NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA,
nguyên tác Anh Ngữ “Tears Before The Rain” là một tập sử liệu về sự sụp đổ của
miền Nam Việt Nam, do Larry Engelmann, Giáo Sư Đại Học San Jose State thực hiện
bằng phương pháp phỏng vấn nhiều thành phần: người Mỹ, người Việt, kẻ thắng
người bại …Những cuộc phỏng vấn này khởi sự từ 1985, sách xuất bản năm 1990. Bản
dịch Việt Ngữ do nhà văn Nguyễn Bá Trạc thực hiện năm 1993, xuất bản năm 1995
tại California.
PART 2
CHƯƠNG 7 : ỦY BAN LIÊN HỢP HOA KỲ
STUART HERRINGTON
(Đại úy – Ủy ban Liên hợp Quân sự, phái bộ Hoa Kỳ)
“Không ai sẽ bị bỏ lại! Đừng lo!”
Tôi rất lạc quan khi trở lại Việt Nam vào tháng 8 năm 1972.
Nhưng vào khoảng thời gian vụ ngưng bắn được ký kết, tôi bớt lạc quan đi. Lúc
nghe tin Nixon giải nhiệm, tôi bắt đầu cảm thấy khá chắc chắn: Xứ này có lẽ sẽ
sụp đổ. Khi Nixon rời nhiệm sở ngày 8 tháng tám năm 74, tôi lắng nghe tin trên
máy thu thanh trong văn phòng tôi tại Sàigòn, và đối với tôi, tin này mang một
giá trị then chốt. Niềm tin tưởng Nam Việt Nam có thể thắng và sống còn đã tuyệt
đối rúng động. Rồi đến vụ thất thủ Phước Long đầu năm 1975 mới là cái biến cố đã
làm cho tôi phải gửi hết vật dụng sở hữu về nhà, làm tôi viết thư cho ông bà già
mà nói rằng “Con sẽ về, có lẽ trước tháng tám.” Nó đã làm tôi viết đơn cho Ngũ
giác đài để bắt đầu tìm kiếm nhiệm vụ mới. Chính đấy là biến cố đã làm cho tôi
đưa vợ con ra khỏi vùng đồng bằng, về Sàigòn ở sát bên tôi.
Bấy giờ tại văn phòng Tùy viên Quân sự, chúng tôi sống trong
cái không khí ngày qua ngày, tùy thuộc vào việc Quốc hội Mỹ chấp thuận hay khước
từ những yêu cầu viện trợ thêm. Và lúc bấy giờ chỉ còn hàng loạt khước từ. Tùy
viên Quân sự lúc ấy, Tướng John Murray rất thất vọng, đôi khi ông than thở với
tôi. Ông cay đắng và chua chát. Việc ra đi của tướng Murray và sự cay đắng của
ông ghi lại nhiều ấn tượng sâu đậm trong tôi. Tình cờ, tôi có mặt trong văn
phòng ông sau khi ông lớn tiếng trong điện thoại với một nhân vật nào đó từ Bộ
Quốc phòng. Nhân vật này đã gọi để khiển trách ông vì cuộc phỏng vấn nói về việc
“đổi máu lấy đạn” với một phóng viên tờ New York Times. Ông kể cho tôi nghe cuộc
phỏng vấn, rồi bảo: “Tôi vừa nói với họ là nếu họ còn gọi điện thoại cho tôi
chuyện ấy nữa, tôi sẽ mở hẳn một cuộc họp báo tại Hạ Uy Di mà kể huỵch toẹt tất
cả cái câu chuyện khốn nạn này ra.”
Chuyến đi Hà Nội cho Ủy ban Liên hợp Quân sự vào ngày 11 tháng
Tư là chuyến đi Hà Nội cuối cùng của tôi. Sau đó, Harry Summers phụ trách vụ đi
này. Dầu sao, không còn nghi hoặc gì nữa, bọn Bắc Việt đang nói một cách dõng
dạc và minh bạch rằng: “Chúng tôi sẽ để cho bọn các anh ra đi, hãy mang theo
người của các anh. Sẽ không có tắm máu. Máu chảy đã đủ rồi. Chúng tôi sẽ cần có
sự ủng hộ của nhân dân miền Nam để tái thiết đất nước.” Nhưng cái thông điệp
dõng dạc và minh bạch nhất, đó là: Bắc Việt không có ý định cản trở việc ra đi
của chúng tôi.
Họ muốn phái bộ Mỹ trong Ủy ban Liên hợp Quân sự ở lại – Họ
muốn giữ hiệu lực cho Hiệp định Ba Lê, bởi vì Hiệp định này chứa đựng những cam
kết của Hoa Kỳ hứa hẹn trả tiền hàn gắn vết thương chiến tranh trong điều khoản
XXI. Họ mong muốn củng cố hiệp định ấy, mặc dầu ngay việc ngưng bắn tự nó cũng
đã đổ vỡ do sự vi phạm của Thiệu, và mặc dầu, chẳng cách gì chúng ta có thể hoàn
tất được điều khoản VIII (b) là điều khoản liên hệ đến việc tìm kiếm người mất
tích trong khi thi hành công tác. Bắc Việt cảm thấy hiệp định Ba Lê là một thứ
khí cụ pháp lý để đạt viện trợ Hoa Kỳ.
Do đó, hiọ đã nói với tôi, với Harry Summers và bất cứ ai chịu
lắng nghe, rằng phái bộ Mỹ nên ở lại Sàigòn, bất kể tình trạng xảy ra cách nào,
chúng tôi vẫn sẽ được an toàn.
Tôi gửi các vật dụng sở hữu của tôi ra khỏi xứ chỉ vì tôi cảm
thấy tất cả mọi người đang rời đi. Cho đến bốn tuần lễ cuối cùng, chúng tôi mới
bắt đầu nghĩ phái bộ Mỹ trong ủy ban liên hợp quân sự có thể sẽ ở lại. Đại tá
John Madison liên lạc với Roger Shields, họ nói với ông ta: “Chúng tôi nghe rõ
rệt là người ta muốn chúng tôi ở lại. Chúng tôi cần được chỉ thị về việc này.”
Chúng tôi được họ bảo sửa soạn mà ở lại. Cho đến tận buổi sáng ngày 29 khi vào
toà Đại sứ, chúng tôi vẫn còn nghĩ chúng tôi sẽ ở lại.
Buổi sáng cuối cùng hôm ấy khi rời Tân Sơn Nhứt, chúng tôi đã
có: thuốc men, máy thu thanh, thực phẩm. Chúng tôi có một đoàn ba chiếc xe chất
đủ thứ, chúng tôi tuyển mộ cả một tay phụ trách truyền tin ở lại với chúng tôi.
Lúc ấy có một khoảng thời gian chừng như các nhà lãnh đạo quốc gia muốn chúng
tôi ở lại, và đây là một hành vi tượng trưng chứng tỏ rằng Hoa Kỳ đã sẵn sàng lo
liệu vụ những người mất tích. Vì thế, giống như những người lính tốt, chúng tôi
chuẩn bị thi hành, mặc dầu nói cho ngay cá nhân tôi không lấy gì nồng nhiệt cho
lắm về việc ở lại Sàigòn sau khi người Mỹ rút đi. Chúng tôi cười đùa với nhau
việc này, chúng tôi nói là chúng tôi sẽ chui vào một căn phòng trong toà đại sứ,
khoá cửa lại cầu nguyện để chờ bộ đội Bắc Việt kéo đến. Lại còn phải chuẩn bị
đối phó một chuyện nữa, ấy là: Chúng ta đã bỏ rơi những người miền Nam Việt Nam.
Họ không lấy gì làm vui lắm về chuyện này đâu.
Khoảng một giờ sáng ngày 28 tháng tư, Đại tá Summer, Đại tá
Madison và tôi đến khu hồ tắm tại căn cứ văn phòng Tùy viên Quân sự, nơi chất
người lên xe buýt đưa ra máy bay di tản. Tôi định đến văn phòng leo lên ghế dài
chợp mắt vài ba giờ. Tôi lái một chiếc xe Land Rover, đi ngang Trạm gác số 2 của
Thủy quân Lục chiến Mỹ. Trạm này ở ngang bên lề đường, sát căn cứ, lúc ấy có hai
Hạ sĩ Darwin Judge và Charles McMahon đang ứng trực. Tôi ngừng lại, hỏi: “Mọi
việc ra sao, các cậu.” “Tốt thôi, thưa Đại úy.” Cả hai đều mặc áo giáp. Tôi vào
văn phòng, ngả lưng một lúc trên cái ghế đệm dài của Đại tá Madison. Trong
phòng, có hệ thống vô tuyến truyền thanh để liên lạc với Thủy quân Lục chiến ở
toà Đại sứ. Hệ thống này liên hợp tất cả các trạm gác, tôi cho máy chạy. Đến bốn
giờ sáng, địch pháo kích. Một quả sang bên kia đường, trúng ngôi nhà của ông
tướng. Một quả đúng chỗ hai anh Hạ sĩ Judge và McMahon đứng. Một quả nữa vào khu
để xe moóc. Sức công phá của rốc-kết 122 ly thật dữ dội làm rung chuyển cả toà
nhà văn phòng Tùy viên Quân sự. Tôi nhớ lá cờ đặt trên bàn làm việc của Đại tá
Madison rơi xuống. Lập tức, tôi nghe tiếng la trong máy vô tuyến là khu tập thể
dục đã trúng đạn, bị nhiều thiệt hại. Tôi chạy ra khỏi văn phòng. Tôi đến trạm y
tế, phá cửa ra. Các Thủy quân Lục chiến tại cao ốc bấy giờ đang ở cả trong công
sự trú ẩn nằm phía ngoài cổng bộ chỉ huy văn phòng Tùy viên Quân sự.
