berkeley. Nguồn :

http://www.bbc.com/vietnamese/forum/2015/03/150301_giai_khan_so_cho_hue_in_english

[13] Mục từ Mùa Xuân Praha. Trang mạng Bách Khoa Toàn Thư mở. Link :

https://vi.wikipedia.org/wiki/M%C3%B9a_xu%C3%A2n_Praha

[14] Ibd.

[15] Ibd.

[16] Ibd.

[17] Ibd.

[18] Ibd.

[19] Ibd.

[20] Ibd.

[21] Ibd.

[22] Ibd.

[23] Ibd.

[24] Ibd.

[25] Ibd.

[26] Ibd.

[27] Ibd.

[28] Ibd.

[29] Ibd.

[30] Ibd : Số 68 đã trở thành biểu tượng tại Tiệp Khắc cũ. Vận động viên Hockey Jaromír Jágr mặc số này bởi tầm quan trọng của nó trong lịch sử Tiệp Khắc. Một nhà xuất bản cũ có trụ sở tại Toronto, 68 Publishers, xuất bản những cuốn sách của các tác gia người Séc và Slovak đang sống lưu vong, lấy tên theo sự kiện đó.

[31] Hoàng Thanh Trúc, bài viết : Bố ơi ! Con không hiểu trên trang mạng Dân Làm Báo : Nguồn : danlambaovn.blogspot.com/2015/05/ba-oi-con-khong-hieu.html

Sunday, April 8, 2018

50 NĂM TẾT MẬU THÂN : MỞ HỒ SƠ MẬT CIA

Tai lieu Tet Mau Than_TT Johnson 04
Tổng Thống Hoa Kỳ Johnson (giữa) lắng nghe Tướng Greighton Abrams và Tư Lệnh Quân Đội Hoa Kỳ tại Việt Nam trong cuộc họp của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia vào tháng 3 năm 1968, chỉ 4 ngày trước khi ông tuyên bố không tái tranh cử TT. (LBJ Library)

Tháng Giêng năm 2018 là thời điểm đánh dấu 50 năm biến cố Tết Mậu Thân 1968, khi mà Cộng Sản Bắc Việt cùng với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, một tổ chức bù nhìn do Hà Nội dựng lên để làm tay sai tuyên truyền và phá rối địa phương tại Miền Nam Việt Nam, đã mở cuộc tấn công trên nhiều thành phố khắp Miền Nam ngay trong giờ phút thiêng liêng của Lễ Giao Thừa đón Tết cổ truyền của dân tộc.

Hệ quả của cuộc tấn công đầy dã tâm đó đã làm cho CS Bắc Việt và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam thảm bại chua chát trước sự kháng cự và phản công oanh liệt của toàn quân dân Việt Nam Cộng Hòa và Đồng Minh Hoa Kỳ quyết giữ vững từng tấc đất tự do. Có tới 36,000 du kích của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và bộ đội CS Bắc Việt đã bị giết chết trong trận tấn công Tết Mậu Thân. Nhưng nạn nhân đau thương nhất vẫn là hàng ngàn người dân Miền Nam vô tội đã chết trong bom đạn của trận chiến, hoặc đã bị du kích Mặt Trận Giải Phóng và quân đội Miền Bắc thảm sát, kinh hoàng nhất là những vụ chôn sống người tập thể tại Thành Phố Huế.

Năm mươi năm qua nhiều tài liệu viết về cuộc tấn công Tết Mậu Thân đã được biên soạn và phổ biến bởi các bên tham chiến tại Việt Nam, trong đó có Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Hòa và CS Bắc Việt.

Nhưng, các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự Hoa Kỳ đã nghĩ gì, làm gì đối với trận tấn công Tết Mậu Thân? Quân đội Hoa Kỳ và VNCH có biết trước cuộc tấn công Tết Mậu Thân của Việt Cộng và CS Bắc Việt? Tình báo Mỹ và VNCH biết gì, nói gì và làm gì đối với cuộc tấn công Tết Mậu Thân?

Vào ngày 28 tháng 4 năm 1997, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã giải mật hồ sơ "tuyệt mật," nhận được từ Cơ Quan Tình Báo Trung Ương Hoa Kỳ (CIA) gửi tới ngày 3 tháng 4 năm 1968.(1) Thêm vào đó, vào ngày 19 tháng 3 năm 2007 Cơ Quan Tình Báo CIA cũng đã phổ biến bản phân tích của Tiến Sĩ Sử Học Đại Học Chicago là Harold P. Ford, cũng là cựu viên chức tình báo CIA làm việc từ năm 1950 tới năm 1974. Bản phân tích này của Harold P. Ford là một phần của nỗ lực liên tục của Trung Tâm Nghiên Cứu Tình Báo để cung cấp sự minh bạch các hồ sơ về những hoạt động của CIA. Bản phân tích này đã được cập nhật vào ngày 12 tháng 4 năm 2016.(2) Bản phân tích này được Harold P. Ford in thành tác phẩm "CIA and the Vietnam Policymakers: Three Episodes 1962-1968."(3)

Bài viết này dựa trên hai tài liệu nói trên của Cơ Quan Tình Báo CIA và một số tài liệu khác để góp thêm tài liệu liên quan đến biến cố Tết Mậu Thân 1968.

Điều quan trọng cần nói ngay ở đây là tài liệu CIA cho thấy rằng Hà Nội đã đánh giá và lượng định sai lầm về mục tiêu và thành quả chiến lược của cuộc tấn công Tết Mậu Thân của họ. Tài liệu của CIA cho biết Hà Nội tin chắc rằng người dân Miền Nam sẽ hưởng ứng, ủng hộ cuộc tấn công của Cộng quân, đồng thời đứng lên lật đổ chính quyền Việt Nam Cộng Hòa khi du kích của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam và bộ đội của Cộng Sản Bắc Việt bất thần tấn công toàn diện vào các thành phố gồm Thủ Đô Sài Gòn vào đúng ngày Mùng Một Tết Mậu Thân. Nhưng, Hà Nội đã thất bại vì điều đó không hề xảy ra.

Vậy, tài liệu mật của CIA vừa được giải mật vào ngày 28 tháng 4 năm 1997 nói gì về cuộc tấn công Tết Mậu Thân?

Tai lieu CIA ve Tet Mau Than 01
Bản chụp lại trang 1 hồ sơ mật của CIA được giải mật ngày 28 tháng 4 năm 1997.

Hồ Sơ Mật Của CIA Về Cuộc Tấn Công Tết Mậu Thân

Câu hỏi được đặt ra trước tiên là liệu các cơ quan tình báo Hoa Kỳ và VNCH có biểt trước rằng Cộng quân sẽ mở cuộc tấn công vào dịp Tết Mậu Thân?

Phái Đoàn Các Cơ Quan Tình Báo Mỹ Điều Tra

Tài liệu cho biết rằng từ ngày 16 tới 23 tháng 3, các đại diện từ Cơ Quan Tình Báo CIA, Cơ Quan Tình Báo Quân Đội DIA, và Bộ Tổng Tham Mưa Hoa Kỳ đã đến Việt Nam để điều tra về cuộc tấn công Tết Mậu Thân của Cộng quân. Họ đã gặp Tổng Tư Lệnh Hạm Đội Thái Bình Dương (CINCPAC), Bộ Chỉ Huy Hỗ Trợ Quân Đội Hoa Kỳ tại Việt Nam (MACV) và trạm CIA tại Sài Gòn. Để giúp cho việc thu thập nhiều tài liệu thích đáng, phái đoàn đã có những cuộc họp để nghe báo cáo tin tức và thực hiện nhiều cuộc phỏng vấn, tại Sài Gòn và tại các chiến trường, với nhiều viên chức cao cấp Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa.

Về phía Hoa Kỳ, các thành viên của phái đoàn nói trên đã trao đổi với Đại Sứ Hoa Kỳ tại VN Bunker, Đại Tướng Westmoreland, Đại Tướng Abrams, Đại Sứ Komer, Trung Tướng Cushman, Trung Tướng Rosson, Thiếu Tướng Peers, Thiếu Tướng Eckhardt, và các tướng chỉ huy trưởng Sư Đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến và Sư Đoàn 4 Bộ Binh. Họ cũng đã phỏng vấn nhân viên tình báo của Quân Đoàn I và II và nhân viên tình báo của Lực Lượng Thủy Quân Lục Chiến Quân Đoàn III, và các cố vấn tình báo và viên chức CIA Khu Vực tại tất cả 4 Vùng Chiến Thuật. Họ đã nghe báo cáo từ Cơ Quan Hỗ Trợ Quân Đội Hoa Kỳ tại Việt Nam MACV J-2 và trạm CIA tại Sài Gòn, và đã gặp Giám Đốc Tình Báo, Đơn Vị Không Quân Số 7, Đại Diện Cơ Quan An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ NSA tại Việt Nam, Bộ Tư Lệnh Quân Khu Tại Sài Gòn.

Về phía Việt Nam Cộng Hòa, phái đoàn nói trên đã phỏng vấn các tướng tư lệnh Quân Đoàn I và II, Cơ Quan J-2 của Tổng Tham Mưu Trưởng Liên Quân và phụ tá, và phó giám đốc Quân Cảnh. Các thành viên của phái đoàn Hoa Kỳ cũng đã đích thân đến Phú Bài, Đà Nẵng, Pleiku, Camp Enari, Nha Trang, Biên Hòa, Long Bình, và Cần Thơ để tìm hiểu tình hình tại chỗ.

Những Phát Hiện Tổng Quát

Qua cuộc điều tra của phái đoàn đại diện nhiều cơ quan tình báo quốc gia Mỹ nói trên đưa tới một số phát hiện cho thấy như sau.

1/ Cơ Quan CIA đã thông báo cho Hội Đồng Cố Vấn Tình Báo Hải Ngoại của Tổng Thống [Hoa Kỳ] vào tháng 2, có bằng chứng, tại Sài Gòn và Washington, rằng địch quân (CS) đang tiến hành "chiến dịch đông-xuân" ồ ạt và đang chuẩn bị hàng loạt vụ tấn công có phối hợp điều binh, có thể trên phạm vi lớn chưa từng có từ trước tới nay. Có bằng chứng trong tháng 1 rằng một số vụ tấn công tại cao nguyên có thể sẽ được thực hiện trong dịp nghỉ lễ Tết. Một phần báo cáo sau đó trong tháng này cho thấy có chứng cứ rằng nhiều cuộc tấn công khác sắp xảy ra, và một số mục tiêu đã được xác định. Tại Sài Gòn và Washington báo cáo tình báo này đã được trình cho các giới chức quân sự và chính trị cao cấp. Kết quả, hàng loạt hành động đã được thực hiện tại Việt Nam đưa tới việc giảm bớt ảnh hưởng của cuộc tấn công của địch quân.

2/ Việc cảnh báo đã được cung cấp như thế cho thấy không có thành tích nhỏ nào đạt được đối với bộ máy tình báo của Hoa Kỳ tại Việt Nam. Nó cho thấy không có sự xâm nhập bí mật cấp cao nào vào trong hệ thống cấp bậc lãnh đạo Cộng Sản và các cơ quan truyền thông Cộng Sản cao cấp là phần không thể biết được nhiều nhất. Do đó, nó phải dựa vào các kỹ thuật đặc trưng cổ điển. Cách này thì thật là khó thực hiện ở bất kỳ hoàn cảnh nào. Tự thân tổ chức tình báo quân đội và dân sự của Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa thì phức tạp và rộng lớn để nó đảm đang. Vì vậy, những báo cáo từ nguồn tình báo nhân sự đã không được chú ý.

3/ Địch quân đã sơn phết rất giỏi để che đậy ý định của chúng. Nhận biết được các kế hoạch của chúng hoàn toàn bị ngăn chận và lệnh tấn công thực sự đã được phổ biến cho các đơn vị tấn công chỉ từ 24 tới 72 giờ sau cùng trước cuộc tấn công. Dù các viên chức thẩm quyền Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa đã nhận được một số báo cáo về các kế hoạch tấn công riêng rẽ, có thể không một lãnh đạo Cộng Sản cấp thấp của Cục Trung Ương Miền Nam (COSVN), mặt trận, hay quân khu nào biết được toàn bộ phạm vi cuộc tổng tấn công. Đại Tướng Westmoreland tin rằng Cộng Sản đã hy sinh sự phối hợp điều quân cho sự bảo mật an toàn, và đây là chứng cứ trong các cuộc tấn công sớm bởi nhiều đơn vị của Quân Khu 5 (MR 5) trong đêm 29-30 tháng Giêng năm 1968, nhờ các cuộc tấn công sớm này đã đóng vai trò cảnh báo các chỉ huy Hoa Kỳ đối với nhiều cuộc tấn công mở rộng trong đêm tiếp theo.

4/ Bất kể các biện pháp an ninh bí mật của Cộng quân, thông tin tình báo cũng có thể cung cấp cảnh báo rõ ràng rằng các cuộc tấn công, có thể trên diện rộng lớn nhất từ trước tới nay, được đưa ra. Nhiều thông điệp của địch quân bao gồm các cấp trung bình và thấp đã được đọc. Những thông điệp này xuất hiện tại nhiều vùng của Nam Việt Nam. Chúng bao gồm những ám chỉ các cuộc tấn công sắp xảy ra, rộng lớn và nhiều hơn bất cứ khi nào trước đó. Chúng cho thấy một ý nghĩa khẩn cấp, cùng với sự nhấn mạnh qua kế hoạch và bí mật chưa từng thấy trước đây trong các thông tin như thế. Tuy nhiên, các biểu thị đó đã không đủ để tiên đoán thời gian chính xác của cuộc tấn công.

tai lieu CIA ve Tet Mau Than 02
Bản chụp lại trang web tài liệu của CIA có bản phân tích của Tiến Sĩ Harold P. Ford.

