; }

Saturday, September 10, 2016

TIỂU SỬ CHUẨN TƯỚNG PHẠM HỮU NHƠN

  TRƯỞNG PHÒNG 7 BỘ TỔNG THAM MƯU

Phạm Hữu Nhơn (1928), nguyên là một tướng lĩnh Bộ binh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, cấp bậc Chuẩn tướng. Ông xuất thân từ khóa duy nhất ở trường Sĩ quan Trừ bị được Quân đội Pháp và Chính phủ Quốc gia Việt Nam mở ra ở Bắc phần cùng thời điểm với khóa 1 Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức trong Nam phần. Ban đầu, sau khi ra trường ông phục vụ trong các đơn vị Bộ binh. Sau ông được giao nhiệm vụ thành lập và điều hành một trong các Phòng thuộc bộ Tổng tham mưu đặc trách về lĩnh vực điện tử (*) trong quân đội.


Tiểu sử & Binh nghiệp

Ông sinh ngày 1 tháng Giêng năm 1928 trong một gia đình  (*) khoa bảng tại làng Nam Trung, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên, miền Trung Việt Nam. Ông đã học tại các trường Trung học Khải Định ở Huế, trường Trung học Albert Sarraut ở Hà Nội theo chương trình Pháp. Năm 1947, ông tốt nghiệp với văn bằng Tú tài bán phần (Part I) tại Hà Nội. Trở về quê nhà, ông được bổ dụng làm công chức ở Huế một thời gian cho đến ngày gia nhập quân đội.

Quân đội Quốc gia Việt Nam

Cuối tháng 9 năm 1951, thi hành lệnh động viên, ông nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia, mang số quân: 48/201.757. Theo học trường Sĩ quan Trừ bị Nam Định, khai giảng ngày 1 tháng 10 năm 1951. Ngày 1 tháng 6 năm 1952 mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy (1). Ra trường, ông được chuyển đến phục vụ tại Tiểu đoàn 265 Việt Nam, đồn trú ở Lương Sơn, Phan Rí, Bình Thuận với chức vụ Trung đội trưởng. Năm 1953, ông thuyên chuyển sang Tiểu đoàn 85 Việt Nam, đồn trú tại Ninh Hòa, Khánh Hòa giữ chức vụ Trưởng ban 2, do Đại úy Nguyễn Quang Thông làm Tiểu đoàn trưởng. Đầu tháng 8 năm 1954, sau Hiệp định Genève (20 tháng 7), ông được thăng cấp Trung úy tại nhiệm.

Quân đội Việt Nam Cộng hòa

Cuối năm 1955, sau khi Quân đội Quốc gia được đổi tên thành Quân đội Việt Nam Cộng hòa, ông được chuyển về Bộ Tổng tham mưu, phục vụ tại Phòng Quân huấn, dưới quyền Trưởng phòng là Trung tá Trần Ngọc Tám. Giữa năm 1956, ông được thăng cấp Đại úy và được cử theo học khóa sĩ quan tham mưu ở trường Đại học Quân sự tại Sài Gòn.
Cuối năm 1958, ông được thăng cấp Thiếu tá và chuyển sang làm một trong ba Phụ tá (2) ở Trung tâm Hành quân tại Bộ Tổng tham Mưu do Đại tá Trần Thiện Khiêm làm Chỉ huy trưởng. Đầu năm 1962, ông được cử đi du học liền 2 khóa Chỉ huy Tham mưu, Bảo trì Cơ khí tại 2 trường Fort Leavenworth và Fort Knox, Hoa Kỳ.
Cuối năm 1963, sau cuộc đảo chính Tổng thống Ngô Đình Diệm, ông được cử đi học khóa tình báo tại Okinawa, Nhật Bản. Đầu tháng 2 năm 1964, sau cuộc Chỉnh lý nội bộ ngày 30 tháng 1 của tướng Nguyễn Khánh, ông được thăng cấp Trung tá nhận nhiệm vụ thành lập phòng 7 tại Bộ Tổng tham mưu và giữ chức vụ Trưởng phòng (3). Tháng 3 năm 1965, ông được thăng cấp Đại tá tại nhiệm.
Ngày Quốc khánh Đệ Nhị Cộng hòa 1 tháng 11 năm 1972, ông được thăng cấp Chuẩn tướng tại nhiệm. Đầu năm 1973, ông được cử đi học khóa 3 Cao đẳng Quốc phòng trong thời gian là 6 tháng.