Lệnh báo động vẫn còn. Tôi la lớn: “Ở đây có ai phụ trách cứu
thương không?” “Thưa, có tôi.” Tôi bảo người lính Thủy quân Lục chiến chỗ để
thuốc, tôi bảo anh ta lấy một chiếc xe chạy ra khu tập thể dục. Trước đấy tôi đã
thấy khoảng bốn trăm người trong khu này. Tôi nghĩ nếu quả rốc-kết đánh trúng
khu này thì thật lôi thôi.
Rồi tôi chạy đến cổng gác số hai. Chiếc xe cứu thương đang đậu
ở đấy, viên Trung sĩ Kevin Maloney đang đứng đấy, rồi chiếc xe cứu thương trở
bánh chạy đi. Còn Maloney vẫn đứng như trời trồng. Hắn đứng thẳng đuỗn người.
Tôi hỏi: “Anh làm gì vậy?” Hắn đáp: “Trình diện Đại úy, tôi Trung sĩ Maloney,
Tiểu đội Trưởng Cảm tử. Tôi đang canh gác vị trí. Hai người của tôi đã tử
thương.” Hắn vừa dứt, thì một quả rốc-kết phóng đến nổ tàn bạo bên kia đường.
Đây thực là một thứ vũ khí khủng khiếp. Cả hai chúng tôi nhảy ùm vào một đường
rãnh. Tôi nói: “Bạn già Maloney ơi. Nếu muốn canh gác thì chỗ này tốt hơn. Nằm
chỗ này mà canh.”
Đúng lúc quả rốc-kết 122 ly bắn đến, đại liên bắt đầu khạc
đạn. Toàn thứ dữ, loại một trăm ba mươi ly. Đạn bay phía dưới đường, bên kia
đường. Nhìn lửa cũng có thể biết một loạt ngắn đã rơi xuống ngay bên kia đường,
trước mặt chúng tôi. Gần đến phát khiếp. Miểng đạn văng ra, đụng mấy sợi xích
cánh cổng kêu rổn rảng ngay phía sau chúng tôi.
Tôi không có mũ sắt, chỉ đội mũ vải. Cái mũ sắt đã để trong
khu Cư xá Sĩ quan độc thân. Tôi bò đến lượm một cái mũ sắt nằm lăn lóc trên mặt
đất, đội vào đầu, rồi bò về lại chỗ Maloney. Lúc ấy họa có khùng mới đứng dậy.
Tôi cứ nằm đấy, chờ dịp bò ra. Trong không khí nặng nề của lệnh báo động và
những loạt đạn rơi, chẳng ai dại đánh bạc với tính mệnh để đứng dậy đi quanh.
Cho nên chúng tôi nằm phục ở đấy. Đây sẽ là vị trí canh gác của Maloney, khi nào
hoàn hồn, hắn sẽ ngồi đấy mà canh. Lửa phụt từ phía bên kia đường, chỗ dốc Tân
Sơn Nhứt. Có nhiều tiếng phát nổ. Maloney chợt thấy bóng người băng ngang đường
chỉ cách chúng tôi năm mươi, sáu mươi bộ Anh về phía trái. Hắn nhắm mũi súng, dù
không biết đấy là ai. Chúng tôi nhảy vọt ra. Hắn cầm khẩu M- 16, tôi cầm khẩu
45, chặn họ lại. Hoá ra là hai an ninh người Việt làm cho một hãng thầu Mỹ.
Maloney bắt họ dừng. Tôi nhận ra họ. Họ nói tiếng Việt bảo tôi họ phải chạy ra
vì đạn bắn rất chính xác, ở đây nguy hiểm quá.
Một vài chiếc máy bay cất cánh trong lúc vẫn còn lệnh báo
động, ít nhất có một chiếc AC-119 bay lên. Rồi một chiếc thám thính cơ cũng bay
lên. cả hai đều bị hoả tiễn tầm nhiệt bắn hạ. Hàng ngàn người chứng kiến việc
ấy.
Tôi nhớ còn có một chiếc Hueys của hãng Air America bay lởn
vởn, nhưng tôi nhớ chắc chắn một chiếc AC-119 và một chiếc máy bay bà già L-19
đã cất cánh, cả hai đều bị bắn hạ trong tầm chứng kiến của cả thành phố Sàigòn.
Chúng tôi về nằm lại chỗ đường rãnh một lúc. Bấy giờ trời bắt
đầu hửng sáng. Maloney và tôi ngồi dậy – Lệnh báo động đã rút. Chúng tôi đi
quanh. Chúng tôi tìm thấy mảnh vụn các tử thi rơi vung vãi. Một chiếc giầy bốt
còn nguyên bàn chân bên trong. Một phần của khẩu M- 16 với cò súng và cơ bẩm còn
nguyên danh số nhờ đó sẽ xác định được của ai. Vài miếng thịt da người văng lên,
mắc vào sợi giây xích sắt móc trên cổng ra vào.
Sau đó tôi tìm ra là loạt đạn đại liên đã rơi ngay vào sân
đánh banh tay của văn phòng Tùy viên Quân sự. Những bức tường gỗ của sân banh
găm đầy miểng đạn. Tôi nghĩ chỉ có một, hai người bị thương nhẹ, thế thôi. Mấy
vòng bắn tạo ra sợ hãi hơn là thiệt hại. Còn Hạ sĩ Judge và Hạ sĩ McMahon chẳng
may đã đứng ở một chỗ xui vào một lúc xui.
Tôi mang khẩu M-16 vào trung tâm chỉ huy đưa cho Đại tá Thủy
quân Lục chiến Slade, đụng đầu Joan là vợ của tướng Homer Smith khi bước vào. Bà
ấy thét lên khi thấy tôi. Tôi chẳng hiểu tại sao bà ấy thét dữ dội thế, tay cứ
chỉ vào tôi.
Tôi dở cái mũ sắt khỏi đầu. Cái mũ sắt tím bầm máu. Tôi vào
phòng vệ sinh, cạo rửa lớp máu, thấy một cái lỗ to tướng ngay trên thành mũ.
Giống như có ai đã dùng dao mở hộp mà khoét một cái lỗ trên ấy.
Đó là cái mũ sắt của Hạ sĩ Judge mà tôi nhặt được và đã đội
lên đầu. Sau đó tôi đội cái mũ này trong suốt cuộc di tản. Tôi đội cái mũ ấy ở
Bangkok. Rồi tôi gửi cái mũ sang Mỹ kèm lá thư kể rõ lai lịch cho Bộ Tư lệnh
Thủy quân Lục chiến Hoa kỳ. Tôi nói tôi cảm thấy họ phải giữ cái mũ này, cái mũ
có viết tên Hạ sĩ Judge với một cái lỗ to tướng trong ấy. Tôi gửi cho Thủy quân
Lục chiến để đưa vào viện bảo tàng của họ, nhưng không bao giờ nhận, một chữ hồi
âm. Tôi nghi có thằng chó đẻ nào đã xoáy mất cái mũ này. Đáng lẽ, tôi cứ giữ lấy
cái mũ thì hơn. Tôi đã định gửi cái mũ cho gia đình người lính trẻ, nhưng tôi
suy ngẫm, tự bảo: “Đừng làm thế, Herrington ạ. Làm thế hơi quá. Có những người
bố muốn giữ cái mũ của con, nhưng có những người bố không thể chịu đựng nổi. Hãy
để yên cho các đại diện tang ma của Thủy quân Lục chiến đến mà chia buồn với gia
đình nạn nhân.”
Vào Trung tâm Chỉ huy, tôi lấy một tấm bản đồ – bởi vì không
phải tôi cứ nằm phưỡn mà chơi. Tôi cố tính toán xem đạn bắn đến từ hướng nào.
Tôi vẽ mũi tên chỉ hướng đạn bay tới, tìm cách định điểm vị trí đặt súng. Tôi
tính toán đầy đủ, để sẵn trong trung tâm ngõ hầu có ai cần phản ứng gì, hoặc dội
ít quả bom xuống bọn chúng chăng. Rồi người ta bảo là Đại tá Madison và Đại tá
Harry Summers đang kiếm tôi, chúng tôi được lệnh phải làm báo cáo cho toà Đại
sứ.