Ảnh Hưởng Của Cuộc Tổng Tấn Công

Dù việc cảnh báo đã được đưa ra như thế, nhưng cường độ, sự phối trí điều quân, và thời gian của cuộc tấn công của địch quân đã hoàn toàn không được tiên đoán. Yếu tố quan trọng nhất là thời gian. Có rất ít giới chức Hoa Kỳ hay VNCH tin rằng địch quân sẽ tấn công trong ngày Tết, quần chúng Việt Nam cũng không tin như thế. Tết là ngày lễ quan trọng nhất tại Việt Nam, là dịp mà tất cả thành viên trong gia đình bất kể là Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, hay Cộng Sản đều giữ gìn. Rõ ràng là Cộng Sản tin rằng họ có thể khai thác sự đồng nhất này để tạo ra cuộc nổi dậy chống chính quyền, chống quân đội ngoại nhập, chống chiến tranh. Nhưng điều này đã không xảy ra. Do đó, địch quân đã phải trả giá đắt trong sự đối kháng mà họ tạo ra trong các thành phố đông dân, nhưng họ đã thu hoạch rất lớn trong 2 cách: Quân số hiện diện của quân đội và cảnh sát VNCH rất thấp so với mức ổn định bình thường, và thông lệ sinh hoạt nhộn nhịp của ngày Tết làm cho Cộng quân có thể đưa một số lượng lớn Việt Cộng vào các thành phố mà không bị phát hiện. Đại tướng Westmoreland dự đoán các cuộc tấn công quy mô trước hoặc sau Tết, và khi gần Tết và nhiều vụ tấn công lớn đã không được thực hiện, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội VNCH đã cho 50% lính về nghỉ Tết. Vì vậy sức mạnh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tại những vùng cho phép binh sĩ về nghỉ Tết đã bị sút giảm.

Yếu tố lớn thứ hai không tiên liệu được là số vụ tấn công xảy ra cùng một lúc. Tình báo Hoa Kỳ có cho biết địch quân có khả năng tấn công tất cả các địa điểm mà thực tế họ đã tấn công và việc nối kết cảc cuộc tấn công có phối hợp tại nhiều vùng. Tuy nhiên, tình báo Mỹ đã không nói đến khả năng đặc biệt các vụ tấn công có phối hợp trên tất cả khu vực cùng một lúc. Điều quan trọng hơn nữa là tính chất của các mục tiêu đã không được tiên liệu trước.

Washington và Sài Gòn đã dự đoán các vụ tấn công tại một số thành phố, nhưng họ đã không dự đoán được cuộc tấn công để chiếm một số cơ sở trong thành phố như bộ chỉ huy dân sự và các trung tâm kiểm soát, các đài phát thanh và các trụ sở cảnh sát như là những mục hàng đầu. Sau cùng, phẩm chất của các loại vũ khí mới, tối tân được Lực Lượng Việt Cộng Chính Quy và Địa Phương sử dụng trong các cuộc tấn công là điều vượt xa dự đoán. Súng AK-47 và lựu đạn chống xe tăng RPG-7 đặc biệt có hiệu quả chống lại các đơn vị chính quy và Lực Lượng Địa Phương Quân và Nghĩa Quân của Quân Lực VNCH.

Nằm dưới những vấn đề đặc biệt này là điều cơ bản hơn: hầu hết các vị tư lệnh và viên chức tình báo, ở tất cả các cấp, đều không thấy được địch quân có khả năng hoàn thành các mục tiêu đã đề ra như chúng xuất hiện trong tuyên truyền và trong các tài liệu đã tịch thu được của chúng. Các phỏng đoán phổ biến về sự hao hụt, thâm nhập và tuyển dụng người tại địa phương, các báo cáo tinh thần xuống giốc, và hàng loạt những vụ bại trận đã hạ thấp hình ảnh của địch quân. Bức tranh toàn cảnh được trình bày là một kẻ thù không có khả năng thực hiện một cuộc tấn công trên phạm vi và cường độ mạnh như thế. Các vị chỉ huy và các viên chức tình báo đã nhìn những lời kêu gọi được phổ biến về một "cuộc tổng nổi dậy" chỉ như là lời hô hào, và không phải là bản kế hoạch cho việc sắp làm. Hơn nữa, trong quá khứ nhiều "cuộc tấn công lớn" đã được công bố trong tuyên truyền của Cộng Sản nhưng thực tế đã không được thực hiện.

Phản Ứng Với Những Cảnh Báo

Washington và Sài Gòn, như đã trình bày ở trên, đều hiểu rõ rằng địch quân đã đặt kế hoạch cho một cuộc tấn công lớn, có thể là những cuộc tấn công có phối hợp tại phía bắc Vùng I Chiến Thuật, tại Dak To trên cao nguyên Vùng II Chiến Thuật, và hướng về Sài Gòn từ tất cả mọi phía tại Vùng III Chiến Thuật. Vào ngày 10 tháng 1 năm 1968, Đại Tướng Westmoreland đã hủy bỏ một số hoạt động đã được lên kế hoạch tại phía bắc Vùng III Chiến Thuật để tái bố trí lại các lực lượng Hoa Kỳ tới gần Sài Gòn hơn. Trong những ngày kế tiếp, ông đã đưa ra hàng loạt cảnh báo cho các vị tư lệnh của ông, và cho các cơ quan Hoa Kỳ, rằng địch quân đang chuẩn bị tấn công. Dù ông ấy đã không dự đoán từ đầu các cuộc tấn công trong dịp Tết, ông ấy đã nhận thức được tầm quan trọng của các cuộc tấn công sắp xảy ra tại Quân Khu 5 [của Việt Cộng] và trong thông báo gửi cho tất cả các vị tư lệnh của ông vào ngày 30 tháng 1 dự đoán các cuộc tấn công vào đêm đó. Kết quả, tất cả các đơn vị Hoa Kỳ đều được cảnh giác đầy đủ, dù trong hầu hết trường hợp họ đã không có thì giờ hay thông tin để thực hiện các biện pháp phản công chống lại địch quân trước khi chúng tấn công thực sự. Tất cả các căn cứ của Đơn Vị Không Quân Số 7 đều được đặt trong tình trạng cảnh giác tối đa, và Giám Đốc Tình Báo của Đơn Vị Không Quân Số 7 đã xác thực rằng bước này để "bảo toàn Phi Trường Tân Sơn Nhất." Có lẽ chứng cứ tốt nhất mà các biện pháp của Bộ Tư Lệnh Hỗ Trợ Quân Đội Hoa Kỳ tại VN là hiệu quả và rằng tình báo chiến lược của địch quân là sai lầm đó là, với ngoại trừ Huế ra, địch quân đã thất bại trong việc giữ được bất cứ mục tiêu quân sự chính nào trong một khoảng thời gian đáng kể.

Tuy nhiên, cảm giác khẩn trương tại Sài Gòn thì không được cảm nhận đầy đủ tại Washington ngay thời điểm trước cuộc tấn công. Kết quả, báo cáo tình báo được phổ biến tại Washington đã không chứa đựng không khí khủng hoảng hiện hữu tại Sài Gòn. Điều sai lầm này không phải do bất cứ ai. Thông tin sẵn có đã được truyền đạt và được phân tích hợp lệ, nhưng không khí thì không thể chuyển qua đường dây điện thoại. Dù các viên chức cao cấp tại Washington đã nhận được các cảnh báo vào thời gian từ ngày 25 đến 30 tháng 1, họ đã không nhận được trọn vẹn cảm giác tức thì và mãnh liệt đã hiện hữu tại Sài Gòn. Mặt khác, với Sài Gòn đã cảnh giác, hầu như không có gì có thể được làm thêm nữa tại Washington mà sự trễ nãi trong cuộc chơi đã có thể ảnh hưởng đến kết quả.

Trong bức tranh tổng quát này, có nhiều khác biệt đáng kể trong số 4 quân khu. Sư Đoàn III Thủy Quân Lục Chiến [Hoa Kỳ] được dự đoán sẽ bị tấn công tại Khe Sanh và Quảng Trị. Tin tình báo đó đã nhận được từ cơ sở CIA địa phương về chiến dịch mà địch quân sẽ tấn công Đà Nẵng, nhưng không có ngày giờ. Tướng Cushman nói rằng ông dự đoán sẽ bị tấn công vào dịp Tết, và các hoạt động của địch quân tại phía bắc Vùng I Chiến Thuật đã làm cho giới chức cao cấp hủy bỏ ngưng bắn dịp Tết tại Vùng I Chiến Thuật. Kết quả, các lực lượng Hoa Kỳ và VNCH đã được chuẩn bị tốt hơn những nơi khác. Hầu hết các đơn vị quân đội VNCH đều có quân số gần như đầy đủ. Sự kéo dài và phối hợp của các cuộc tấn công của địch quân, đã vượt quá mức dự đoán, như địch quân đã chiếm cứ lâu dài tại Huế. Tuy nhiên, nhìn chung, các cuộc tấn công của Cộng quân đã dễ dàng bị phản công.

Tại Vùng II Chiến Thuật, lực lượng đồng minh tại các vùng ven biển là phần bị tấn công nhiều nhất trong đêm 29-30 tháng Giêng bởi các đơn vị Việt Cộng. Họ đã không có lợi thế của việc báo trước mà những cuộc tấn công này cung cấp nhiều đơn vị đi xa xuống phía nam, họ cũng không ở trong tư thế "cảnh giác" các lực lượng Đồng Minh tại Quân Khu I. Các lực lượng Đồng Minh thì ở trong tình trạng cảnh giác cao hơn bình thường, tuy nhiên, họ đã được điều hướng để chống lại những vụ vi phạm ngưng chiến chắc chắn xảy ra hơn là với các cuộc tấn công tại các thành phố. Tại các vùng cao nguyên, không giống bất kỳ khu vực nào khác, tình báo sẵn sàng từ thông tin liên lạc, tù nhân, phản ánh các kế hoạch cụ thể đối với các cuộc tấn công trong dịp Tết. Thí dụ, các kế hoạch của Việt Cộng cho việc tấn công Dak To, Pleiku, và Kontum đều được biết trước rõ ràng, và Sư Đoàn 4 Hoa Kỳ đã có thể liên kết chúng với các cuộc bố trí quân của địch. Điều này cung cấp một trong vài cơ hội cho lực lượng Hoa Kỳ để thực hiện các biện pháp năng động chống lại địch quân; Pleiku là chiến dịch tấn công của Hoa Kỳ thành công nhất. Tình báo tại những nơi khác ở cao nguyên thì không tốt bằng, nhưng đã có đủ thông tin để khiến cho 2 trong số 3 tư lệnh sư đoàn của Quân Đội VNCH tại Vùng II Chiến Thuật hủy bỏ tất cả các cuộc nghỉ phép. Tuy nhiên, chúng ta không tin rằng các lệnh này có hiệu quả toàn diện trong việc phục hồi nhân lực mà đã đi trước.

Như đã đề cập ở trên việc tái bố trí quân đội Hoa Kỳ tại Vùng III Chiến Thuật đã bắt đầu vào giữa tháng 1. Các hoạt động này được bắt nguồn bởi việc tập trung của 3 sư đoàn địch quân dọc theo biên giới Cam Bốt nằm ở phía bắc và tây bắc Sài Gòn và bởi các chỉ dấu rằng những đơn vị này bắt đầu điều động quân xuống phía nam hướng về thành phố [Sài Gòn]. Hơn nữa, các sĩ quan tình báo của Hoa Kỳ và VNCH suy đoán trước đó từ sự tái tổ chức của cơ cấu chỉ huy của địch quân tại Quân Khu 4 [của VC], bao quanh khu vực Sài Gòn, mà mục đích của họ là để cải thiện việc chỉ huy và kiểm soát cho việc phối trí một cuộc tấn công vào thành phố [SG]. Quân Khu III và Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II đã được đặt trong tình trạng cảnh giác chung vào ngày 30 tháng 1 (Các hành động của Tướng Westmoreland bắt nguồn từ các cuộc tấn công tại Quân Khu 5 [VC] vào đêm trước đó), và trong thời gian của ngày đó đã nhận được tin cụ thể rằng Sài Gòn sẽ bị tấn công vào đêm đó. Tại hầu hết các đơn vị Quân Đội VNCH tại Quân Đoàn III binh sĩ có vẻ ở trong tình trạng ăn Tết bình thường.

Tại Vùng 4 Chiến Thuật, tính chất và mức độ của các cuộc tấn công của địch quân đã hoàn toàn không được tiên liệu. Các lực lượng Đồng Minh đã ý thức rằng khả năng của Việt Cộng đã được cải thiện. Một phúc trình của Cơ Quan An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ (NSA) vào ngày 25 tháng 1, đã cảnh báo về khả năng có thể có các cuộc tấn công sắp xảy ra tại những khu vực khác, nói rằng các đơn vị tại "vùng Nam Bộ," gồm Vùng Đồng Bằng [Sông Cửu Long], cũng có thể bị tấn công. Việc cung cấp các loại vũ khí tối tân đã gia tăng và Việt Cộng cho thấy khả năng thực hiện hàng loạt các cuộc tấn công có phối hợp trên khắp Vùng Đồng Bằng. Tuy nhiên, ở mức độ nào đó, điều này có thể được diễn giải như là các phản ứng đối với tư thế mạnh mẽ hơn của đồng minh tại vùng này. Tại các thành phố trong Vùng Đồng Bằng [Sông Cửu Long] sự hiện diện của Việt Cộng trong dịp Tết là rất truyền thống vì được chấp nhận như là thói quen. Tướng Eckhardt, Cố Vấn Cao Cấp, nói rằng cảnh giác duy nhất mà ông nhận được là lời cảnh giác của Tướng Westmoreland vào ngày 30 tháng 1. Tướng Eckhardt đã có thể cảnh giác các đơn vị hỗ trợ và hậu cần Hoa Kỳ tại Vùng Đồng Bằng, nhưng không thể có thời gian để phục hồi lại đủ quân số các đơn vị Quân Đội VNCH. Tư Lệnh Quân Đoàn của VNCH và 3 tư lệnh sư đoàn của ông ấy đã có mặt tại tổng hành dinh khi cuộc tấn công nổ ra, nhưng các đơn vị của họ thì quá yếu ớt.