1975

Ngày 30 tháng 4, ông cùng gia đình di tản ra khỏi Việt Nam. Sau đó sang định cư tại Haymarket, Tiểu bang Virginia, Hoa Kỳ.

Gia tộc và Gia đình

  • Ông Cố Nội: Cụ Phạm Tấn (nguyên là quan Hộ Vũ Sứ Ninh Bình, Án Sát Nam Định. Nguyên quán ở làng Long Phú, Gia Định).
  • Ông Nội: Cụ Phạm Năng Tuần (nguyên làm quan dưới triều Nhà Nguyễn, tước Hàn Lâm Viện Thị Độc).
  • Song thân: Cụ Phạm Hữu Văn (nguyên là quan Bố Chính Thanh Hóa) và cụ Trần Thị Phúc (ái nữ của cụ Trần Hữu Chiêm, nguyên là quan Án Sát Nam Định).
  • Anh cả: Ông Phạm Biểu Tâm (nguyên là Bác sĩ Trưởng khoa tại Đại học Y khoa Sài Gòn).
  • Em rể: Ông Phạm Hà Thanh (nguyên là cựu Chuẩn tướng, Y sĩ Cục trưởng Cục Quân Y của Quân lực Việt Nam Cộng hòa)
  • Phu nhân: Bà Nguyễn Thị Tích (tốt nghiệp Nữ hộ sinh Quốc gia tại Đại học Y khoa Hà Nội).

-Ông bà sinh hạ được 3 người con gồm 2 trai, 1 gái.

Chú thích

  • (1) -Tốt nghiệp khóa 1 Sĩ quan Trừ bị Nam Định, sau này lên tướng còn có:

-Trung tướng:
-Lê Nguyên Khang (SN 1931, nguyên Phụ tá Tổng Tham mưu trưởng).
-Nguyễn Bảo Trị (SN 1929, nguyên Tổng Cục trưởng Tổng cục Quân huấn).
-Nguyễn Đức Thắng (SN 1930, nguyên Phụ tá Kế hoạch Tổng Tham mưu trưởng).
-Thiếu tướng:
-Nguyễn Cao Kỳ (SN 1930, nguyên Tư lệnh Không Quân - Thủ tướng Chính phủ - Phó Tổng thống).
-Nguyễn Duy Hinh (SN 1929, nguyên Tư lệnh Sư đoàn 3 Bộ binh).
-Chuẩn tướng:
-Nguyễn Chấn (SN 1931, nguyên Cục trưởng Cục Công binh).
-Đặng Đình Linh (SN 1929, nguyên Tham mưu phó Tiếp vận Không quân).
-Nguyễn Văn Lượng (SN 1931, nguyên Tư lệnh Sư đoàn 2 Không quân).
-Vũ Đức Nhuận (SN 1926, nguyên Cục trưởng Cục An ninh Quân đội).
-Nguyễn Hữu Tần (SN 1930, nguyên Tư lệnh Sư đoàn 4 Không quân).
-Đặng Cao Thăng (SN 1929, nguyên Tư lệnh Vùng IV Sông ngòi Hải quân)
-Phan Phụng Tiên (SN 1930, nguyên Tư lệnh Sư đoàn 5 Không quân).

  • (2) -Hai Phụ tá nữa là:

-Thiếu tá Lý Bá Phẩm (SN 1923, khóa 2 Quang Trung, Võ bị Quốc gia Huế, sau cùng là Đại tá Tỉnh trưởng - Tiểu khu trưởng Khánh Hòa kiêm Thị trưởng Thị xã Nha Trang).
-Thiếu tá Nguyễn Hữu Toán (SN 1930, khóa 1 Sĩ quan Trừ bị Nam Định, sau cùng là Đại tá Chỉ huy trương Trung tâm Huấn luyện Quốc gia Lam Sơn kiêm Chỉ huy trưởng Huấn khu Dục Mỹ).

  • (3) -Tướng Nhơn giữ chức vụ Trưởng phòng 7 tại Bộ Tổng Tham mưu lâu nhất với thời gian 12 năm (1964-1975).

Nguồn : 

  • Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa :  Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011)

(*) Chỉnh sửa theo ý gia đình