Tôi liên lạc với Đại tá Madison và Đại tá Harry Summers lúc
bảy giờ sáng. Chúng tôi ăn điểm tâm trong văn phòng Đại tá Madison. Bữa ăn do
tôi nấu. Vì không biết chuyện gì sẽ xảy ra, lúc nào mới được ăn bữa kế, nên với
cả đống đồ ăn ở đây, chúng tôi ăn thả dàn. Tôi chiên trứng với thịt heo muối,
khui một chai sâm banh, nghe thật tởm, nhưng tôi nhớ tôi đã làm như thế. Ăn nhậu
kiểu này, coi như sẵn sàng chấp nhận mọi tai ương của số mệnh, mà hỏi “Tốt lấm,
cái gì bây giờ đây?” Thật hiển nhiên chung cuộc đã gần kề. Chúng tôi lai rai một
lúc, giữ liên lạc với toà Đại sứ cho đến khi được lệnh lên đấy.
Lái xe đi, chúng tôi sẵn sàng một chuyến sôi nổi, vì lúc ấy
mọi con đường đều dẫn đến Tân Sơn Nhứt. Khắp nơi, lũ lượt người Việt tỵ nạn kéo
đến Tân Sơn Nhứt, người Mỹ nào thò mặt ra đường trong bối cảnh này đương nhiên
phải chấp nhận mọi rủi ro rắc rối thôi. Vì thế, chúng tôi phải đi hai, ba xe.
Tôi lái chiếc Land Rover. Madison và Summers đi chiếc Ford đen – cho xe ra cổng,
chúng tôi bảo: “Phải đi sát nhau. Lạy Chúa. Cầu cho chúng ta đi đến nơi về đến
chốn!”
Bấy giờ đường phố đang hỗn loạn, rất dễ trở thành nạn nhân của
lính Việt Nam Cộng Hoà. Họ đang bất bình. Cái ấy mới đáng lo, chứ chúng tôi
không nghĩ gì đến lính Bắc Việt. Vừa ra cổng đã thấy có chuyện lộn xộn, tôi phải
quành xe ra rìa đường, leo qua rãnh mà tránh đám chướng ngại. Tôi không còn nhớ
có chuyện quỷ quái gì xảy ra, nhưng tôi nhớ đã phải chạy trước với chiếc Land
Rover như vậy. Tôi nhìn gương chiếu hậu, van vái cho Madison và Summers cùng qua
được. Và họ cũng vọt qua được. Trên đường đến toà Đại sứ chúng tôi nhìn thấy
những đám đông chạy quanh như cơn lốc, mọi thứ xảy ra đều có một vẻ rất là bất
định. Sau lưng chúng tôi, những cột khói bốc lên từ Tân Sơn Nhứt. Tôi cảm thấy
nhẹ người khi thoát được khỏi cổng Tân Sơn Nhứt, bởi sau đó sẽ còn nhiều chuyện
xảy ra đến rợn tóc.
Chúng tôi lái xe chạy đến toà Đại sứ. Trong toà Đại sứ, có một
trung úy Thủy quân Lục chiến phụ trách máy truyền tin đứng trên sân thượng gọi
chuồn chuồn vào. Cha này trượt chân khỏi bãi đáp trực thăng, rơi lộn cổ từ sân
thượng toà Đại sứ xuống mái nhà cách khoảng 15 bộ Anh, cấm đầu xuống, phải chở
hắn ra ngoài hạm đội chữa trị. Lúc ấy, thỉnh thoảng mới có trực thăng bay vào,
rất rời rạc, chúng tôi không biết tại sao. Máy truyền tin của lính Thủy quân Lục
chiến không được tốt để liên lạc với văn phòng Tùy viên Quân sự. Họ có thể nói
chuyện với trực thăng, nhưng không gọi vào văn phòng Quân sự được.
Khi chúng tôi biết như thế thì trời đã tối. Chúng tôi đều sửng
sốt. Đại tá Madison bảo: “Lạy Chúa tôi. Đây là một chuyện ngu xuẩn nhất mà tôi
chưa hề được biết.” Vì vậy tôi vào, tóm một cha, tôi hỏi: “Này, lôi thôi quá.
Bạn biết tần số của Trung tâm Điều hành Di tản tại Tân Sơn Nhứt không?” Hắn cho
biết, tôi bèn đi ra cái xe thùng trong đó có máy vô tuyến. Tôi lôi máy ra, gắn
một cây ăng-ten dài, sử dụng tín hiệu của Thủy quân Lục chiến tại toà Đại sứ mà
gọi vào văn phòng Tùy viên Quân sự.
Hóa ra mấy cha bên văn phòng không biết chuyện gì đang diễn ra
bên toà Đại sứ cả. Khi họ nghe tiếng gọi trong đêm, có một người đến trả lời
máy. Tôi bèn hỏi: “Chuyện gì vậy? Chúng tôi đợi mãi sao không thấy trực thăng
đến?” Hắn bảo: “Tình trạng ở đấy ra sao?” Tôi đáp: “Tình trạng ở đây là có vài
ngàn người đang đợi trực thăng. Trực thăng đâu?” Hắn bảo tôi đợi.
Thế đấy, chúng tôi chỉ cách nhau có năm dặm Anh mà lại không
có phương tiện truyền thông. Lúc ấy khoảng tám giờ đêm 29 tháng tư. Sau đó,
chúng tôi biết việc di tản ở văn phòng Tùy viên Quân sự tiến hành nhanh chóng,
không trở ngại gì nhiều, và việc di tản đã được dành ưu tiên cho nơi này. Chừng
nửa đêm sau khi công tác tại đấy hoàn tất, ưu tiên của chuồn chuồn sẽ chuyển
sang chúng tôi. Chúng tôi chỉ cần bình tĩnh đợi thôi.
Nhưng khoảng nửa đêm, gần như tất cả các chuyến bay tại toà
Đại sứ đều ngưng. Nếu biết trước như thế, chúng tôi đã có thể sắp xếp. Sắp xếp,
nghĩa là chúng tôi đã có thể nói cho mọi người được biết. Vì tình trạng như thế
làm người ta tưởng chúng ta đã bỏ rơi họ, nên chúng tôi phải vất vả đương đầu
với những người này. Họ rất sợ bị bỏ rơi. Chúng tôi cứ phải đi quanh nói với mọi
người rằng: “Đã có lời hứa tất cả chúng ta sẽ ra đi – Trực thăng sẽ đến. Đừng
lo, cuộc di tản chưa chấm dứt. Ngoài ra, tôi vẫn còn đang ở đây với quý vị,
chính phủ tôi chắc chắn sẽ không bỏ rơi tôi. Hãy bình tĩnh. Chừng nào tôi còn
đây thì tôi sẽ đi chuyến chót sau khi tất cả quý vị đã ra đi. Vậy xin hãy cộng
tác với chúng tôi bằng cách trở lại hàng cho ngay ngắn, đứng vào với gia đình,
đừng xô đẩy, chen lấn nữa.”
Bấy giờ rất tối. Nhiều lộn xộn xảy ra. Người ta chen khủng
khiếp, đến độ kinh hoàng. Một thông dịch viên người Việt trẻ tuổi chạy đến thầm
thì vào tai tôi, nói mấy người xô đẩy đó là đám người Đại Hàn. Họ không hiểu
chúng tôi nói gì, nên cứ xô đẩy chen lấn. Vì vậy tôi cầm cái loa nói bằng tiếng
Anh hỏi xem có sĩ quan Đại Hàn nào ở đấy không. Một sĩ quan Hải quân Đại Hàn,
tùy viên Đại sứ Đại Hàn, cùng vợ tiến đến. Tôi nói: “Ông phải giúp chúng tôi
điều khiển người của các ông.”
Họ có chừng bốn mươi, năm mươi người đàn ông đàn bà, nhân viên
toà Đại sứ Đại Hàn. Ông Đại sứ, bí thư, các Tùy viên Quân sự, Tùy viên Hải quân,
cùng với gia đình họ đều có đấy. Đầy đủ cả mà chúng tôi không biết.
Ông Đại sứ Đại Hàn, bí thư Đại sứ, các Tùy viên Quân sự sau
cùng đều đi được, nhưng họ đã cố quyết mang vào trực thăng những chiếc vali của
họ, nên tôi phải bắt bỏ lại. Chúng tôi đã bảo mọi người không được mang theo
vali. “Xem lại vali của quý vị, lấy ra những gì quý giá: thư từ, giấy tờ…đem
theo. Nhưng vali không được phép mang đi. Trực thăng chỉ chở người, không chở
hành lý.” Tất cả những người Việt Nam đều tỏ vẻ chịu đựng tuân hành. Chúng tôi
bảo mọi người là họ có thể mang theo mấy cái xách tay nhỏ, hay cặp giấy nhỏ, thì
được. Bấy giờ tôi kiểm soát lối vào trực thăng, nên khi một người Đại Hàn tiến
đến với một cái vali, tôi giật vali khỏi tay hắn, ném vào mấy bụi cây. Một cha
thứ hai lại cố làm như vậy, tôi lại giật cái vali, ném vào bụi. Người thứ ba là
một phụ nữ, kéo lê một cái vali nữa, tôi giật lấy khỏi tay, lại ném vào bụi cây.