Tai Lieu CIA Ve Bien Co Tet Mau Than 03
Trang bìa sách "CIA and the Vietnam Policymakers: Three Episodes 1962 -1968."
Các Công Điện Giữa Sài Gòn và Hoa Thịnh Đốn

Sau đây là một số công điện báo cáo và trao đổi giữa Sài Gòn và Hoa Thịnh Đốn từ Tổng Thống Johnson, Bộ Quốc Phòng, Bộ Ngoại Giao, CIA, Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam để cho thấy thêm một số chi tiết về các cảm nhận, nhận định và phản ứng của các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự Hoa Kỳ đối với cuộc tấn công Tết Mậu Thân của Việt Cộng. Tài liệu này trích dịch từ văn kiện của Phòng Lịch Sử của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ có tên, "Các Quan Hệ Ngoại Quốc Của Hoa Kỳ, 1964-1968, Tập VI, Việt Nam, Từ Tháng 1 đến tháng 8 năm 1968."(4) Xin trích dịch mấy điểm đáng quan tâm như sau.

44. Ghi Nhớ Được Chuẩn Bị tại Cơ Quan CIA
Washington, Ngày 2 Tháng 2 Năm 1968
Chủ đề: Việt Nam Cú Sốc Của Cuộc Tấn Công

1/ Trận tấn công Tết Mậu Thân rõ ràng cho thấy sức mạnh của Việt Cộng vấn tiếp tục mà qua đó kêu gọi cái nhìn mới trong phương thức của chúng ta [Mỹ] đối với chiến tranh Việt Nam và đối với Chính Quyền Việt Nam Cộng Hòa. Qua nhiều năm các nhà lãnh đạo Việt Nam [Cộng Hòa] đã phát triển sự chắc chắn tự mãn rằng sự hậu thuẫn của người Mỹ là bất biến. Hệ quả là họ đã cảm thấy thoải mái để tiến hành cuộc chiến từ từ, hài lòng trong vòng lẩn quẩn của các nhân vật lãnh đạo và chỉ chú ý ngẫu nhiên đối với việc huy động sự hậu thuẫn và tham gia rộng rãi của dân chúng một cách tích cực vào cuộc chiến.

Trận tấn công Tết Mậu Thân có thể được sử dụng trong cuộc tấn công trực diện vào các thái độ và thói quen này, bởi vì nó biểu thị một cách áp lực rằng Chính Quyền VNCH mất một số đặc tính chính của chủ quyền. Họ [VNCH] không thể bảo vệ các mặt trận nếu không có nửa triệu binh sĩ Hoa Kỳ và ngay cả không thể làm cho Tòa Đại Sứ Mỹ sử dụng Tòa Đại Sứ của mình.

Cuộc tấn công này khẳng định lập trường từ lâu rằng nỗ lực của Hoa Kỳ tại Việt Nam chỉ để giúp người dân Việt Nam tự giúp họ, không phải để chiến đấu thay cho họ. Quan điểm này đã được trình bày trong một cuộc phỏng vấn nhanh chóng trước đây giữa Đại Sứ Bunker, có sự tham dự của Tướng Westmoreland, Tổng Thống Thiệu và Phó Tổng Thống Kỳ.

2/ Cuộc tấn công Tết Mậu Thân bởi Việt Cộng cũng cho thấy sự yếu kém của nền an ninh của Chính Quyền VNCH và sự thiếu vắng giải pháp phổ biến góp phần chống Việt Cộng, với ám chỉ rằng các viễn kiến thành công và những kế hoạch lâu nay là không đủ. Điều này cần được hiểu rằng chủ nghĩa từ từ không còn được chấp nhận như là phương thức về phía chúng ta đối với cuộc chiến và nó cần được nói ra một cách áp lực rằng từ nay Chính Phủ VNCH phải theo sự chỉ thị của Hoa Kỳ trong một kế hoạch điều chỉnh tình trạng của chiến tranh.

3. Trong kế hoạch nói trên, Hoa Kỳ đòi hỏi Tướng Nguyễn Đức Thắng phải được công cử làm Tổng Trưởng Nội Vụ và Quốc Phòng, với "toàn quyền" hành xử cơ chế quân sự, cảnh sát và bộ binh.

Tham Mưu Trưởng Liên Quân Tướng Cao Văn Viên phải được chỉ thị rằng tất cả quân lực VNCH từ nay sẽ được sử dụng để hỗ trợ trực tiếp trong việc tham gia chương trình do Tướng Thắng chỉ huy.

5. Tổng Thống Thiệu phải tìm kiếm sự chấp thuận của Quốc Hội để thành lập Hội Đồng Chiến Tranh và Tái Thiết. TT Thiệu phải làm Chủ Tịch Hội Đồng Chiến Tranh và Tái Thiết, và Phó TT Kỳ làm Phó Chủ Tịch và Giám Đốc Hoạt Động, Tướng Thắng làm Phó Giám Đốc Hoạt Động, và có các đại diện của các Bộ, Quân Đội cũng như Thượng và Hạ Viện. Hội Đồng Chiến Tranh và Tái Thiết phải có các Hội Đồng Chiến Tranh và Tái Thiết ở các cấp tỉnh và quận, có sự tham gia của các hội đồng tỉnh và quận.

7. TT Thiệu phải được cho biết rằng chúng ta [Hoa Kỳ] xem chương trình này phải có các thành quả tích cực trong vòng 100 ngày sau Tết (tức đầu tháng 5). Nếu không như vậy hay TT Thiệu từ chối đề nghị này, thì phải cho ông ấy biết rằng Hoa Kỳ sẽ thay đổi lập trường tôn trọng Chính Phủ VNCH. Trong trường hợp này, TT Thiệu nên hiểu là Hoa Kỳ có thể tìm một Chính Phủ VNCH khác thay thế.

48. Công Điện Tình Báo Từ Giám Đốc Sở Tình Báo và Nghiên Cứu (Hughes) Gửi Cho Ngoại Trưởng Rusk
Washington, Ngày 3 Tháng 2 Năm 1968
Số 97, chủ đề: Việt Nam: Phỏng Đoán Chiến Lược Của Cộng Sản Trong Những Tháng Tới

Các sự kiện trong nhiều ngày qua cho thấy rằng Cộng Sản đã lao vào một chiến dịch được hoạch định rất kỹ lưỡng của những nỗ lực có sự hậu thuẫn nhiều mặt về quân sự, chính trị và ngoại giao để làm sụp đổ hoàn toàn vị thế của Chính Phủ VNCH và xóa sổ nền tảng chính trị đối với sự hiện diện của Hoa Kỳ tại Việt Nam. Nếu điều này đã được phát triển, thì những cuộc thương lượng đã có thể bảo đảm thành công hơn là con đường dẫn tới tình cảnh mà trong đó sự thành công có thể đạt được. Trong khi đó, họ sẽ tiếp tục mở ngỏ khả năng thương thuyết.

49. Ghi Nhớ Từ William J. Jorden của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Gửi Cho Phụ Tá Đặc Biệt (Rostow) của Tổng Thống
Washington, Ngày 3 Tháng 2 Năm 1968,
Chủ đề: Tình Hình Tại Việt Nam

Trước hết, quan điểm của tôi là hàng loạt các cuộc tấn công có phối hợp tốt của Cộng Sản Bắc Việt/Việt Cộng trên tất các vùng trên toàn quốc cho thấy sự thất bại rõ ràng đối với Chính Phủ tại Sài Gòn và đối với chúng ta. Tôi cho rằng những sự kiện này là thất bại bởi vì:

-chúng phản ảnh sự thất bại tồi tệ nhất của tình báo chiến tranh. Nếu Việt Cộng và CS Bắc Việt có thể di chuyển có lẽ 30,000 lính đến nơi để tấn công tại tất cả các vùng trên toàn quốc mà không bị phát hiện, thì có điều gì đó sai lầm với hệ thống tình báo của Chính Phủ VNCH.

-cuối cùng, rõ ràng từ báo cáo tình báo trong vòng một hai ngày qua rằng nhiều người dân Việt Nam đã được chuẩn bị để tin và để tung tin đồn hoang đường về người Mỹ -- rằng chúng ta đã giúp Việt Cộng vào Sài Gòn, rằng chúng ta đang làm việc với VC để dựng lên một chính phủ liên hiệp, mà chúng ta đang tìm cơ hội để rút khỏi [VN], v.v... Điều này đối với tôi có nghĩa là tuyên truyền của VC cực kỳ ảnh hưởng.

53. Điện tín từ Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam gửi cho Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ
Sài Gòn, ngày 4 tháng 2 năm 1968,
1100Z; Số 17920. Từ Đại Sứ Hoa Kỳ tại VN Bunker gửi cho Tổng Thống Hoa Kỳ. Kèm theo báo cáo hàng tuần lần thứ 37 của tôi

7. Rằng những cuộc tấn công lan rộng có phối hợp sẽ có kết quả thất bại quân sự to lớn đối với địch quân mà bằng chứng cụ thể là trong số lượng tử thương được báo cáo vào sáng Thứ Bảy. Từ 6 giờ chiều ngày 29 tháng 1 lúc bắt đầu thời điểm ngưng bắn dịp Tết, tới nửa đêm, ngày 2 tháng 2, theo số liệu của chúng tôi, 12,704 địch quân bị giết chết, và 3,576, đa phần sẽ trở thành tù bình chiến tranh, bị bắt giam; 1,814 người và 545 toán quân sử dụng vũ khí bị bắt. Đồng Minh có 983 người bị tử thương mà trong đó 318 binh sĩ Hoa Kỳ, 661 binh sĩ VNCH, và 4 quân nhân thuộc Thế Giới Tự Do; số quân đồng minh bị thương là 3,483 người. Số tử thương của địch quân trong vài ngày này được xem là lớn hơn bất cứ tháng nào trước đây trong cuộc chiến. Dựa trên số địch quân bị giết, tôi đã hỏi Tướng Westmonreland về con số phỏng đoán tổng số địch quân bị giết và ông ấy cho biết ông nghĩ là con số này có thể lên tới 36,000.

62. Điện tín từ Tòa Đại Sứ Mỹ tại Việt Nam gửi Bộ Ngoại Giao
Sài Gòn, ngày 8 tháng 2 năm 1968, số 1115Z.
Số 18582. Gửi cho Tổng Thống từ Đại Sứ Bunker. Kèm theo báo cáo hang tuần lần thứ 38 của tôi

B) Số lượng địch quân tham gia trận tấn công được xem là lớn hơn phỏng đoán mà tôi đã báo cáo trong phúc trình lần trước của tôi. Phỏng đoán hiện nay là 52,000 quân địch, cộng với 10,000 du kích, tổng cộng có tới 62,000 quân địch, tham chiến trong các cuộc tấn công khắp nơi.

E) Từ sáng sớm ngày 31 tháng 1 cho tới nửa đêm ngày 7 tháng 2, địch quân đã mất gần 25,000 quân, gần 5,000 quân bị bắt, hơn 5,500 người và gần 900 toán quân sử dụng vũ khí. Về phe ta thì 2,043 binh sĩ tử vong (gồm 703 binh sĩ Hoa Kỳ, 1,303 binh sĩ VNCH, và 37 binh sĩ Thế Giới Tự Do), ít hơn 1/12 tổn thất của địch quân. Tướng Westmoreland cho biết rằng số quân địch bị giết nói trên là chưa kể số địch quân bị chiến đấu cơ và đạn pháo giết chết.

H) Sáng nay, ngày 8 tháng 2, số người tị nạn tại khu vực thành phố Sài Gòn là 93,000 và trên toàn quốc là khoảng 190,000 người. Tới giờ này, có 31 tỉnh trong số 50 tỉnh báo cáo, tổng số người di tản có thể đạt tới từ 250,000 tới 300,000 người. Khoảng 15,000 căn nhà bị phá hủy được báo cáo, chắc chắn sẽ còn gia tăng. Số thường dân bị thiệt mạng qua báo cáo sơ khởi là 800 người chết, 7,500 người bị thương, dù thực tế nhiều hơn.

Ngoài ra, trong tác phẩm "CIA and the Vietnam Policymakers: Three Episodes 1962-1968," nói trên, Harold P. Ford cho biết rằng chỉ trong 2 ngày đầu của cuộc tấn công Tết Mậu Thân, địch quân đã tấn công vào 39 trong số 44 thành phố của Nam Việt Nam, trong số đó 5 trong 6 thành phố lớn đông dân đã bị tấn công, 71 trong số 242 quận lỵ bị Cộng quân tấn công. Tại Thủ Đô Sài Gòn, 11 tiểu đoàn Việt Cộng địa phương đã tấn công vào dinh tổng thống, Phi Trường Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực VNCH, và nhiều địa điểm khác; không ít, họ đã xâm nhập và tràn vào một khoảng thời gian nào đó trong khuôn viên Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ. Harold P. Ford cho biết thêm rằng CIA phỏng đoán cho tới tháng 5 năm 1968, Cộng quân có khoảng từ 450,000 tới 600,000 quân tại Miền Nam VN.