Cô ta rú như tử thần, bò lăn lộn, nhào ra lấy lại cái vali, cố đưa vào trực
thăng lần nữa. Tôi giật khỏi tay cô ta lần thứ hai, ném cái vali bảo cô vào trực
thăng mau. Cô ta lại chạy trở ra, nhặt cái vali. Cô ta bíu chắc lấy cái quai
xách, nhất định không buông. Cuối cùng, tôi lấy khẩu M-16 dộng báng súng vào
cánh tay cô ta khoảng ba lần, tôi hét lên những câu không thể in ra đây được,
cho đến khi cô ta la thét lên vì đau mà buông cái vali ra. Tôi nhấc bổng cô ta,
ném vào trực thăng, chiếc trực thăng bay đi. Cái trực thăng này là chuyến cuối
cùng chở thường dân. Sau này tôi được biết đó là thư ký riêng của Đại sứ Đại
Hàn. Cô ta bị bầm khắp cánh tay. Sau này Đại tá Harry Summers cũng có nói với
một sĩ quan Đại Hàn rằng: “Anh nên giải thích cho cô ấy biết nếu Đại úy
Herrington không nhét cô ấy vào trực thăng thì giờ này có thể cô ấy đang nằm tù
ở Hà Nội. Ông ta đã cho cô ấy đi. Nếu ông ta để cô ấy ở lại với cái vali thì giờ
này cô ấy vẫn còn ở đấy với cái vali.” Chiếc vali đựng vàng và nữ trang. Nó nặng
phát khiếp. Hiển nhiên, nó đựng tất cả những gì quý giá thu nhặt của tất cả
những người Đại Hàn. Đại tá Harry bảo người sĩ quan này hãy thuyết phục cô ta
rằng cô đừng phiền trách gì tôi, bởi chính tôi đã cứu cái mạng còm của cô ta.
Một hai tuần lễ trước khi xứ này sụp đổ, tôi lấy làm ngờ về
việc cá nhân tôi có thể ra đi trong vòng danh dự. Tôi hết sức lo lắng, tôi nói
với ông bà già của tôi rằng với cách giải quyết tình hình đã xảy ra từ nhiều năm
qua, thì chẳng lý do gì để mong đợi một sự đối phó mã thượng vào giây phút cuối.
Tôi lo lắng cực độ rằng chúng tôi sẽ bỏ rơi người của chúng tôi, các nhân viên
chúng tôi, gia đình họ, các bạn hữu của tôi. Là một người Mỹ, mặc dầu chính tôi
đang phụ trách việc di tản tất cả những người Việt có lý do chính đáng ra đi,
tôi thực lo sợ vào phút chót, có thể người ta sẽ bảo “Hãy cứu lấy người Mỹ, quên
mẹ nó những bọn khác đi.” Tôi lo lắng việc ấy ngay từ đầu. Không có bao nhiêu
người Mỹ quan tâm về những người Việt trong cái bối cảnh ấy, nhưng có tôi, có
Đại tá Madison, Đại tá Harry Summers đã lo lắng về họ.
Nhưng đêm hôm đó tại toà Đại sứ, trực thăng bay rất nhanh, chỉ
kịp đủ thì giờ cho chúng tôi quẳng người vào. Khoảng đâu chừng từ nửa đêm đến ba
giờ sáng (ba giờ rưỡi là chuyến chót bay vào), Đại tá Madison đã phát biểu nhiều
câu rất nặng với Wolf Lehman, Phó Đại sứ, người thực sự phụ trách công việc.
Theo quan niệm của tôi và của rất nhiều người khác, Đại sứ Martin đã đau yếu
trầm trọng vào cái bối cảnh của cuộc chơi này. Ông có ra ngoài, tự xem xét công
việc với một vệ sĩ, nhưng ông run lẩy bẩy, cho nên người có thẩm quyền để chúng
tôi liên lạc chính là Wolf Lehman. Lehman rất điềm tĩnh, ông ta lạnh như tiền.
Ông ta bước ra, nói: “Quý ông biết là phải tranh thủ gấp, sắp hết giờ, Hoa Thịnh
Đốn mất kiên nhẫn rồi.” Madison bảo: “Chúng tôi đã đếm đầu, còn lại 420 người ở
đây, chúng tôi còn cần vài chiếc trực thăng nữa.” Và Lehman nói: “Được, ông sẽ
có những gì ông cần.” Cho đến lúc đó, chúng tôi đã tuyệt đối kiểm soát tình thế.
Chúng tôi đã cho người tỵ nạn đứng thành nhóm, chỉ còn sẵn sàng đẩy họ vào mấy
chiếc chuồn chuồn. Suốt đêm đó khi chuồn chuồn bay vào, chúng tôi đặt sẵn từng
nhóm, chỗ này 50 người, chỗ kia 50 người. Nếu là chuồn chuồn lớn, chiếc CH- 53
đến thì chúng tôi đẩy cả nhóm vào. Nếu là chuồn chuồn nhỏ, chiếc CH-46, thì một
nửa nhóm vào. Lúc Lehman ra kiểm điểm tình hình, Madison báo cáo với ông ta còn
lại bao nhiều người, còn cần bao nhiêu trực thăng, thì Lehman nói: “Được, tôi sẽ
thu xếp,” chính đến lúc đó, mọi việc đổ vỡ.
Cầu thang lên nóc thượng toà Đại sứ chen chúc người. Vì nếu
chỉ dùng bãi đáp tại khu đậu xe không đủ, nên phải dùng cả sân thượng cho chuồn
chuồn đậu. Chúng tôi đã nhồi vào cầu thang mấy trăm người Việt giống như bóp ống
kem đánh răng. Họ sẽ đi bằng trực thăng CH-46 trên nóc thượng. Người ta từng bảo
sân thượng này không chịu đựng nổi sức nặng của chiếc CH-46, nhưng chúng tôi vẫn
cứ phải dùng.
Rồi người ta bảo chúng tôi là chỉ còn sử dụng một bãi đáp
thôi, hãy mang hết người Việt trong cầu thang, đẩy họ ra, để tất cả mọi người ở
ngoài. Lehman lại bước đến bảo Madison: “Tôi nghĩ sắp dứt điểm rồi.” Madison
nói: “Sao được, hãy còn 420 người nữa, việc này chắc chắn làm được, chúng ta đã
cam kết với họ.” Madison khá cứng rắn việc ấy. Lehman trả lời: “Được, tôi sẽ sắp
đặt chuyện này.”
Cho nên khi Lehman bước khỏi bãi đậu xe thì Madison tưởng
chúng tôi đã nhận được lời bảo đảm của người điều khiển chương trình là sẽ lo
liệu cho tất cả mọi người ra đi. Nên ông bảo tôi đi loan báo cho tất cả mọi
người được biết. Do đó tôi đã thi hành.
Tôi nói với họ bằng tiếng Việt: “Không ai se bi bo lai! Dung
lo!” (Không ai sẽ bị bỏ lại, đừng lo!) Tôi nhắc đi nhắc lại như thế nhiều lần.
Chính tôi cũng đã tin như thế. Madison đã tin như thế. Summers đã tin như thế.
Rồi đột nhiên không còn chuồn chuồn nữa.
Kean bước đến gần Madison, tôi thấy họ nói chuyện với nhau một
cách trầm trọng. Bấy giờ tối trời, nhưng có đèn pha và đèn xe hơi rọi. Madison
cãi với Kean, ông ta bảo: “Phải có mấy cái trực thăng mà họ đã hứa với tôi, nếu
không tôi sẽ trình chuyện này lên ông Đại sứ.” Kean nói với Madison rằng: “Đây
là lệnh Tổng thống, tôi không thể cho lính của tôi chịu thêm hiểm nghèo ở đây
nữa.” Madison bảo: “Được, nếu cần hãy để tôi trình Đại sứ.” Kean nói: “Ông không
trình được nữa đâu. Đại sứ đã đi rồi.” Kean chỉ tay lên chiếc CH-46 vừa cất cánh
khỏi nóc sân thượng, chiếc máy bay mang số 09 do phi công Gerry Berry lái. Bấy
giờ là lúc 4 giờ 47 phút sáng.
Madison ngẩn người. Ông gọi Harry Summers và tôi lại bàn tán
“Cứt thiệt – Chúng ta làm gì bây giờ.” Madison nói: “Thủy quân Lục chiến đang
rút. Đây là lệnh Tổng thống. Chúng ta là bọn thua cuộc rồi.”
Và Madison bắt buộc phải ra một cái lệnh cứng rắn. Ông ta nói
với tôi: “Stu Herrington, anh ra đứng với mấy người Việt Nam. Hãy cho Harry và
tôi đủ thì giờ thu xếp rồi lên sân thượng. Xong, anh lên nóc thượng.” Bấy giờ
hãy còn lính Thủy quân Lục chiến ở ngoài, trên bức tường. Những người Việt còn
lại, 420 người lúc ấy tất cả đều ở trong bãi đậu xe. Họ ngồi thành hàng. Những
hàng này sắp ngay sau những chiếc xe mở máy, đèn pha đều bật sáng. Tôi ra ngồi
trên thành một chiếc xe với một cái máy truyền tin. Vào thời điểm này, không có
gì để nói trong máy cả, vì lẽ khi đóng toà Đại sứ lúc nửa đêm, người ta đã phá
hủy toàn bộ hệ thống truyền tin rồi. Cái máy truyền tin chẳng là gì, nhưng tôi
chỉ làm bộ như tôi đang liên lạc với trực thăng mà thôi. Tôi bảo những người
Việt: “Đừng lo lắng gì cả, sẽ có một cái trực thăng to lắm đến đây, rồi tất cả
chúng ta sẽ ra đi.” Đó là một điều khó nói, bởi lúc ấy tôi đã biết rõ, như vậy
tức là tôi đã lừa bịp người ta.
Tôi cứ ngồi đấy như thế đến 15 phút, có lúc đã định buột mồm
bảo “Thây kệ” và tôi tự tranh cãi với mình về dự định tự đem tôi ra làm con tin
mà bảo “Đem thêm trực thăng vào đây, không thì tôi không đi.” Và rồi tôi nhận ra
lính Thủy quân Lục chiến đang ra đi, người ta sẽ không bao giờ đưa trực thăng
đáp xuống vùng không an toàn, như thế tôi sẽ bị cầm tù, và rồi sẽ hồi hương.
Đường binh nghiệp của tôi sẽ tàn vì bất tuân lệnh Tổng thống, rồi tôi nhận ra
hiển nhiên mặc cho tôi có buồn đau về việc này thế nào chăng nữa, tôi cũng không
thể đưa họ đi được. “Đừng có khùng, anh không thể đưa những người này đi nổi.
Anh có vợ con, có một sự nghiệp trong quân đội. Anh sẽ không đưa họ đi làm gì.
Như thế tốt lành gì cho anh? Anh chẳng đạt được gì cả.” Tất cả những ý nghĩ ấy
cứ thế chạy qua trong đầu tôi.
Trong đám người lúc ấy, nhiều gia đình có trẻ con. Tôi còn nhớ
rất rõ những người lính cứu hỏa Việt Nam mặc áo choàng mầu vàng trong đám người
này. Tôi sẽ không bao giờ quên những người lính cứu hỏa ấy. Tôi nhớ họ, vì trước
đấy tôi đã hỏi họ có muốn đi chưa, nhưng họ đều nói “Chưa đâu, chúng tôi còn
phải ở lại, lỡ có chiếc trực thăng nào trục trặc gì thì chúng tôi mới biết sử
dụng các khí cụ mà cứu chữa.” Gia đình họ đi trước để họ rảnh tay làm việc. Vì
thế tôi đã đưa hết gia đình họ lên một chiếc chuồn chuồn vào lúc giữa trưa.
Trong lúc tôi đứng đấy thì một chiếc chuồn chuồn đến, đáp
xuống sân thượng rồi cất cánh. Madison không dặn tôi nên đứng đấy bao lâu. Tôi
nghĩ “Chà, không chừng mình phải nên ở trên cái máy bay này.” Lúc ấy rất tối,
tôi cố nhìn xem có ai ra hiệu gì không. Liệu tôi có thể thấy họ ở trên nóc
thượng không? Cuối cùng sau 15, 20 phút, trong lúc làm bộ như đang gọi máy nói
chuyện với một cái trực thăng, tôi nhìn người Việt Nam ngồi gần nhất mà nói:
“Tôi phải đi tè một cái nhé.” Người ấy cười, tôi lẻn vào bụi rậm với điệu bộ như
sắp đi tiểu.
Chỗ ấy có một căn nhà và một hàng rào cây chung quanh. Tôi
bước vào hàng rào, luồn quanh căn nhà, khuất khỏi tầm mắt họ, tôi đi vào cổng
hậu toà Đại sứ. Trước đó, lúc ban ngày, có một tấm bảng kỷ niệm, một chút lịch
sử mà tôi có nhiệm vụ phải lấy mang đi. Tôi đã tìm gặp một ông Hải quân hồi hưu,
kỹ sư Toà Đại sứ, ông này kiếm được một cái xà beng, hai chúng tôi đã cố nậy tấm
bảng ra. Tấm bảng rất lớn, rất nặng. Chúng tôi đặt tấm bảng lên sàn nhà, ngay
phía trong cửa, dựng bên chân tường. Khi ra đi tôi sẽ phải lấy tấm bảng này mang
theo.
Tấm bảng khắc hàng chữ “Để tưởng niệm những người Mỹ can đảm
đã bảo vệ toà Đại sứ này trong trận tổng công kích Tết 1968.” Và ghi tên những
người quân cảnh, những người lính Không vận, những người Thủy quân Lục chiến đã
chết. Có năm người đã chết, tên họ ở trong tấm bảng ấy. Tôi đã nghĩ tôi không
nên bỏ lại tấm bảng. Nhưng khi đi ngang phòng khách, nơi để tấm bảng, tôi đang
buồn phiền tức giận về lệnh di tản. Tôi nghĩ “sau khi mấy ông này đã chiến đấu
và bỏ mình ngay tại chỗ tôi đang đứng đây, họ đã chết để bảo vệ cái toà Đại sứ
này, mà bây giờ tôi lại chạy đám Cộng sản ngoài ngưỡng cửa thành phố, bỏ rơi tất
cả những người ngoài kia, thì chắc là họ phải lăn lộn ở dưới mồ.” Rồi tôi tự
bảo: “kệ xác cái tấm bảng này”, tôi bỏ nó lại đấy.
Tôi chạy lên tầng thứ hai. Tôi vào hành lang văn phòng Đại sứ
– Hành lang trống rỗng. Tôi chạy thêm bốn, năm bước nữa, nhòm vào văn phòng Đại
sứ. Mọi thứ vẫn ngăn nắp như ông Đại sứ sắp sửa triệu tập một buổi họp. Tôi chạy
trở lại cầu thang, soát xét thử văn phòng Quân vụ xem còn thứ gì của chúng tôi
không. Tất cả đã như biến mất hết. Tôi chạy lên sân thượng thấy Trung sĩ Xạ thủ
Pace và Bill Bell ở đấy. Madison, Summers và Bill Herron đã đi cả rồi.
Bell, Pace và tôi nhảy vào chiếc CH-46. Bell mệt lử, hắn bỏ
lên thành cầu mà vào máy bay. Từ trong bóng tối, thêm một lính Thủy quân Lục
chiến nữa chạy đến. Như vậy chiếc trực thăng cất cánh chỉ chở có bốn người. Bốn
người Mỹ thôi! Chuyện ấy thật tởm. Cái trực thăng này ít nhất còn có thể chở
thêm bốn mươi lăm người nữa. Tôi nhìn lui, thấy đám người chờ bên dưới, thấy đèn
đường Sàigòn và ngôi toà Đại sứ. Trong trực thăng mọi người im lìm như chết.
Tất nhiên tôi cảm thấy tởm đến phát bịnh. Chưa bao giờ trong
cuộc đời tôi thấy tệ hại như lúc bỏ rơi những người ấy mà chạy. Sau khi chuồn
chuồn cất cánh, đến một cao độ nào đó, họ đóng cánh cửa hầm sau lại. Tôi nhớ khi
bốc lên, nó nghiêng sang một bên, tôi nhìn thấy toà Đại sứ, bãi đậu xe, những
ngọn đèn đường. Và nỗi yên lặng. Đường phố im lìm, không xe cộ, không đám đông,
không có gì cả. Trông như lệnh giới nghiêm đang được tuân hành.
Khi chúng tôi đến tàu U.S.S. Okinawa thì Madison đã gặp Jim
Bolton. Tôi thấy Jim Bolton, nhưng tôi không tò mò nghe câu chuyện riêng giữa
anh ta và Madison. Sau đó Summers và Madison bảo tôi là họ đã nói chuyện với
Bolton. Tất cả chúng tôi đều giận phát điên. Chúng tôi tức tối vì trong nhóm
chúng tôi, tất cả đều đã bị bức bách phải phản bội những người Việt Nam. Chúng
tôi đã phải nói dối người Việt, mặc dầu đó không phải là chủ tâm chúng tôi.
Chúng tôi đã bỏ rơi những con người đáng thương ấy ở lại. Không một ai trong
chúng tôi không cảm thấy giận ghét chuyện này.
Một gã phóng viên của tờ Cleveland Press ở trên tàu Okinawa đã
phỏng vấn Summers, rồi sau đó phỏng vấn tôi. Summers hỏi gã: “Anh có biết anh
vừa chứng kiến chuyện gì không?” Gã phóng viên trả lời “Sự sụp đổ của Sàigòn.”
Summers nói: “Anh vừa chứng kiến một sự phản bội cực kỳ hạ tiện.”
Gã phóng viên phỏng vấn tôi những gì đã xảy ra ở toà Đại sứ,
bởi tôi là người cuối cùng ra đi. Tôi nhớ là tôi không cầm được nước mắt khi gã
phỏng vấn tôi. Cứ nghĩ đến việc bỏ rơi những người ấy, khi nói chuyện tôi lại
khóc. Tôi xấu hổ hết sức về việc tôi đã bỏ lại những ngưòi ấy.