Trong tài liệu của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ có tên "Foreign Relations, 1964-1968, Volume VI, Vietnam, January-August 1968," số 32-49, từ ngày 30 tháng 1 đến ngày 8 tháng 2: Trận Tấn Công Tết, ghi chú của ban biên tập số 33, cho thấy rằng có tới 84,000 Cộng quân gồm quân đội Bắc Việt và Việt Cộng tham gia vào các cuộc tấn công Tết Mậu Thân trên toàn Miền Nam.(5)

Theo tài liệu "Vietnam War: Tet Offensive, Cia - Department Of Defense - State Dept Files, South Vietnamese Army History - U.S./South Vietnam Army Photos, nói về trận tấn công Tết Mậu Thân tại Huế cho biết rằng Cộng quân đã chiếm giữ 26 ngày, với khoảng 12,000 lính gồm bộ đội Bắc Việt và Việt Cộng địa phương. Báo cáo cho biết có từ 2,000 tới 3,000 công chức, cảnh sát của chính quyền VNCH, và những thành phần khác mà Cộng Sản gọi là phản cách mạng đã bị Việt Cộng thảm sát tại Huế trong thời gian đó. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ chưa tới 2,500 binh sĩ đã chống cự và đánh bại hơn 10,000 Cộng Quân và đã giải phóng thành Phố Huế.(6)

Tài liệu này cũng nói rằng cuộc tấn công Tết Mậu Thân về mặt chiến thuật đã đánh bại các lực lượng Việt Cộng và Bắc Việt. Cuộc tấn công Tết Mậu Thân cũng được mọi người xem như là khúc quanh trong chiến tranh Việt Nam dù tổn thất của Cộng Sản rất lớn lên tới 32,000 quân bị giết và khoảng 5,800 lính bị bắt.

Một trong những hệ quả của trận tấn công Tết Mậu Thân, theo tài liệu này, là chính phủ Johnson nhận ra rằng muốn chiến thắng cuộc chiến VN thì Hoa Kỳ phải tăng quân số -- quân số lính Mỹ tại VN lúc đó đã lên tới 525,000 -- và chi phí nhiều hơn là những gì người dân Mỹ muốn. Vào ngày 31 tháng 3 năm 1968, Johnson tuyên bố không tái tranh cử nhiệm kỳ kế tiếp, công bố ngưng ném bom Bắc Việt, và thúc giục Hà Nội đồng ý hòa đàm.

Vào đầu tháng 1 năm 1969, hòa đàm Paris bắt đầu diễn ra với sự tham dự của đại diện 4 bên, gồm Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Hòa, Cộng Sản Bắc Việt, và Mặt Trận Giải Phóng. Tháng 6 năm 1969, Hà Nội lập Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam (PRG).

Tet Mau Than_Cau Trang Tien tai Hue bi gay do 06
Add caption
Cầu Tràng Tiền tại Thành Phố Huế bị gãy đổ trong cuộc tấn công Tết Mậu Thân.( www.tripadvisor.com )


Kết Luận

Năm mươi năm trôi qua, sự thật về cuộc tấn công Tết Mậu Thân năm 1968 đã được phơi bày ra ánh sáng bởi rất nhiều tài liệu giá trị, đúng đắn và đáng tin cậy, gồm hồ sơ mật của CIA, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ. Nhưng, chính quyền CSVN cho đến nay vẫn không dám công khai thừa nhận thất bại và sai lầm của họ trong cuộc tấn công Tết Mậu Thân, mà trong đó họ đã lợi dụng ngày Tết cổ truyền thiêng liêng nhất của dân tộc để mở các cuộc tấn công và giết hại thường dân vô tội, như trường hợp thảm sát hàng ngàn sinh mạng tại Huế.

Tại sao? Một chế độ không dám nhìn nhận sự thật như thế, dù đó là sự thật lịch sử không thể phủ nhận, thì có phải là một chế độ đáng để người dân tin cậy chăng?

Xin cầu nguyện cho tất cả những nạn nhân của biến cố Tết Mậu Thân được siêu thoát.

Huỳnh Kim Quang

Chú Thích:
(1) https://www.cia.gov/library/readingroom/docs/DOC_0000097712.pdf

(2) https://www.cia.gov/library/center-for-the-study-of-intelligence/csi-publications/books-and-monographs/cia-and-the-vietnam-policymakers-three-episodes-1962-1968/epis3.html

(3) https://www.cia.gov/library/center-for-the-study-of-intelligence/csi-publications/books-and-monographs/cia-and-the-vietnam-policymakers-three-episodes-1962-1968/index.html

(4) https://history.state.gov/historicaldocuments/frus1964-68v06

(5) https://history.state.gov/historicaldocuments/frus1964-68v06/d33

(6) http://www.paperlessarchives.com/vw_tet_offensive.html

NGUỒN :  https://vietbao.com/a279440/50-nam-tet-mau-than-mo-ho-so-mat-cia

Thursday, April 5, 2018

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA - "TEARS BEFORE THE RAIN"

GS Larry Engelmann
Nhà Văn Nguyễn Bá Trạc dịch
LTS – Dưới đây là một chương ngắn của tập sử liệu rất có giá trị “Tears Before The Rain”, viết về giai đoạn hấp hối của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, vào tháng 4 năm 1975, dưới sự chứng kiến tận mắt của Chỉ Huy Trưởng Trung Ương Tình Báo Hoa Kỳ (CIA) Thomas Polgar tại Nam Việt Nam. Xin mời quý độc giả theo dõi để thấy, không phải những giới chức cao cấp thuộc các cơ quan như CIA, Tòa Đại Sứ… làm việc trực tiếp, gián tiếp với VNCH, đều muốn lìa bỏ Nam Việt Nam, mà thật sự ngược lại, họ đã rơi nước mắt… khổ đau, bó tay trước thời cuộc mà trong tận cùng đáy lòng họ phải thốt nên lời: “Chúng tôi là một đoàn quân chiến bại.’’
Nước Mắt Trước Cơn Mưa, nguyên tác Anh Ngữ ‘’Tears Before The Rain’’ là một tập sử liệu về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam, do Larry Engelmann, Giáo Sư Đại Học San Jose State thực hiện bằng phương pháp phỏng vấn nhiều thành phần: Người Mỹ, người Việt, kẻ thắng người bại…
Những cuộc phỏng vấn này khởi sự từ 1985, sách xuất bản năm 1990. Bản dịch Việt Ngữ do Nhà Văn Nguyễn Bá Trạc thực hiện năm 1993, xuất bản năm 1995 tại California.

THOMAS POLGAR
(Chỉ huy Trung ương Tình báo Mỹ tại Việt Nam)
“Chúng tôi là một đoàn quân chiến bại.”