Sau đó tôi bay sang vịnh Subic, đến Thái Lan. Đến Thái Lan
chẳng bao lâu, lại được triệu về Vịnh Subic để gặp một ủy ban thuộc bộ Tham mưu
Quân đội có nhiệm vụ điều tra cuộc di tản. Tôi được triệu về đó (Madison và
Summers đã được gọi sang Hạ Uy Di, tôi đoán thế) để báo cáo những việc xảy ra vì
tôi là người sĩ quan chót ra đi, tôi là chứng nhân cho những biến cố tại toà Đại
sứ. Cái bí mật lớn lao nhất chính là ở toà Đại sứ. Họ không có một kế hoạch nào
cho những tác vụ di tản lớn từ toà Đại sứ cả. Kế hoạch đã có của toà Đại sứ quá
sức đơn giản: tối đa vài trăm người sẽ được chở bằng xe buýt ra Tân Sơn Nhứt,
còn lại năm sáu chục người gồm Đại sứ và nhân viên sẽ được bốc đi bằng máy bay
Air America từ nóc sân thượng. Phương tiện xe buýt sẽ là một phần của kế hoạch
để chở tối đa vài trăm người ra Tân Sơn Nhứt. Thế thôi. Cho nên khi toà Đại sứ
trở thành trung tâm điểm của những vụ trực thăng vận lớn, đó chỉ là do hoàn cảnh
tình cờ. Và bởi họ đã không hoạch định việc này, nên họ đã không biết cái gì.
Hiển nhiên đã không có phương tiện truyền thông giữa toà Đại sứ và văn phòng Tùy
viên Quân sự trong nhiều tiếng đồng hồ. Không ai biết một chuyện gì xảy ra ở tòa
đại sứ cả.
Cho đến tận giây phút cuối cùng, tất cả những người di tản với
tướng Smith, những người ở văn phòng Tùy Viên Quân Sự, những người đã ra tàu,
những người ở bộ tư lệnh Hạm Đội Thái Bình Dương, ở Bộ Tư Lệnh tại Thái Lan,
không một ai hay biết chuyện gì xảy ra cả.
Vì lẽ đó, tôi đã bị gọi ra trước ủy ban để thẩm vấn, họ đã
thẩm vấn nhiều người bên Thủy Quân Lục Chiến, nhưng cái trở ngại là những người
này đã mô tả một hình ảnh tổng quát của chiến dịch di tản ” Frequent Wind” mà
thôi.
Tôi không hẵn tin người ta cố ý trình bày sai sự thật, mặc dầu
nhiều người từng châm biếm là các Thủy Quân Lục Chiến đã bóp méo sự thật để
chứng tỏ họ là những chiến sĩ can trường: Họ là những người đầu tiên đã đến
chiến đấu, họ cũng là những người cuối cùng đã chiến đấu trong đơn độc. Tôi
không nhất thiết phải tin như vậy, mặc dù có lúc tôi từng cả tin như thế.
Thủy Quân Lục Chiến từ hạm đội được đưa tới tòa Đại Sứ thì
ngay từ đầu họ đã nhận tin có 2 người chết trong lúc thi hành nhiệm vụ. Tất
nhiên ai chẳng biết Sài Gòn lúc bấy giờ đang bị bao vây bởi 16 sư đoàn với trọng
pháo, tức là chỉ trong vòng có 20 đến 30 cây số. Chẳng có gì bí mật chuyện quân
đội Bắc Việt có thể và sẽ vào Sài Gòn. Địch quân đem theo cả hỏa tiễn địa không
SAM đi từ miền Bắc dọc đường số 1, đi từ khu vực Khe Sanh xuống, đây là tin do
bên tình báo ước đoán. Như thế tất nhiên khi Thủy Quân Lục Chiến vào Sài Gòn,
họ đã biết rõ họ chỉ là một lực lượng rất nhỏ nhoi, có thể bị chụp dưới lửa đạn
của toàn thể quân đội miền Bắc Việt Nam. Và rồi xảy ra những chuyện 2 Thủy Quân
Lục Chiến tử thương, chuyện bắn rốc -kết, bắn đại liên.
Chúng tôi biết việc quân Bắc Việt tấn công Sài Gòn vào buổi
sáng ngày thứ 30. Chúng tôi biết có một đạo quân vào từ hướng Tân Sơn Nhứt. Một
đạo quân khác từ phía bắc qua lối Tân Cảng. Và có một gọng kìm của ít nhất 3 đạo
quân nữa thọc vào Sài Gòn nhằm tiến chiếm các mục tiêu là Bộ Tổng Tham Mưu, Bộ
Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia và Dinh Tổng Thống.
Sự việc quả như thế, nhưng các Thủy Quân Lục Chiến ở vịnh
Subic lại tạo ra một ấn tượng rằng chúng tôi đã thoát được trong đường tơ kẽ tóc
với lửa đạn dữ dằn để chống lại cuộc di tản.
Các Thủy Quân Lục Chiến tạo ra ấn tượng trong buổi thuyết
trình là tình trạng Tòa Đại Sứ nóng bỏng. Tôi ngồi yên suốt buổi thuyết trình ở
Subic. Đôi khi lạc lõng. Ba mươi ông Thủy quân Lục chiến ăn nói hùng hồn trong
phòng thuyết trình. Ông Tướng Carey cứ ngồi đó mà nghe trình bầy. Phiền quá.
Những điều tôi nghe họ nói về toà Đại sứ thiệt không giống gì với những điều tôi
đã chứng kiến và trải qua. Tôi bèn viết một mảnh giấy chuyển cho tướng
Cleveland, Chủ tịch ủy ban. Tôi nói: “Tôi rất phiền. Tôi sẽ phải đứng dậy để
trình bày về tòa Đại sứ, nhưng những gì sẽ nói lại mâu thuẫn hẳn mấy ông Thủy
quân Lục chiến này.” Trước giờ nghỉ ăn trưa, Tướng Cleveland bảo: “Tôi biết ông
phiền muộn lắm, Đại úy Herrington ạ.” Tôi nói: “Thưa ông vâng. Nếu đó là cái toà
Đại sứ như cách họ mô tả thì tôi không còn rõ là tôi đã ở đâu, bởi vì nó không
giống những điều họ nói chút nào.” Ông ta bảo: “Tốt, bởi thế mà anh đã ở đây.
Tôi muốn anh trình bầy đúng sự thực xảy ra – Có lẽ tốt hơn hết chúng ta sẽ ở lại
đây trong giờ ăn trưa và cùng làm việc với nhau.” Tôi đáp: “Thưa vâng”. Do đó
tôi đã ở lại trong giờ ăn trưa. Tôi vẽ ngay ngắn một tấm bản đồ khu vực toà Đại
sứ, đâu là hồ tắm, đâu là các bức tường, tất cả đầy đủ rồi tôi thuyết trình.
Phải bạo phổi mới nói được bài thuyết trình này, vì ngay lập tức, các ông Thủy
quân Lục chiến dựng đứng cả lên.
Tôi trình bầy với họ cuộc di tản tại toà Đại sứ diễn ra không
có một đối lực nào cản trở. Không có chuyện khói lửa dữ dằn tại toà Đại sứ.
Chẳng có súng nhỏ, súng máy, tiểu pháo, đại pháo, chẳng có lửa khói gì sất.
Chung cuộc của toà Đại sứ đã diễn ra thật hấp tấp vội vã – điều này chúng tôi
không thể hiểu nổi – là tại sao không quét dọn cho sạch sẽ. Mấy ông Thủy quân
Lục chiến đã trình bầy rằng cuộc di tản tại toà Đại sứ hoàn tất tốt đẹp, và đây
là một thành công cực kỳ vĩ đại. Nếu Kean có ở đây, anh ta sẽ có thể nói thẳng
cho mọi người rõ: cuộc di tản ấy chẳng thành công vĩ đại chút nào. Hiển nhiên,
mấy ông Thủy quân Lục chiến không hề có mặt tại toà Đại sứ. Họ chỉ thuyết trình
theo cái cách họ hiểu chuyện dựa trên lời mấy phi công trực thăng nói với họ qua
máy vô tuyến mà thôi.
Tôi chấm dứt bài thuyết trình – Tướng Carey loại riêng ra
những gì tôi nói. Tôi bèn bảo: “Thưa, điều duy nhất mà tôi có thể nói là tôi đã
thuyết trình dựa trên trí nhớ đã phối kiểm, đã xác nhận của cả một nhóm nhiều
người, gồm năm trung sĩ xạ thủ Thủy quân Lục chiến và tôi. Sáu người chúng tôi
có lẽ đã có tổng cộng từ hai mươi lăm đến ba mươi năm kinh nghiệm chiến đấu. Nếu
quả vụ di tản tại Tòa Đại Sứ bị ngăn trở, thì tại sao chẳng có một binh sĩ Thủy
Quân Lục Chiến nào bắn lấy một phát đạn? Cái quy luật đầu tiên của sự dấn thân
chiến đấu là bắn trả lại kia mà? Có nhiều người, thí dụ các phi công Thủy Quân
Lục Chiến đã nhầm lẫn. Thấy khói bốc ra do việc nhân viên trung ương tình báo sử
dụng khí cụ phá hủy hệ thống truyền tin trên mái nhà, họ đinh ninh rằng Tòa Đại
Sứ bị tấn công bằng hơi ga, họ gọi máy la hoảng lên. Khói trên nóc Tòa Đại Sứ là
khói do việc tiêu hủy tài liệu đã được mô tả thành ra “Tòa Đại Sứ bị cháy”. Lúc
ấy nghe bất cứ một tiếng nổ nào quanh Tòa Đại Sứ – nhưng ở tận ngoài Sài Gòn- là
lính Thủy Quân Lục Chiến cũng nháo nhào chạy mà kêu thét ầm ĩ “Địch lọt vào bờ
tường phía Bắc”, “Địch lọt vào bờ tường phía Nam”. Những chuyện ấy lập đi lập
lại suốt đêm, họ cứ chạy từ bờ tường này sang bờ tường kia la hoảng là địch xâm
nhập chỗ này, địch xâm nhập chỗ nọ… nhưng thật ra chẳng có chuyện gì. Mấy cậu
lính Thủy Quân Lục Chiến non choẹt đã sợ mất hồn vì 2 người bị giết, chỉ bấy
nhiêu thôi. Còn chuyện Tòa Đại Sứ đặt trong tình trạng bị tấn công, cuộc di tản
ở Tòa Đại Sứ bị đặt trong tình trạng chiến đấu thì KHÔNG!.
Tôi trình bày với lối như thế, và bảo họ rằng có khoảng 420
người bị bỏ rơi tại đấy. Tôi có cảm tưởng các Thuỷ Quân Lục Chiến có mặt không
thích bài thuyết trình của tôi chút nào. Tôi tin họ đã nhìn thấy các hình ảnh
của vụ di tản ấy chỉ qua lời kể của các phi công, và đã hiểu sai những sự kiện
diễn ra trên mặt đất. Cái ấn tượng tổng quát họ vẽ ra là chúng ta khó khăn lắm
mới thoát được nơi ấy, xe tăng Bắc Việt đã đến gõ tận cửa rồi. Quý vị đã rõ: Sự
việc không xảy ra như thế.
Tôi đã viếng thăm Đài Kỷ Niệm Chiến Sĩ Trận Vong Chiến Tranh
Việt Nam vài ba lần. Lần đầu tiên đến đấy, tôi cố kiếm tên những người tôi biết
ở Việt Nam. Tôi kiếm tên của Judge và McMahon. Tôi không có cảm xúc sâu đậm về
Đài Kỷ Niêm này. Không giống những người đã gặp trở ngại trong việc đương đầu
với các kinh nghiệm Việt Nam mà Đài Kỷ Niệm này gợi lên cho họ thêm ưu tư phiền
muộn, lòng xấu hổ và niềm ân hận, những cái ấy không xảy ra trong tôi. Tôi nghĩ
đó là một cái Đài Kỷ Niệm Chiến Sĩ Trận Vong khá trang nghiêm, nhưng nó không
gợi lên những cảm xúc nào khác trong tôi nữa cả. Tôi cũng chẳng hào hứng gì về
những chuyện kiến trúc của cái Đài này. Nó chỉ là một bức tường.
Tôi không thấy đấy là một ý tưởng kiến trúc kỳ diệu gì, tôi
cũng chẳng có gì để phê bình, công kích. Tôi chỉ thấy đó là một bức tường với vô
khối tên người, tôi cũng chẳng rõ tại sao người ta phải tranh cãi chuyện ấy. Đối
với tôi, đài này là một lời phát biểu, bởi vì khi nhìn thấy năm mươi tám ngàn
cái tên của năm mươi tám ngàn con người được khắc vào cùng một chỗ, thì cái ý
tưởng được phát biểu ra ấy là sự tàn ác trong việc hy sinh tính mạng con người.
Nhưng tôi không gặp vấn đề khó khăn trong việc đương đầu với chuyện này. Mặc dầu
bản thân tôi đã trải qua rất nhiều thời gian ở Việt Nam, và bản thân tôi có rất
nhiều lý do để cảm thấy nhờm tởm khủng khiếp về những gì đã xảy ra, nhưng may
mắn thay, tôi thuộc vào nhóm đại đa số thầm lặng của những cựu chiến binh Việt
Nam đã đương đầu được tình trạng này một cách khá tốt đẹp.
Tôi tin tưởng mạnh mẽ rằng hình ảnh của những cựu chiến binh
Việt Nam râu ria lởm chởm, mặc những bộ đồ trận cũ kỹ, khóc than trách móc về
những thất bại của cuộc đời họ là do chiến tranh Việt Nam, đây chỉ là một số rất
nhỏ của tập thể cựu chiến binh Hoa Kỳ dự trận Việt Nam. Họ không phải là những
người đại diện. Những người cựu chiến binh Hoa Kỳ dự trận Việt Nam điển hình là
những người đã khá thích nghi lại đời sống bình thường một cách tốt đẹp, họ là
những người lứa tuổi bốn mươi thành công trong công ăn việc làm hoặc bất cứ công
cuộc nào họ theo đuổi. Tôi không chấp nhận ý niệm rằng những cựu chiến binh của
trận địa Việt Nam bình thường là những người quý vị đã thấy: họ tự nhốt mình
trong cái cũi nhốt cọp bên đài kỷ niệm chiến sĩ trận vong để cố thuyết phục mọi
người là họ vẫn đang còn sống như những tù nhân. Bản thân tôi đã cứng cáp thêm
sau chiến tranh Việt Nam bởi vì cái viễn tượng đã truyền đạt được toàn bộ triết
lý của đời sống tôi. Và tôi nghĩ rằng có nhiều người như chúng tôi hơn là những
người mặc đồ trận, đội mũ rừng ôm nhau khóc sướt mướt vào những ngày lễ truy
điệu chiến sĩ trận vong. Tôi không có ý bảo tôi không có lòng thương cảm những
chuyện đó, nhưng tôi rất tiếc mà phải nói rằng: Hình ảnh của tập thể cựu chiến
binh trận Việt Nam trước mắt dân chúng Mỹ đã mù mờ và bất chính xác như là chính
cuộc chiến tranh xảy ra – Tôi chẳng nên ngạc nhiên gì về việc báo chí truyền
thông Mỹ đã bóp méo cái hình ảnh của các cựu chiến binh Việt Nam. Toàn bộ cuộc
chiến này, sự thực về cuộc chiến này cũng đã bị họ bóp méo rồi.
CHƯƠNG 8 : BỘ CHỈ HUY HẢI VẬN
HAROLD J.
MURPHY
(Thợ mộc,
thủy thủ tàu Greenville Victory)
“Chúng tôi là
những cứu tinh”
Vào năm 1975 tôi lại nghe biển cả thôi thúc. Tiếng réo gọi của
biển đôi lúc vọng về. Ông ạ, nếu ông có thân quyến hoặc bạn bè đi biển, ông sẽ
hiểu điều tôi muốn nói. Tôi đã nghe tiếng biển khơi réo gọi từ khi còn trẻ, cho
nên chẳng bao giờ có thể ngừng đi. Có kẻ nào đi biển – khi đã lên đất liền – mà
lại không nghĩ đến chuyện trở về với biển đâu?
Cho nên năm ấy, tôi đi Nữu ước. Ở đó, trên chiếc tàu
Greenville Victory người ta đang thiếu một chân thợ mộc. Thế đấy. Tôi lại ra
khơi trên chiếc tàu Greenville Victory với tư cách là một bác phó mộc. Chúng tôi
sang bờ biển miền Tây, đến Port Chicago, chất một chuyến vũ khí
đạn dược, rồi vượt sóng đại dương đến vịnh Cam Ranh và Đà
Nẵng.
Bấy giờ, người Việt Nam không hiểu rõ tình hình đã tệ hại đến
mức nào. Tôi chắc chắn như vậy. Chúng tôi cũng không biết trời trăng gì hơn. Nói
cho đúng, chúng tôi biết tình hình rất xấu, đất nước này chẳng tồn tại được lâu.
Tuy nhiên tôi nghĩ là không có ai biết được việc đổ vỡ đã xảy ra nhanh chóng đến
như thế.
Đầu tiên, chúng tôi cho tàu đến Vịnh Cam Ranh, rồi đến Đà
Nẵng. Đà Nẵng lúc ấy căng thẳng. Người ta đã cảm thấy được có chuyện sắp xảy ra.
Địch quân thường cho người nhái lội đến gài mìn, người ta phải để hàng thùng lựu
đạn trên tàu. Cứ khoảng năm mươi bộ Anh lại để một thùng, thỉnh thoảng liệng
xuống nước vài trái phòng ngừa.
Chúng tôi đến Thái Lan, chất một mớ hàng quân dụng, rồi quay
về Mỹ. Nhưng vừa cập bến, mọi chuyện đã bùng ra. Người ta yêu cầu tàu quay lại
Việt Nam. Bấy giờ nhằm ngày chủ nhật, lễ Phục Sinh, khoảng cuối tháng ba, chúng
tôi được yêu cầu đi Đà Nẵng. Họ bảo đi giải cứu những người sống sót.
Lúc ấy, chúng tôi đã hiểu những gì đang xảy ra. Hiệp Chủng
Quốc đã rút quân khỏi Việt Nam từ một, hai năm trước. Tôi hiểu người miền Nam
Việt Nam đang lôi thôi to. Chúng ta đã gây nhiều tệ hại cho họ, tôi cảm thấy có
mặc cảm phạm tội về chuyện này.