Hiểu ý định địch quân không khó vì Bắc Việt không giữ bí mật phương hướng, đường lối. Họ thường cho cán bộ học tập kỹ lưỡng cả đến những chi tiết đáng ngạc nhiên về những gì họ làm, hơi giống kiểu Hitler và cuốn Mein Kampf. Họ thường nói trước những gì họ sẽ làm, chúng ta thường không tin những gì họ đã nói. Còn chính sách Hoa Kỳ thì đơn giản là không đáp ứng những tin tình báo mà chúng tôi thu lượm.
4297_1150843564957_4378621_n
THOMAS POLGAR (Chỉ huy Trung Ương Tình Báo Mỹ tại Việt Nam)
Xin đưa thí dụ: Mùa Thu 1974, chúng tôi tìm ra được những báo cáo của Hà Nội nói Nixon đã đổ, chúng ta sẽ chơi một trận cầu mới, chúng ta sẽ có nhiều thử nghiệm trong phạm vi quân sự. Tôi xem các tài liệu này rất hệ trọng. Bắt đầu vào tháng 10.1974, khi tìm được phương án hoạt động 75, tôi lái xe xuống Biên Hòa nói chuyện với viên Trưởng Nhiệm Sở Tình Báo Vùng, nơi họ bắt được phương án này, chúng tôi đã bàn thảo và đi đến kết luận: Cái giọng trong văn kiện này tương đồng khủng khiếp với cái giọng của tập tài liệu 90 nguyên tắc chỉ đạo do trung ương cục miền Nam đưa ra vài tháng trước cuộc tổng công kích 1972.
Một hôm, tôi có dịp hỏi ý kiến Kissinger về hoạt động tình báo của chúng ta, không phải chỉ riêng ở Việt Nam, mà nói chung. Lúc ấy, ông đang tiếp nhận một lưu lượng khổng lồ các tin tức do Trung Ương Tình Báo từ khắp nơi trên thế giới gửi về. Tôi hỏi ông nghĩ thế nào về giá trị ngành tình báo chúng ta ? Ông suy nghĩ một lúc, rồi trả lời: ‘’Khi nó hỗ trợ cho chính sách của tôi, nó rất hữu ích!’’ Tôi nghĩ: Đấy, chính đấy là tâm điểm vấn đề. Vấn đề là chính sách Mỹ không được thiết lập để đáp ứng với tin tức do tình báo thâu nhập được nhưng chúng ta thiết lập chính sách trước, rồi cố tìm kiếm các tin tức tình báo để hỗ trợ chính sách ấy mà thôi.
Ở Việt Nam lúc đó có ba nguồn tình báo chính: Quân Báo, Sở An Ninh Quốc Gia và Trung Ương Tình Báo. Chúng tôi không bao giờ gặp những trường hợp tin tức nghịch chiều. Chưa bao giờ Văn Phòng Tình Báo-Văn Phòng Tùy Viên Quân Sự đưa ra những quan điểm hoàn toàn khác biệt với quan điểm những cơ quan tình báo bạn. Chúng tôi phối hợp chặt chẽ với Bill Legro, người chỉ huy tình báo thuộc Văn Phòng Tùy Viên Quân Sự suốt phần lớn thời gian kể từ sau Hiệp Định Ba-Lê. Nhưng trở ngại là chính sách Hoa Kỳ đã được đặt trên căn bản của một tiền đề: Tiền đề đó là Chiến Tranh Việt Nam đã chấm dứt. Quân Đội Hoa Kỳ đã rút. Và chắc chắn, Tổng Thống Ford sẽ không để cho hy vọng tái bầu cử của ông bị đe dọa vì việc có thể đưa quân Mỹ trở lại Việt Nam.
Vào năm 1974, chúng ta đã không gửi tiếp vận cho Nam Việt Nam đúng kỳ hạn. Chúng ta đã chậm trễ trong việc thi hành các nghĩa vụ đồng minh. Lúc ấy, tôi báo cáo: Nếu người miền Nam Việt Nam mất tin tưởng vào sự hỗ trợ của Hoa Kỳ, họ sẽ sụp đổ. Tôi nhấn mạnh vào sự tin tưởng vào tinh thần của họ, hơn là vào cả cái mức độ thực sự của việc yểm trợ quân sự.
Có 5 sự kiện xảy ra trong năm 1973 dù không liên quan gì đến Việt Nam, nhưng đã ảnh hưởng trầm trọng đến họ.
• Trước hết, cuộc chiến Ả Rập/Do Thái đã làm đổi hướng Bộ Quốc Phòng Mỹ và đổi hướng nguồn quân vận sống chết của Nam Việt Nam.
• Tiếp đến việc phong tỏa dầu lửa, giá dầu thô tăng vọt làm kinh tế Nam Việt Nam bị va chạm, thiệt hại nặng.
• Rồi các nhược điểm trong chính sách ngoại giao Mỹ đã tạo nên những phản ứng tâm lý mạnh mẽ chống lại việc tiếp tục các cam kết ngoại giao đắt giá.
• Rồi việc quân nhân đảo chánh, hạ bệ Salvador Allende ở Chí Lợi làm công luận thuộc Khuynh hướng Tự Do và Khuynh hướng Tả phái tức giận, họ trút sang đầu Nam Việt Nam.
• Sau nữa, Quốc Hội vì ghê tởm vụ bưng bít Watergate, đã tìm cách trừng phạt Nixon, nên cũng gộp luôn cả Việt Nam vào vụ này.
Tôi nghĩ ông Thiệu hiểu rất rõ: Không có Mỹ, ông không thể tồn tại được. Tôi cũng biết Hoàng Đức Nhã, cháu ông Thiệu rất nhiều. Nhã đã học bốn năm đại học ở Mỹ, còn hiểu rõ hơn cái bản chất bất định của nền chính trị Hoa Kỳ, những sự lên xuống thuần túy chỉ do áp lực nội bộ gây ra, thường chẳng liên quan đến đề mục ngoại giao, mà lại ảnh hưởng lớn đến liên hệ ngoại giao. Nhưng làm thế nào một người như Thiệu có thể nhận thức thấu đáo sinh hoạt Quốc Hội Mỹ, trong khi cách làm việc của ông là chỉ coi Quốc Hội của ông như một công cụ khúm núm quỵ lụy mà thôi?
Vụ thất thủ Phước Long xảy ra đầu năm 1975 không quan trọng về phương diện quân sự, nhưng cực kỳ quan trọng ở phương diện tiêu biểu: Nước Mỹ đã từ chối không thực hiện lời Nixon hứa với Thiệu rằng sẽ ‘’trả đũa mạnh mẽ và toàn bộ.’’ Quân Bắc Việt thử nghiệm xong, tất nhiên được đàng chân, lân đàng đầu, họ sẽ tiến sâu hơn nữa.
Khi Phái Đoàn Quốc Hội Hoa Kỳ đến Việt Nam, tôi nghĩ cách hành xử của Fraser và Abzug không tha thứ được. Ngay khi bước vào phòng, Abzug lên tiếng hỏi: ‘’Trong mấy người ở đây, ai là Polgar?’’ Tôi tự giới thiệu. Bà ta nói: ‘’Tốt! Tôi đã được người ta cảnh giác về ông.’’
https://i0.wp.com/wedo.org/wp-content/uploads/1997/01/tumblr_mk8w1qlKVy1rahlq2o1_500.gif
Bà Bella Abzug
Bấy giờ có một lãnh tụ sinh viên bị nhốt tù, anh này có đôi chút tiếng tăm ở Mỹ. Bà Abzug đầu tiên bảo anh ta chắc chết rồi, Nam Việt Nam giết hắn rồi. Tôi bảo ‘’Không. Nam Việt Nam không làm như vậy. Họ có thể xác định được bất cứ người nào ở đâu trong tù.’’ Bà ta bảo: ‘’Xác định người này xem.’’ Chúng tôi xác định ra được địa điểm giam anh ta là ở vùng 3, Tuy Hòa. (Ghi chú của người dịch: Có lẽ là Biên Hòa) Bà bèn bảo bà ấy muốn phỏng vấn. Nhưng đi xe hơi xa quá, phải có trực thăng, bà ấy lại chỉ có thể đi sáng Chủ nhật, thực bất tiện cho tất cả mọi người. Nhưng cũng đành, chúng tôi thu xếp trực thăng, thu xếp thủ tục thăm tù. Sau khi tất cả lo liệu xong, bà ấy nói: ‘’À, tôi không lưu ý vụ này nữa’’ và không bao giờ đi gặp người sinh viên này nữa.
Cùng đi trong Phái Đoàn có Millicent Fenwick. Bà này tuy không có cảm tình với Nam Việt Nam nhưng vẫn còn cư xử đàng hoàng, đã theo dõi lắng nghe các buổi thuyết trình. Nhưng Abzug và Fraser hết sức quá quắt. Tổng Thống Thiệu mời cả phái đoàn dự tiệc, hai người này thản nhiên không dự. Họ chẳng đếm xỉa nghi lễ, không buồn từ chối. Họ lẳng lặng không đến. Trước buổi tiệc ấy là tiếp tân của Thủ Tướng, họ đến, nhưng họ không thò mặt vào buổi tiệc của Tổng Thống. Rồi Đại Sứ cũng mời Phái Đoàn dùng cơm chiều. Tất cả mọi người đến, trừ Abzug. Tôi rất thất vọng, vì chính tôi đã được xếp ngồi ngay cạnh bà ta.
https://i1.wp.com/1.bp.blogspot.com/_dXvGSWAPHOE/S4Za5eCn1aI/AAAAAAAABeM/h4tD7IMwl50/s320/MillicentFenwick.jpg?resize=286%2C385
Bà Millicent Fenwick
Về vụ tấn công Ban Mê Thuột ngày 5 tháng 3, tôi không tin có ai đã đoán trước được, nhưng hầu hết mọi người đều biết một cuộc tấn công lớn sẽ xảy ra ở Cao Nguyên Trung Phần. Chúng tôi biết họ sẽ cắt đường, sẽ đưa vào nhiều sư đoàn. Tất cả đều đã xảy ra đúng như vậy, nhưng Hoa Thịnh Đốn không bao giờ chấp nhận tin tức tình báo của chúng tôi.
Họ không chấp nhận vì – (Chúng ta đang bước vào chuyện xuất xứ các nguồn tin và những phương pháp thâu nhập tin tức tình báo, chẳng rõ tôi có nên nói ra ở đây không) – Nhưng sự kiện xảy ra là giới tình báo Hoa Thịnh Đốn đã không sử dụng tin tức tình báo từ Việt Nam do Văn Phòng Tùy Viên Quân Sự và Sở Trung Ương Tình Báo chuyển đến, nói rằng sẽ có một cuộc tấn công lớn tại Cao Nguyên vào năm 1975. Họ từ chối không chịu tin điều ấy. Còn miền Nam Việt Nam thì chẳng có được một quan niệm chiến thuật riêng tư nào, ngoài việc đặt một trung đoàn chỗ này, đưa một trung đoàn ra chỗ kia để phòng vệ. Trung đoàn tăng cường Ban Mê Thuột không đủ đương đầu tình hình, họ cũng không được may mắn. Những lực lượng này dùng để giữ các địa phương thì tốt, họ tỏ ra đắc lực để đối đầu vài trận tấn công. Tuy nhiên họ không phải là loại binh đội được huấn luyện và trang bị để chiến đấu với các đơn vị chính quy chủ lực có chiến xa tăng cường.
Sau khi mất Ban Mê Thuột, ông Thiệu họp với Tướng Phạm Văn Phú tại Cam Ranh, ban lệnh triệt thoái cao nguyên. Tôi nhớ buổi họp ấy nhằm thứ Sáu. Phú cho thực hiện kế hoạch vào thứ Bảy. Nhận tin sáng thứ Bảy ấy, tôi chạy theo Tướng Charles Timmes ra Tổng Tham Mưu, và nói rằng ‘’Tôi chẳng biết chuyện trời đất gì đang xảy ra đây nữa!’’ Tôi cho một phụ tá cao cấp đi gặp Tướng Đặng Văn Quang, Cố Vấn An Ninh của Thiệu, hỏi chuyện gì đang xảy ra ở Vùng II. Quang bảo: “Ông thấy, tình hình không được tốt. Chúng tôi không mở đường lại được, chúng tôi đang lo ngại về tình hình và sẽ phải thay đổi vị trí một vài đơn vị chớ chẳng có chuyện gì xảy ra ở Vùng II cả.’’
https://i0.wp.com/ngothelinh.tripod.com/pix/Lt_General_Dang_Van_Quang.jpg?resize=383%2C292
Tướng Đặng Văn Quang
Hiển nhiên, ông Quang không hay biết ông Phú đang di tản.
Tướng Timmes vào Tổng Tham Mưu Việt Nam, nhưng không gặp Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng. Mọi sự ở đấy có không khí của một buổi sáng thứ Bảy. Nhưng ông đã gặp Tướng Trần Đình Thọ, là Trưởng Phòng Hành Quân để hỏi thăm tin tức Vùng II. Ông Thọ nói: ‘’Còn có cái gì xảy ra mà quý ông không hay biết cả đâu?’’
Rõ rệt, Bộ Tổng Tham Mưu cũng không biết gì việc ông Phú đang triệt thoái. Sau đó tôi nhận tin trực tiếp từ Pleiku gửi về. Phó Đại Sứ Wolf Lehman bấy giờ đang bận một số chuyện lặt vặt. Joe Bennett, sĩ quan chính trị đang bận đi chữa răng. Tôi điện thoại cho Moncrieff Spear, Tổng Lãnh Sự ở Vùng II, bảo ông ta: ‘’Tốt hơn hết ông nên chuyển người của ông ra khỏi Pleiku, theo chỗ tôi hiểu: Người ta đang di tản.’’ Ông ta nói: “Anh khùng à?’’ Bấy giờ ông ta đang ở Nha Trang, vùng duyên hải, tôi bảo: “Không, tôi có lý do để tin những việc đang xảy ra.’’ Ông ta nói: “Có phải anh ra lệnh cho tôi di tản Pleiku đấy chăng?’’ Tôi bảo: “Ông biết thừa tôi không thể làm thế. Nhưng tôi có thể kết luận nếu khôn ngoan thì hãy di tản ngay đi.’’
Có một điểm tôi muốn nêu ra đây về Tướng Phú trong buổi sáng hôm ấy. Bất kỳ công trạng trước đây của ông thế nào, không kể, nhưng bây giờ ông ta đã hoàn toàn không phối hợp với chúng tôi. Ông ta không thông báo cả cho Tổng Lãnh Sự là người mà ông bắt buộc phải thông báo, vì đây là đại diện chính thức của Hoa Kỳ tại Vùng II. Ông Quang cũng không biết chuyện gì đang xảy ra, ông ta có vẻ của một người bận rộn, nhưng thực tình chỉ lăng xăng giết thì giờ. Còn ông Thọ Trưởng Phòng Hành Quân, cũng thế, chẳng hay biết gì cả. Trong sự suy đoán của tôi: Những việc xảy ra đó là do Tướng Phú hiểu lầm những gì Tổng Thống Thiệu nghĩ trong đầu, rồi tự khởi xướng một kế hoạch hành động, không biết việc ấy trong thực tế sẽ khó khăn đến đâu. Thực tế cuộc di tản ấy không thành công. Mọi cuộc triệt thoái sớm hay muộn đều là một sự thất bại khủng khiếp.
Quân đội Bắc Việt bắt kịp cuộc di tản của Tướng Phú. Chiến xa của họ đâm ra từ các đường nhánh, gặp đoàn quân tại Phú Bổn. Cuộc tàn sát đã diễn ra ở đấy.
Trước buổi họp Cam Ranh, tôi liên lạc với Hoa Thịnh Đốn để ghi nhận cuộc chơi đã xong. Tôi nhớ tôi nói chuyện với một viên chức có liên hệ khá chặt chẽ với tôi (xin miễn đưa tên), ông ta bảo: Nam Việt Nam không thể nào tiêu hóa nổi việc mất Ban Mê Thuột cùng với cái hậu quả tất yếu của nó là mất toàn thể Cao Nguyên. Ống là một sĩ quan cấp Tướng.
Lúc ấy vẫn chưa có gì xảy ra ở Vùng I. Rồi tai họa bắt đầu. Thiệu quyết định rút cả Thủy Quân Lục Chiến lẫn Nhảy Dù khỏi Vùng I. Quyết định này giống như chợt rút đi cái chiếu trong lúc Tướng Trưởng còn đang đứng trên ấy, nó làm ông ta hổng cẳng.
Tiếp đến, mất cả Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Họ trở nên vô dụng, vì đầu tiên người ta ra lệnh triệt thoái, sau lại ra lệnh ‘’quay đàng sau, quay,’’ để quay trở lại! Đó là chuyện bất khả thi về phương diện quân sự. Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến mất rất nhiều chiến cụ vì không thể nào lấy ra được trong cái dòng người tỵ nạn tràn lan. Lúc này ông Thiệu đang ngoi ngóp trong biển nước, ông cố bám lấy vài cọng cỏ. Nhưng lúc này ông có làm bất cứ cái gì cũng không còn có thể thay đổi tình thế lại được nữa. Cuộc chơi đã xong!
Tôi tin tưởng chắc chắn rằng khi người Việt Nam có cảm tưởng chúng ta sắp chạy, tất cả sẽ sụp đổ. Điều này, tôi hoàn toàn đồng ý với Đại Sứ Martin. Ông Đại Sứ lúc ấy đã rời Việt Nam sang Mỹ cùng với Phái Đoàn Quốc Hội. Ông nghĩ ông có thể vận động được một vài dân biểu, ông sẽ cố ra điều trần trước Quốc Hội. Đến Hoa Thịnh Đốn, người ta phát hiện tình trạng sức khỏe của ông cần giải phẫu, việc này đã làm chuyến về của ông chậm trễ. Không muốn mọi người phải quan tâm nhiều, ông đi xuống North Carolina mổ, ngay Bộ Ngoại Giao cũng không biết liên lạc với ông ở đâu. Ông là một người kín đáo. Ông trở lại Việt Nam cuối tháng Ba, trước khi Đà Nẵng mất và chuyến C-5A bị rơi.
Về vụ chiếc C-5A thì thoạt đầu đề nghị chuyển vận các cô nhi đi bằng máy bay hoàn toàn chỉ có mục đích vận động nhân tâm. Phó Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Y Tế, cũng là bác sĩ y khoa-Bác Sĩ Đán cảm thấy cần phải làm một cái gì về các cô nhi. Đại Sứ Martin và vài cố vấn cũng cảm thấy nếu đưa được các cô nhi sang Mỹ hàng loạt thì việc này có thể vận động tình cảm công chúng Mỹ, nó sẽ là một câu chuyện khích động lòng xót xa con người.
Cùng lúc ấy, Văn Phòng Tùy Viên Quân Sự lại có nhiều nhân viên phụ nữ sẵn sàng di tản, nhưng người ta không thể cấp thông hành cho họ vì Hoa Kỳ chưa chính thức di tản. Như thế ai sẽ trả phí tổn di chuyển bằng đường hàng không từ Việt Nam, Hoa Kỳ chăng? Nên tôi nghĩ có thể xếp đặt cho họ vào những chuyến máy bay quân đội còn trống, xem họ như những người đi kèm các cô nhi, như thế khỏi lo liệu vấn đề lộ phí, tiền bạc. Chính vợ tôi cũng đi với tư cách người kèm cô nhi, nhưng rồi vợ tôi tình cờ đã lên một chiếc máy bay dân sự thuộc hãng Cathay Pacific, đúng một ngày với chuyến C-5A bị rớt.
Tôi có hai bác sĩ thuộc Trung Ương Tình Báo, nhân viên của tôi, khi máy bay rớt đã đi khiêng xác chết, xác của những đứa trẻ nhỏ bé này, vào bệnh viện Cơ Đốc ở Sài Gòn. Một trong hai bác sĩ ấy mang theo máy ảnh, chụp rất nhiều hình. Khi tôi đưa những tấm ảnh này cho Đại Sứ coi, ông suy nghĩ khá lâu xem có nên công bố hay không. Nhưng ông kết luận những bức ảnh này quá rõ ràng, quá đẹp, màu sắc sống động, với hình ảnh các thân thể nát vụn của đàn bà trẻ con, thay vì khích động lòng thương xót, lại tạo ảnh hưởng xấu, nên người ta quyết định không công bố nữa.
Vài ngày trước hôm Thiệu từ chức, một nhân viên cao cấp người Hung Gia Lợi thuộc Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến đến gặp tôi, anh ta nói: “Này ông bạn, phải thực tế chút chứ? Ông phải biết các ông đã thua trận chiến này.’’ Tôi bảo: “Ô kê, tôi nhìn nhận: Trận chiến đã bại rồi.’’ Anh ta nói: “Mỗi cuộc thất trận đều tạo nên nhiều hậu quả chính trị.’’ Tôi bảo: ‘’Đồng ý.’’ Anh ta nói: “Hiển nhiên những hậu quả chính trị này sẽ gây nhiều cay đắng. Nhưng bên phía mà tôi đại diện…’’ Anh ta bỏ lửng, không nói đại diện cho ai “…Không có ý định hạ nhục Hoa Kỳ một cách quá mức. Có lẽ, có thể tìm ra được một giải pháp nào. Không phải để thay đổi cuộc diện trận chiến, vì nó đã xong, nhưng để thu xếp cho một cái chung cuộc mà…’’ Một lần nữa, anh ta sử dụng những chữ này: “Không hạ nhục Hoa Kỳ một cách quá mức.’’
Tôi hỏi: “Ông có ý nghĩ gì trong đầu vậy?’’ “À vâng.’’ Anh ta nói: “Ông biết chúng tôi đã ra Tân Sơn Nhứt thảo luận với các đồng nghiệp Bắc Việt của chúng tôi. Chúng tôi có người ở Hà Nội. Tôi có cảm tưởng có lẽ chúng ta có thể tìm được một cách giải quyết trong lúc tình hình đang diễn tiến thế này – Thiệu bắt buộc phải từ chức. Hoa Kỳ cần phải tuyên bố bất can thiệp vào nội tình Nam Việt Nam, ngoại trừ việc duy trì ở đây một cơ cấu sứ quán bình thường. Và chính phủ Nam Việt Nam cần bao gồm một số người Bắc Việt có thể chấp nhận. Đấy là những vấn đề chủ yếu.’’ Tôi đáp: “Vâng, tốt lắm, cảm ơn ông bạn nhiều. Đương nhiên, tôi sẽ báo cáo cuộc nói chuyện của chúng ta hôm nay. Tôi sẽ thảo luận với Đại Sứ chúng tôi để chuyển về Hoa Thịnh Đốn, rồi tôi sẽ gặp lại ông. Trong lúc chờ Hoa Thịnh Đốn trả lời, xin ông vui lòng đi gặp các bạn của ông một lần nữa để tìm hiểu xem ai sẽ là những người mà họ có thể chấp nhận được trong chính phủ ấy?’’
Vài ngày sau, Thiệu từ chức. Tôi trở lại gặp người bạn Hung Gia Lợi của tôi mà nói: “Đấy, tôi đã chuyển đạt và thực hiện xong điều thứ nhất của ông. Chúng tôi vẫn chưa nhận được hết câu trả lời dứt khoát. Còn ông đã có đề nghị nào về những tên người mà tôi hỏi hay chưa?’’ Anh ta đáp: “Vâng, thực ra tôi đã có. Nhưng tên người Việt, tôi dở lắm. Để tôi viết ra.’’ Anh ta lấy một quyển sổ tay nhỏ, bắt đầu viết một số tên. Tôi đáp: “Thú vị nhỉ. Tất nhiên tôi sẽ tiếp tục xúc tiến câu chuyện lần trước giữa chúng ta, tôi sẽ trở lại gặp ông.’’ Nhưng anh ta nói: “Tôi có thêm vài lời nữa từ các đồng nghiệp của tôi ở đây. Họ nói khi họ bảo mọi chuyện cần phải thu xếp cho sớm, điều ấy có nghĩa là trong vòng vài ngày, chứ không phải vài tuần đâu.’’ Ông Đại Sứ tỏ ra có thiện cảm với chuyện này. Ông nghĩ có thể chúng tôi thực hiện được một cái gì chăng. Nhưng chúng tôi đã gặp phản ứng tiêu cực của Kissinger, là người không muốn có chuyện thương thảo gì hết.
Đến ngày 26 hoặc 27 tháng Tư, chúng tôi gặp nhau lại, lần này anh chàng Hung Gia Lợi nói: “Tôi nghĩ muộn quá rồi.”!
Đấy, tôi kể cho các bạn nghe mấy chuyện này bởi vì tôi muốn nhấn mạnh thật ra không bao giờ chúng tôi thương thảo với đối phương, cũng không bao giờ làm điều gì đối phương đòi hỏi. Việc ông Thiệu từ chức là vì những lý do hoàn toàn khác, không liên hệ đến mấy chuyện này, nhưng tôi đã vờ vịt với họ, làm như chuyện ông Thiệu từ chức có liên hệ đến mấy chuyện ấy mà thôi.
Thiệu từ chức ngày thứ hai 21 tháng Tư. Ông Đại Sứ không yêu cầu Thiệu từ chức, nhưng vào ngày 19 tháng Tư sau khi ông Đại Sứ nói chuyện với Thiệu, thì hiển nhiên Thiệu đã mất hết tin tưởng vào mọi người, vì mọi người xem Thiệu như chướng ngại vật trong cuộc dàn xếp, trong các thủ tục ngưng chiến, mọi người không có thể cục cựa gì nếu Thiệu cứ luẩn quẩn bên cạnh.
Một bữa Đại Sứ gọi tôi vào văn phòng nói ông mới gặp Tổng Thống Hương, Tổng Thống không được thoải mái vì sự tiếp tục có mặt của Thiệu ở trong xứ. Ông cụ Hương nghĩ sự hiện diện của Thiệu làm giảm uy quyền của ông, chừng nào Thiệu còn ở đây thì ông cụ tê liệt không làm gì được cả. Ông cụ khẩn thiết yêu cầu Đại Sứ Martin lo liệu hộ vì lẽ chỉ Hoa Kỳ mới ở vị thế giúp được chuyện này. Việc đưa Tổng Thống Thiệu ra khỏi xứ cần thực hiện tuyệt đối trong vòng “Tối mật!’’ Vâng, Đại Sứ Martin là người đầy lý trí, khi nghe cái gì “Tối mật’’ tất ông nghĩ đến “CIA Trung Ương Tình Báo,’’ thế là ông hỏi: “Anh làm được không?’’ Tôi bảo “Thưa Đại Sứ, tôi làm được. Với một điều kiện. Ấy là: Để yên cho tôi lo. Cứ giao việc để tôi xoay sở, nhưng đừng đem cả một ủy ban dính vào đây.’’ Việc này xảy ra ngày 24 tháng Tư thì phải.
Mọi sự được xúc tiến nhanh chóng ngay sau đó. Tôi biết tôi có thể thu xếp máy bay ở đâu. Tôi lấy Tướng Timmes là điểm liên lạc chính. Vào lúc này Thiệu đã rời căn nhà trong Tổng Tham Mưu. Các Tướng lãnh cao cấp Việt Nam đều có nhà trong căn cứ Tân Sơn Nhất. Chúng tôi đồng ý là với một kế hoạch hành động, cũng có đôi điều cần phải quan tâm: Phải quan tâm công luận. Phải lo ngại chuyện một số quân nhân vô kỷ luật của Nam Việt Nam có thể can thiệp, vài sĩ quan cao cấp có thể manh nha trong đầu cái ý nghĩ làm lịch sử. Cũng phải lo ngại cả chuyện cảnh sát chặn trên đường ra Tân Sơn Nhất, việc này tuy không liên quan gì đến chuyện Thiệu đi, nhưng cảnh sát thường có những điểm chặn trên đường, nên chúng tôi phải bày việc đi dự tiệc trong căn cứ Tham Mưu Liên Quân. Chúng tôi lấy vài chiếc xe Mỹ kiểu tiêu chuẩn, màu đen, gồm cả xe Đại Sứ, xe tôi, xe phụ tá của tôi, đủ để chở từ mười đến mười hai người, kể cả các tài xế, Tướng Timmes, tôi, và hành lý.
Chúng tôi dặn rõ mỗi người chỉ được mang một vali. Chúng tôi dàn xếp tất cả sẽ gặp nhau tại nhà Thủ Tướng Khiêm, bởi vì đây là căn nhà lớn nhất, ít bị chú ý hơn là nhà ông Thiệu. Chúng tôi đồng ý sẽ cho máy bay đi Đài Loan, nơi người anh của Thiệu làm Đại Sứ, như thế ông ta sẽ thu xếp được với nhà cầm quyền Đài Loan để mọi người được nhập nội. Thủ Tướng Khiêm cũng từng là Đại Sứ ở Đài Loan, như thế ông ta cũng có nhiều liên hệ. Khi chọn Đài Loan làm điểm đến, tôi cũng cân nhắc rằng chuyến máy bay DC-6 chỉ có thể bay xa nhất bấy nhiêu, mà khỏi cần đổ thêm xăng.
Tôi chọn vài người làm tài xế mà tôi xem như những tay bảnh nhất, đáng tin cậy và vững chãi nhất. Tôi không lựa tài xế người Việt-Frank Snepp là một trong các tài xế ấy. Tướng Timmes, vì cấp bực của ông, không thể lái xe, tôi cũng thế, cấp bực của tôi không cho phép tôi lái xe. Tôi kiếm một Đại Tá Cảnh Sát, cũng là Đại Tá Quân Đội, tôi nói: “Cần phải có một người với cái vẻ chỉ huy lẫm liệt.’’ Tôi dự phòng trường hợp lính gác hạch hỏi gì chăng. Phòng xa thế, chứ tôi biết khi lính gác nhìn thấy bốn cái xe Mỹ do Mỹ lái thì họ sẽ bảo ‘’Các tay tổ đây,’’ khi nhận ra xe Đại Sứ, họ sẽ bảo ‘’Ông Đại Sứ đi họp’’ chắc chắn thế, chả trở ngại gì, nhưng phải có một Đại Tá quân đội cảnh sát để dự phòng cho vững. Chúng tôi không biết Thiệu sẽ mang theo những ai. Chỉ biết một mình ông Thiệu sẽ đi, Khiêm sẽ đi, không biết còn ai khác. Cho nên cứ mang theo một số giấy tờ để trống, rồi Tướng Charlie Timmes sẽ điền tên họ vào bằng tay.
Chúng tôi đưa cả cho viên Đại Úy trên máy bay, bảo: “Khi đến Đài Loan chúng tôi sẽ thông báo cho các giới chức quân sự Mỹ. Anh cứ yêu cầu gặp các sĩ quan cao cấp, và đưa tận tay chiếc phong bì này. Tất cả giấy tờ ở trong ấy.’’ Trong lúc đó một xe khác chở Đại Sứ chạy thẳng đến chiếc máy bay vì Đại Sứ muốn đến chào tạm biệt Thiệu. Tôi nói với Đại Sứ: “Tôi không muốn đi cùng một xe với Đại Sứ trong thành phố vì chỉ tạo thêm nhiều rủi ro phiền phức.’’ Cho nên tôi nhớ chúng tôi đã đổi xe. Tất cả diễn ra chính xác như một cái đồng hồ Thụy Sĩ, cũng như khi chúng tôi thực hiện các điệp vụ. Chúng tôi đã đưa mọi người đến máy bay an toàn, vào máy bay an toàn, sau đó sẽ cất cánh an toàn.
Image result
Tôi ngồi chung xe với Thủ Tướng Khiêm, chứ không ngồi với Thiệu. Tôi nhớ Tướng Timmes ngồi với ông Thiệu. Mọi người đều kiềm chế cảm xúc, không ai khóc. Gia đình họ đều đã đi cả. Thực ra, có một điều làm tôi ngạc nhiên. Tôi ngạc nhiên vì trong tất cả các cộng sự viên thân tín gần gũi, ông Thiệu không mang theo ai, trừ Thủ Tướng Khiêm. Điều này rất lạ vì chỉ mới vài năm trước tại khắp các quán cà phê ở Sài Gòn người ta sì sào bàn tán chuyện chia tay giữa Thiệu và Khiêm, chuyện ông này sẽ hất ông kia vân vân… Tất nhiên tôi không đánh giá cao mấy chuyện ấy vì lẽ tôi có liên hệ rất tốt với Thủ Tướng, tôi luôn luôn coi ông như một viên chức tận tụy trung thành với Thiệu. Tổng cộng gồm mười bốn người đi ra chuyến bay đêm ấy. Tất cả đều là đàn ông.
Tôi luôn dè chừng trường hợp có người nhận ra ông Thiệu ở các trạm kiểm soát, nhưng tôi cũng tính toán: Người ta đã quen cách di chuyển cố hữu của ông Thiệu trong thành phố bằng một chiếc xe Mercedes cũ kỹ, khác với đây là bốn chiếc xe Hoa Kỳ của Tòa Đại Sứ có bộ dạng quan trọng. Bấy giờ trời tối, việc chặn xét bốn chiếc xe Hoa Kỳ là việc ít khi xảy ra. Dẫn đầu là chiếc Chevrolet Caprice của Đại Sứ có vỏ chắn đạn, tôi ngồi trong xe này, có viên Đại Tá Cảnh Sát đi kèm. Mối e ngại nhất của tôi là lỡ ở trạm gác, cảnh sát soát căn cước, bật đèn pha soi vào chúng tôi thì sao? Như thế họ sẽ nhận ra ông Thiệu và Thủ Tướng. Nhưng rồi việc xảy ra là khi thấy bốn chiếc xe với bộ dạng quan trọng như thế chạy đến trạm, mấy người lính canh nghiêm chỉnh giơ tay chào. Đúng là điều tôi mong đợi. Có lần tôi đã đưa một nhân vật trọng yếu đào thoát từ Tây Bá Linh bằng một chiếc xe lớn tựa như vậy, tôi cũng tính rằng lính Liên Sô sẽ chào kính khi họ thấy chiếc xe, và quả thật họ đã làm y vậy.
Đêm hôm ấy, Thiệu không hề đem theo vàng xuất ngoại. Câu chuyện ấy chỉ là chuyện cứt khô! Ai điên khùng gì mà lại gói vàng bỏ lỏng lẻo trong va li, trời đất! Tôi muốn nói, tôi có một người bạn Việt Nam đã mang vàng đi, tôi biết vàng phải được bọc chặt chẽ cẩn thận, quấn bằng vải, bằng dây cao su, bằng băng keo, đủ các thứ. Có ai lại để cho vàng kêu lách cách trong hành lý bao giờ. Thực ra số vàng dự trữ của Việt Nam vẫn ở trong xứ, khi quân Bắc Việt đến, vàng vẫn ở đấy. Số vàng dự trữ của Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam trị giá từ 18 đến 20 triệu Mỹ kim. Trị giá thực sự của số vàng ấy đúng ra cao hơn nhiều, vì lý do giá vàng chỉ được tính có 35 Mỹ kim một ounce (0.28g). Đó là cái giá tại Việt Nam trước thời Nixon phá giá đồng Mỹ kim. Còn vào năm 1975, giá vàng thực ra ở mức 170 Mỹ kim một ounce.
Bấy giờ đã có lúc Nam Việt Nam không còn tín chỉ trên thế giới nữa, Quốc Hội Mỹ thì lừng khừng từ chối yêu cầu viện trợ, và như thường lệ, Đại Sứ Martin đã đưa ra sáng kiến nóng hổi: Ông nghĩ Nam Việt Nam nên gửi số vàng ấy sang Quỹ Dự Trữ Liên Bang Hoa Kỳ, dùng sổ vàng ấy ký quỹ mà mua chịu võ khí. Vâng, Thiệu đã chấp thuận đề nghị. Tình cờ có chuyến bay chở hàng của Thụy Sĩ thuộc Hãng Basel Air đang ở Sài Gòn, Nam Việt Nam thương lượng với Basel Air mang số vàng này đi dưới hình thức hàng hóa thương mại thông thường. Mấy người Thụy Sĩ suy nghĩ một hai ngày rồi từ chối không nhận chở, vì lý do bảo hiểm. Họ bảo không cách gì kiếm ra ai chịu bảo hiểm số 70 triệu Mỹ kim vàng ra khỏi Sài Gòn. Người ta lại phải tính đến Không Quân Hoa Kỳ. Việc này được đem thảo luận tại Hội Đồng An Ninh Quốc Gia. Chở một tấn rưỡi vàng đối với Không Quân Hoa Kỳ không khó, nhưng tìm đâu ra mối bảo hiểm thương mại khi người ta lại sử dụng máy bay quân đội; chấm hết!
Cái củ khoai nóng nuốt không trôi lại được ném lên bắp vế mấy anh trạng sư ở Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ. Suốt thời gian này đống vàng vẫn nằm yên tại Ngân Hàng Quốc Gia ở Sài Gòn. “Làm thế nào kiếm cho ra mối chịu bảo hiểm chuyến hàng này nếu chúng ta chở đi bằng máy bay quân sự?’’ Đó vẫn là cái đề tài làm bù đầu mấy anh trạng sư suốt mấy hôm. Trong lúc ấy Thiệu từ chức, một tốp người mới vào nắm quyền, Cụ Hương hôm đầu thì bảo ừ, chở đi, hôm sau lại bảo đừng, đừng chở nữa. Cuối cùng Cụ kết luận thôi tốt nhất cứ giữ lấy vàng ở Sài Gòn, bởi vì kể từ khi Đại Sứ Martin bắt đầu nói chuyện này, cho đến lúc ấy tình hình đã biến đổi, dẫu cho có ký thác vàng để lấy vũ khí Mỹ, vũ khí không còn đến kịp và cũng chả giúp ích gì nữa. Ngoài ra họ cũng còn giữ được thể diện khi để lại số vàng ở trong xứ. Như thế, số vàng đã được để lại.
Đêm hôm ấy, cũng là đêm tôi dự buổi dạ tiệc quốc tế cuối cùng ở Sài Gòn. Buổi dạ tiệc được tổ chức tại tư thất Đại Sứ Ba Lan nhân dịp giới thiệu viên Trưởng ngành chính trị Ba Lan với các ngoại giao đoàn. Mọi người đều có mặt. Tất cả các Đại Sứ còn ở tại Sài Gòn đều được mời, và ông Ba Lan mới đến nói ông ta rất mong mỏi gặp tôi. Ông ta bảo rõ rệt chúng tôi đang ở vị trí lưỡng tương hoán chuyển, ông ta muốn biết quan điểm của tôi đối với tình hình. Chúng tôi bèn hẹn nhau một buổi ăn trưa vào một tuần lễ sau ngày hôm ấy. Ngày ấy sẽ là nhằm ngày mùng một tháng năm! Giữa tất cả những chuyện trông ngóng, tôi đã trông ngóng đến ngày mùng một tháng Năm ấy để gặp mặt ông bạn đồng nghiệp người Ba Lan của tôi!
Đại Sứ Martin không phải là người thích tiệc tùng, nhưng trong trạng thái bồn chồn của thành phố đêm hôm ấy, ông bảo: “Tôi sẽ đi dự, nhưng đi riêng xe nhé.’’ Vì vậy tôi quay trở lại căn phòng gửi một điện văn. Điện văn này tôi đã viết sẵn, chỉ cần dùng điện đài để đánh mật mã mà phụ tá của tôi và tôi đã giao ước trước. Suốt một ngày làm việc, đấy là tất cả những gì tôi cảm thấy sau khi hoàn tất việc đưa ông Thiệu ra đi.
Ngày rời Sài Gòn là ngày tôi buồn rầu cùng cực, chỉ thiếu điều muốn sụm.
Đoạn kịch cuối mở màn ngày thứ Hai. Chiều thứ Hai là một buổi chiều rất xấu. Dương Văn Minh nhậm chức đêm hôm ấy. Ông vừa đọc xong bản diễn văn nhậm chức, thì giông bão khủng khiếp ập đến Sài Gòn. Mưa rơi xối xả. Những cơn mưa đến sớm, lúc ấy chưa đến mùa mưa. Rồi xảy ra vụ chiếc phi cơ phản nghịch, tức là chiếc phi cơ Mỹ với bình xăng phụ 50 ga-lông do mấy phi công dưới sự điều động của Bắc Việt dội bom lên Tân Sơn Nhất. Lúc ấy chúng tôi còn ở tại văn phòng. Mặc dầu đã khoảng bảy giờ đêm, chúng tôi vẫn còn ở đấy vì lúc này Sài Gòn ban đêm chẳng có gì khác để làm, thứ nữa Sài Gòn và Hoa Thịnh Đốn cách nhau mười hai tiếng, lúc ấy buổi sáng ở Hoa Thịnh Đốn, chúng tôi cố chuyển càng nhiều điện văn càng tốt, để khi bắt đầu làm việc, Hoa Thịnh Đốn đã có đủ thông báo của chúng tôi.
Khi nghe tiếng nổ, chúng tôi đâm bổ xuống núp dưới gầm bàn. Bấy giờ, tôi nhớ tôi đang ở trong phòng viên Trưởng Ban Truyền Tin. Nhân viên truyền tin là những người lo phụ trách các báo cáo tình báo để gửi đi bằng điện đài.
Chúng tôi rất thận trọng việc soạn thảo các điện văn này, luôn luôn sử dụng Anh ngữ một cách văn vẻ, sửa chữa kỹ càng, dù phải vội vã trong các trường hợp khẩn cấp, y như các phóng viên nhà báo vậy. Lúc ấy chúng tôi đang lom khom núp dưới gầm bàn, tôi sẽ không bao giờ quên kỷ niệm này: Một cô nhân viên truyền tin xinh đẹp hấp dẫn nhổm lên, kéo cái máy chữ xuống, cô ta bắt đầu đánh: “Sài Gòn gửi Hoa Thịnh Đốn, bản báo cáo tình hình lúc 19 giờ địa phương. Một vụ pháo kích không xác định được xuất xứ đang phát nổ trong thành phố. Vụ pháo kích đang tiếp diễn quanh chúng tôi, vẫn chưa có ai biết chuyện gì xảy ra!’’
Không bao lâu, chúng tôi xác định được chuyện ấy. Chúng tôi chắc chắn đây là câu trả lời của quân đội Bắc Việt phản ứng lại bài diễn văn nhậm chức của ông Minh. Trong bài diễn văn này, ông ta nói ông sẽ tiếp tục chiến đấu, nói đủ thứ lảm nhảm mà một tháng trước đấy ông ta không hề nói. Tôi nghĩ cái hình ảnh chính xác để mô tả ông là hình ảnh một người không đủ tài cán được đặt vào một chức vụ quá khả năng, làm mọi người phải mệt với sự bất lực của ông ta.
Trong tuần lễ cuối cùng, Sài Gòn vẫn sinh hoạt tốt đẹp mặc dầu có trận không kích xảy ra. Điện, điện thoại, thực phẩm vẫn đầy đủ, có lẽ chỉ hơi thiếu chút rau xà-lách. Tối ấy tôi đi ngủ muộn, bốn giờ rưỡi sáng đã bừng dậy vì lại có tiếng nổ, lần này nổ lớn dữ dội. Tôi điện thoại cho nhân viên trực của tôi ở Tòa Đại Sứ, một nhân viên tình báo; ở đấy, ngoài lính Thủy Quân Lục Chiến, chúng tôi luôn có hai nhân viên trực suốt ngày đêm. Tôi hỏi anh biết có chuyện gì xảy ra không? Anh ta nói lúc ấy chưa biết rõ, nhưng có pháo kích vào Tân Sơn Nhất, Thủy Quân Lục Chiến đã trèo lên nóc nhà nhìn thấy có lửa cháy, anh ta đã liên lạc Văn Phòng Tùy Viên Quân Sự, họ cũng chưa biết gì đích xác. Nhưng đã có một số thiệt hại đáng kể, hai lính Thủy Quân Lục Chiến tử thương. Tôi bảo: “Được rồi, tình trạng nghe có vẻ tệ, nhưng có anh đang ứng trực ở đấy là tốt lắm.’’ Tình cờ, chính nhân viên này cũng là sĩ quan trưởng phòng tài chánh. Tôi bảo: “Sửa soạn mấy cái phong bì khởi hành.’’ Phong bì khởi hành là những phong bì có đựng một số chỉ dẫn, số điện thoại của những Tòa Đại Sứ Mỹ các nơi và tại vùng Đông Á. Mỗi phong bì được bỏ vào số tiền 1500 đô la bằng Mỹ kim và bằng một số ngoại tệ các nước khác. Mỗi người sẽ được trao tay một phong bì này để phòng vệ an toàn, dự phòng trường hợp thất lạc. Tôi bèn nói với anh nhân viên trực: Tôi sẽ đến Tòa Đại Sứ ngay.
Tôi là người đến sớm nhất. Lúc ấy Thủy Quân Lục Chiến đã nhận thêm báo cáo từ Văn Phòng Tùy Viên Quân Sự. Dựa vào đấy tôi cảm thấy Tòa Đại Sứ cần phải được huy động. Tôi điện thoại cho Đại Sứ, tôi nói: “Rất tiếc phải gọi Đại Sứ vào giờ này. Ông còn có thể được ngủ đến hơn 3 tiếng đồng hồ nữa. Nhưng tôi nghĩ Đại Sứ cần phải vào gấp.’’ Ông Đại Sứ bảo ông sẽ vào. Lúc ấy, chúng tôi có một hệ thống tổ chức: Cứ một người gọi bốn người, mỗi người lại phải liên lạc gọi bốn người khác v.v… Nên tôi bắt đầu huy động mọi người qua hệ thống này. Buổi sáng sớm hôm ấy, tình trạng sức khỏe của Đại Sứ rất bết bát. Ông đau ốm khặc khừ, và sau này, lúc lên đến chiến hạm, người ta mới khám ra là ông bị viêm phổi. Giọng ông khản đặc, khào khào không ra tiếng. Tinh thần bị kích động trăm phần trăm. Khi Kissinger gọi điện thoại, Martin không nói nổi, ông thì thà thì thào rồi tôi phải nhắc to lên cho Kissinger nghe rõ.
Đại Sứ đã ra tận Phi Trường Tân Sơn Nhất, bởi vì ông ta là Graham Martin mà, bạn hiểu không, mặc dù đã có đến mấy ông Tướng Không Quân phụ trách ngoài phi trường, ông vẫn không chịu tin các lượng giá của họ về việc phi cơ không còn đáp xuống được nữa. Ông đòi phải đích thân đến phi trường xem xét rồi mới chịu!
Ngày hôm ấy khi trời sáng, ngoài Đệ Thất Hạm Đội các phi công đã sẵn sàng, trực thăng xăng nhớt đầy đủ, mọi người chuẩn bị xong. Nhưng chừng tám giờ rưỡi, chúng tôi lại được bảo không di tản nữa! Họ bảo chúng tôi sẽ phải thu hẹp số nhân viên, nhưng vẫn giữ Tòa Đại Sứ ở Sài Gòn. Họ bảo nhân số Tòa Đại Sứ sẽ còn lại 180 người, trong số ấy 50 người sẽ là nhân viên tình báo, nhóm nhân viên tình báo này có nhiệm vụ phụ trách toàn bộ các đường truyền thông của Tòa Đại Sứ. Họ bảo các trưởng ban, trưởng phòng khác sẽ nhận lệnh sắp xếp: Kinh tế 8 người, chính trị 16 người, y tế, tài chánh, hành chánh…do nơi Hoa Thịnh Đốn xếp đặt. Người ta đoán chừng lệnh này do Kissinger chuyển đến ông Đại Sứ. Tôi không bao giờ nhìn thấy lệnh ấy trên văn tự, nhưng lệnh ấy được chuyển đến tôi sáng hôm ấy do Đại Sứ nói. Do đó tôi về văn phòng, tập họp các nhân viên cao cấp của tôi, lúc ấy tôi còn chừng 250 nhân viên tình báo tại chỗ. Tôi nói: “Quý bạn, chúng ta sẽ rút nhân số xuống 50 người, và sẽ phải đương đầu với một số lượng truyền thông nhiều hơn thường. Nào, bây giờ tính thử 50 người nào sẽ ở lại, bắt đầu là tôi!’’ Chuyện này không dễ dàng như thay lính Thủy Quân Lục Chiến bởi lẽ nhiều khi nhân viên tình báo không thể hoán chuyển. Mỗi người có những khả năng chuyên biệt. Người là nhân viên truyền tin. Người là nhân viên điều hành. Người là phân tích viên.
Tôi lại cần người với các khả năng ngoại ngữ khác nhau. Tôi cần phải giữ vài người nói được tiếng Việt. Phải có vài người nói được tiếng Ba Lan, để giao dịch với nhân viên Ba Lan tại Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến. Về tiếng Hung Gia Lợi thì khỏi lo, chẳng ai khác ngoài tôi nói được thứ tiếng này. Cứ như thế, suốt mấy tiếng đồng hồ loay hoay xếp đặt. Lại còn phải cân nhắc trường hợp những người đã mãn hạn, có người sắp được hồi hương vào tháng năm, cho dù anh ta mãi đến tháng Bẩy mới mãn hạn, cũng không nên giữ anh ta lại. Có người gặp tình trạng gia đình. Nhiều thứ phải cân nhắc, không để giống như hồi năm 1954 ở Hà Nội, Tòa Lãnh Sự Mỹ và các nhân viên ở đấy dù không bị giữ làm con tin, nhưng họ đã tự phong tỏa, tự khóa cửa và phải ở trong khuôn viên hàng mấy tháng, không liên lạc đuợc với ai.
Cái khẩu lệnh ấy cũng đã được chuyển ra ngoài hạm đội: Tòa Đại Sứ sẽ ở lại. Tư Lệnh Hạm Đội, Đề Đốc Noel Gayler, tất nhiên không phải là chuyên viên phân tích chính trị. Nghe thế, ông ta bèn nói “Vậy à, Tòa Đại Sứ ở lại. Phi công! Trở về giường mà phè một giấc!” Thế là xăng lại được hút khỏi trực thăng, vì người ta không được phép chứa trực thăng có xăng ở trên tàu. Người ta lại phải chuyển trực thăng khỏi sàn máy, đưa xuống tầng dưới.
Bấy giờ là 9 giờ sáng, hoặc giả trễ hơn một chút. Rồi đến 11 giờ 30, cuối cùng lại có lệnh ban ra: Tất cả mọi người phải di tản. Tôi không rõ lệnh này chuyển đến Đề Đốc Hạm Đội lúc nào. Đại Sứ Martin nhận lệnh lúc 11 giờ 30. Xem như Cố Vấn An Ninh Brent Scrowcroft phải thông báo Ngũ Giác Đài, nhưng bấy giờ là đang đêm ở Hoa Thịnh Đốn, có lẽ người làm việc không có mặt. Tôi không rõ đề đốc nhận lệnh ấy lúc mấy giờ. Sau này tôi hỏi ông ta trên chiến hạm: ‘’Chuyện gì xảy ra vậy ?’’ Ông ta đáp: ‘’Chẳng có chuyện gì. Khi nhận tin di tản, tôi cho trực thăng đổ xăng, tôi gọi phi công, rồi lại được yêu cầu phải gửi một lực lượng an ninh Thủy Quân Lục Chiến vào Sài Gòn trợ giúp di tản, nhưng lính không có mặt trên những tàu chở trực thăng. Vì thế lại phải lo đưa lính từ khắp các tàu khác đến mấy chiếc tàu chở trực thăng. Mấy công tác ấy phải tốn thì giờ.’’
Nếu bạn hỏi, tôi sẽ nói: Tôi chả ngạc nhiên gì việc này. Tôi rất hoài nghi khả năng Quân Đội Hoa Kỳ khi cần đương đầu tình trạng khẩn cấp. Họ làm việc kiểu con rùa hành chánh: Chậm chạp, lè phè. Lấy đấy mà xem, họ đã được thông báo tình hình Sài Gòn như vậy từ hai giờ trước, mà lính không đặt gần những tàu chở trực thăng, lại đưa tản mác trên những con tàu rải rác khắp mặt biển, thế là làm sao!
Còn một việc nữa cũng không được dự liệu trước. Đó là việc một khi tin tức người Mỹ rời Việt Nam truyền ra, là đông đảo người ta sẽ tụ khắp chung quanh Tòa Đại Sứ, việc di chuyển sẽ trở nên vô phương. Do đó làm sao còn có thể sử dụng xe hơi, xe buýt chở người qua lại giữa Tòa Đại Sứ và Văn Phòng Tùy Viên Quân Sự được, vì hễ mở cổng đủ rộng cho xe đi thì dân chúng sẽ như cuồng phong tràn vào.
Buổi sáng hôm ấy, chúng tôi bắt đầu thiêu hủy tài liệu. Trung Ương Tình Báo có một thể lệ rất tốt, đó là tất cả hồ sơ đều phải có một phó bản giữ ở Hoa Kỳ, cho nên nếu có một trạm tình báo nào mất hồ sơ thì chẳng hề gì, chỉ mất công chút đỉnh. Vì vậy chúng tôi tiêu hủy tất cả, chúng tôi đi khắp các văn phòng một cách có phương pháp để phá bỏ bất cứ tài liệu nào về những người Việt có liên hệ chặt chẽ với chúng tôi.
Về cái cây me nổi tiếng thì trong tất cả những buổi họp ở Tòa Đại Sứ, qua mọi cuộc thảo luận, tôi chưa hề nghe ai nói, bàn gì về chuyện cưa cái cây này xuống. Tôi có nhiều tình cảm với cái cây me này chỉ vì đấy là một biểu hiệu đẳng cấp trong Tòa Đại Sứ: Dưới cái cây là một bãi đậu xe, đậu dưới bóng cây thì mát mẻ, đậu ngoài nắng nhiệt độ như lò lửa. Cho nên được đậu xe dưới bóng cây me ấy tức là biểu hiệu đẳng cấp cao của Tòa Đại Sứ! Nhưng trang nghiêm mà nói, chưa bao giờ tôi nghe cái cây này có liên hệ gì đến chuyện di tản. Còn hiển nhiên, chúng tôi sẽ phải mang trực thăng lớn vào bãi đậu xe, cái cây này mọc chính giữa bãi đậu, tất là sẽ phải hạ cái cây thế thôi.
https://i1.wp.com/www.nguyenkhapnoi.com/files/2013/04/hinhanhcuoi23.jpg
Sáng hôm sau, khi Đại Sứ đã ra đi, không có chuyện gì để tôi ở lại nữa. Còn các nhân viên truyền tin của tôi không thể đi nếu tôi hãy còn nấn ná ở lại. Viên phụ tá của tôi và mấy người khác cũng bảo nếu tôi còn ở đấy, họ cũng chưa chịu đi. Tôi xếp đặt cho mọi người ra đi theo các thứ tự cần thiết, nói thế không phải là giảm giá người này người nọ, nhưng có người công việc đã xong thì đi trước, ví dụ nhân viên truyền tin không còn gì để làm nữa, những người phụ trách công tác Vùng I, II, III cũng thế, các nhân viên hành chánh và quản trị nhân viên cũng có thể đi trước. Nhưng nhân viên lo việc vùng châu thổ vẫn còn cần, vì tôi chưa rõ hết tình hình Vùng IV ra sao.
Theo phương pháp ấy tôi quyết định ai đi, đi lúc nào, mọi sự trôi chảy, không gặp phiền phức, không bị tràn ngập. Tuyệt đối tốt. Tuyệt đối không trở ngại gì. Có lẽ những chuyện cuối cùng đáng kể là chuyện chúng tôi kéo người Việt ở bên ngoài vào Tòa Đại Sứ qua bức tường. Lúc ấy quanh Tòa Đại Sứ có cả vạn người, đúng số là như vậy, với đám đông vây quanh, thật khó cho người ta đến gần Tòa Đại Sứ. Nhưng bên ngoài còn có những người mà chúng tôi bắt buộc phải đưa họ di tản, ví dụ người Trưởng Ngành Tình Báo, ông Phụ Tá Cảnh Sát Đặc Biệt mà thực tế là Cảnh Sát Chính Trị. Vợ và con của Trung Tướng Tổng Cục Trưởng Chiến Tranh Chính Trị. Ông Tổng Trưởng Quốc Phòng Trần Văn Đôn. Ông Trưởng Ban Nghi Lễ và Gia Đình. Tất cả đều ở ngoài Tòa Đại Sứ. Làm sao chúng tôi có thể mang họ di tản đây ? Tôi không còn thể nào liên lạc được với họ. Nhưng phần ông Đôn cũng thu xếp vào được một chiếc trực thăng đậu đại trên một nóc cao ốc (nóc nhà này không được xây cất để trực thăng đáp, riêng đây tự nó cũng là một câu chuyện).
Còn một số người khác khỏe mạnh, quả quyết hơn, lấn được đến rào, chúng tôi nhấc bổng được họ, đưa vào Tòa Đại Sứ. Bấy giờ trong đám đông bên ngoài có một số sĩ quan quân đội mà chúng tôi đã thỏa thuận: Nếu họ đưa vào được một số người mà chúng tôi muốn, thì sau cùng chúng tôi sẽ kéo họ vào cho họ đi. Chúng tôi cũng tìm được cách chuyển người đi qua đường phố Sài Gòn bằng cách giao dịch, thỏa thuận với cảnh sát, chúng tôi bảo họ: “Cho gia đình các ông vào cùng với mấy người này, chừng nào các ông đưa được họ vào máy bay hay xe buýt an toàn, chúng tôi sẽ bốc các ông đi luôn.’’
Những cuộc sắp đặt với cảnh sát có vẻ thân hữu hơn vì chúng tôi biết họ, tin họ, họ cũng tin cậy chúng tôi. Buồn cười nhất là vào ngày cuối cùng, người ta đã đưa một nhóm người di tản như thế bằng cả một đoàn xe mô tô màu trắng oai vệ của Liên Đoàn An Ninh Phủ Tổng Thống, nối đuôi nhau đi.
Tại sân Tòa Đại Sứ, chúng tôi dùng xe hơi cho châu đầu vào phía giữa để khi trời tối thì chạy máy, rọi đèn pha lên, rồi cứ để như thế, hễ còn xăng, còn bình điện thì còn ánh sáng.
Rồi có lệnh chúng tôi phải đi và ông Đại Sứ cũng được bảo: “Ngài phải vào chiếc máy bay này.’’ Còn chúng tôi, lúc đầu họ bảo trực thăng đậu dưới sân, tất cả chúng tôi xuống thang nhưng không thấy trực thăng đâu vì họ đã đổi chương trình, rồi họ lại bảo: “Trực thăng sẽ bốc từ nóc sân thượng.’’
Tôi không có một gắn bó tình cảm nào quá lớn đối với Việt Nam như vài bạn đồng nghiệp của tôi đã quả tình yêu mến đất nước này. Nhưng đến giây phút cuối, nhìn thấy chung cuộc xảy ra thế ấy, tôi nghĩ chúng ta đã làm một việc tồi tàn đối với dân tộc này, đáng lẽ họ được khá hơn nếu đừng bao giờ chúng ta đến đây. Ngay từ lúc đầu!
Khi chúng tôi ra đi, trời đã rất tối. Phía Tân Sơn Nhất thấy vài đám cháy, nhưng nói chung ban đêm thành phố vẫn có vẻ bình thường. Đường vẫn sáng đèn, xe cộ vẫn sáng đèn. Thực kỳ dị, đó là một điều lạ lùng trong những ngày cuối cùng. Không phải chỉ những ngày cuối cùng mà suốt cả mấy tuần lễ cuối cùng, mọi sự đều có vẻ không thực, bởi vì tất cả vẫn cứ hiện ra một vẻ rất bình thường. Nó không giống như cuộc vây hãm ở Warsaw, bạn hiểu không. Một ngày trước hôm sụp đổ, bạn vẫn còn có thể ra nhà hàng kéo ghế, còn thưởng thức được một bữa thịnh soạn, vẫn có thể ngồi nhấm nháp một cốc rượu vang ngon lành.
Không có ai nã đạn khi chúng tôi ra đi. Đó là một chuyện khác nữa. Người Bắc Việt là những người có lý trí. Họ không giống những người Hồi Giáo cực đoan cuồng tín. Họ không dại gì tạo ra một biến cố nào nữa để có cớ cho người Mỹ can thiệp trở lại; và nếu họ sát hại ông Đại Sứ, việc này sẽ trở thành đại sự, ngay cả đối với Quốc Hội.
Việc tiếp nhận chúng tôi trên tàu Blue Ridge chứng tỏ Quân Đội Mỹ là hạng bét. Họ bắt đầu lục soát hết thảy mọi người. Tôi nghĩ có lẽ Đại Sứ là người duy nhất họ không lục soát.
Vào lúc bình thời, cấp bực của tôi còn trên xa cả Đề Đốc chỉ huy chiến hạm.
Nhưng không một ai phản đối gì. Chúng tôi đều mệt mỏi. Chúng tôi đều trầm lại. Và chúng tôi quả là một đoàn quân chiến bại.
Chiến bại dưới một tập đoàn ‘’Trước bồi tàu, sau cũng bồi Tàu’’.
Hết