Địa điểm đầu tiên tàu vào lần này cũng là Cam Ranh. Chúng tôi
bốc người tại bến tàu, nhưng việc bốc người trở nên hỗn loạn nên chúng tôi phải
đưa tàu ra ngoài bỏ neo. Tại đây, người ta dùng thuyền nhỏ bơi ra, chúng tôi bốc
họ lên. Những người ấy sinh sống trên những con thuyền, ông có hiểu không, nhiều
người đã đem theo tất cả của cải. Nhưng tất nhiên làm sao chúng tôi có thể bốc
lên tất cả mọi thứ, ngoại trừ người, một ít đồ ăn, và những chiếc xe Honda 50
phân khối be bé của họ. Những chiếc xe này, chúng tôi cho phép họ đem theo, cũng
chẳng rõ đã chở đi tất cả bao nhiêu chiếc.
Thôi thì đủ loại người: thường dân, đàn bà, con trẻ, nhà binh,
mấy người này hiển nhiên đang tháo chạy, chúng tôi phải cố mọi cách tước khí
giới, không thể để cho họ giữ đủ các thứ vũ khí lung tung trên tàu được. Chúng
tôi làm việc cật lực, nhưng ông phải có mặt ở đấy mới thấy, tình trạng hết sức
hỗn loạn xô bồ. Chúng tôi sử dụng mọi phương tiện bốc họ vào tàu: nào trục từ
bên thành tàu, nào câu họ vào bằng lưới bốc hàng. Chúng tôi bốc người như bốc
hàng hoá, họ cứ đeo nhau, len lấn mà lên tàu.
Chúng tôi tìm cách tước khí giới họ bằng mọi giá – súng
trường, súng lục, lựu đạn, đủ thứ vũ khí chất đầy một phòng, mà vẫn còn sót,
không lấy được hết.
Trên chuyến tàu này, chúng tôi chở khoảng mười ngàn con người.
Ông nhớ cho, đây là chiếc Victory, dài 500 bộ Anh. Tàu chở đạn trọng tải chín,
mười ngàn tấn, với 5 năm khoang chở hàng. Cứ thế chúng tôi nhét họ vào như nhét
hàng. Chỗ nào cũng là người. Ngay trên mấy tàu cấp cứu cũng đầy người.
Chúng tôi cố ngăn không cho họ vào khoang chính trong lòng
tàu, là khu vực thủy thủ làm việc. Ấy thế mà người ta vẫn tràn vào. Mặt khác,
chúng tôi cố lo cho họ đồ ăn thức uống, nhưng số người đông quá sức. Chúng tôi
chỉ có thể lo liệu được trong khả năng thôi. Chúng tôi – ít nhất, chính bản thân
tôi – đã cảm thấy cần phải chuộc lỗi chút đỉnh với họ về những chuyện tệ hại
chúng ta đã gây ra. Đúng thế, chúng ta đã gây nhiều tệ hại cho họ. Đáng lẽ ngay
từ đầu, chúng ta đừng nên đến đất nước ấy, có lẽ như thế, nhưng khi đã đến đấy
rồi thì cần phải xử sự cho đúng đắn. Nhưng không, chúng ta đã bỏ rơi họ và nói
rằng: “Đấy, bây giờ các anh tự làm lấy mọi thứ đi.” Và họ làm sao có khả năng
làm chuyện ấy?
Trên tàu không thực phẩm, không nước uống, không cả tiện nghi
vệ sinh. Xin ông bỏ lỗi, mười ngàn con người, ông thử tưởng tượng xem? Tàu không
có đồ ăn, nhưng họ có mang gạo – với máy lọc nước, tàu chỉ có thể cung cấp chừng
mười lăm tấn nước ngọt mỗi ngày, nhưng họ đã dùng đến ba mươi tấn.
Chúng tôi tìm cách bắt vòi rồng, chạy bơm nước cứu hỏa để ít
ra người ta có thể tắm gội bằng nước biển, và để chùi dội những thứ họ bài tiết
trên khoang tàu. Tình trạng hết sức tệ.
Những khoang chứa có lót ván gỗ để bảo vệ đạn dược, người ta
phá vách tháo gỗ ra chụm lửa thổi cơm. Còn nói gì nữa, hỏa hoạn phải xảy ra
thôi. Có nhiều vụ cháy chúng tôi bở hơi tai mới dập tắt được. Sau chúng tôi cho
cắt đôi các thùng sắt đựng dầu loại 50 ga-lông, chúng tôi cho họ dụng cụ tháo gỗ
và chẻ củi cho tử tế, rồi dùng các thùng sắt này làm bếp nấu cơm để tránh xảy ra
hỏa hoạn.
Ông ạ, lối vào Vịnh Cam Ranh bao quanh bởi những vách đá cao
có đặt đại liên 105 ly. Chúng tôi lo, chẳng biết các họng súng này có nhả đạn
vào chúng tôi không. Nhưng may mắn, lúc bốc lên tàu đủ số người có thể chở được
rồi, thì một trận mưa gió mù mịt nổi lên. Không ai còn có thể nhìn thấy gì nữa.
Chính trận mưa gió mù mịt này đã che chở cho tàu ra khơi.
Bấy giờ hạm đội ở cả bên ngoài. Có lệnh không được vào gần bờ
ba mươi hải lý, nên họ ở cả ngoài khơi, nhưng tất nhiên chúng tôi liên lạc với
họ bằng vô tuyến để nhận lệnh chỉ huy từ hải quân. Thủy thủ đoàn chúng tôi đều
là dân sự, nhưng tàu là của hải quân.
Họ bảo chúng tôi đưa người tỵ nạn đến một hòn đảo, tên là đảo
“Phú Quốc,” hòn đảo này nằm ở ngoài khơi giữa biên giới Việt Nam và Cam Bốt. Tôi
nhớ hải trình mất đến hai hay ba ngày. Khi đến đảo, chúng tôi thả neo, định cho
người xuống, rồi trở lại xem có thể giúp thêm một số người khác chăng. Nhưng họ
từ chối không ra khỏi tàu.
Mấy chiếc xuồng đổ bộ đáng lẽ phải ra đưa người vào, nhưng
xuồng không thấy ra. Cho nên chúng tôi cứ bỏ neo chờ, chừng đâu một ngày thì
phải. Người tỵ nạn trở nên bứt rứt bực bội. Sau cùng, họ đưa một phái đoàn đến
tận phòng lái. Về chuyện này, tôi nhớ là vì về sau thuyền trưởng Ray Iacobacci
cứ bảo ông ta may mắn lắm mới sống sót. Phái đoàn gồm có một ông cha Công giáo,
một số đại diện những người trên tàu. Những đòi hỏi họ đưa ra là chúng tôi phải
rời vùng ấy ngay tức khắc. Họ sẽ không lên bờ. Họ bảo, điều thứ nhất, Phú Quốc
nguyên là chỗ đi đày, nghe như thế họ đã không thích rồi. Điều thứ hai, lỡ Cộng
sản đến, họ mắc kẹt. Chẳng có lối nào thoát ra khỏi đảo, cứ ở đấy thì sẽ trở
thành những cái tử thi thôi.
Tiếp theo, họ bảo họ có vũ khí, có chất nổ trong tay – đủ sức
phá tung chiếc tàu. Nếu chúng tôi không chịu rời đi ngay, họ sẽ làm đúng y chang
những lời họ nói. Họ mang theo một bản đồ hải hành. Chúng tôi hỏi thế họ muốn đi
đâu. Họ chỉ “Vũng Tàu.” Đó là một cái cảng ở ngay cửa sông dẫn đến Sàigòn. Trong
tình thế ấy, tất nhiên quyết định tối hậu phải là: “Khôn hồn đi quách khỏi nơi
đây.”
Phải nói tôi có cảm tình với những người này. Tôi không trách
họ, nếu ở hoàn cảnh ấy, tôi cũng làm thế thôi. Cho nên khi thuyền trưởng hỏi:
“Phải làm gì bây giờ?” Tôi bảo: “Kệ xác. Nhổ neo đi quách khỏi nơi đây.” Thật
giản dị. Tôi nghĩ mọi người đã hiểu rõ những gì họ nói. Ớ góc đảo ấy, lấy đâu ra
lối thoát?
Bấy giờ, ông hiểu không, tôi biết họ nói là họ làm. Tôi không
ngờ vực gì chuyện họ dọa nổ chìm tàu. Họ sẽ làm đúng điều họ nói. Thế mà, ông
hiểu không, suốt lúc ấy tôi không hề cảm thấy một nỗi hiểm nguy nào cho tính
mạng tôi cả.
Họ không hề dọa dẫm bất cứ một cá nhân nào trong thủy thủ
đoàn. Ô, thưa ông không. Chúng tôi chính là những cứu tinh của họ.
Thế đấy, chúng tôi đã rời đảo Phú Quốc quay lại Vũng Tàu. Tôi
quên mất tổng cộng số thời gian ở trên tàu bao lâu, nhưng ít nhất phải năm ngày
trời. Năm ngày ròng rã không thức ăn nước uống gì trên tàu cả.
Cập đến Vũng Tàu, sau rốt chúng tôi thả hết được họ xuống.
Xuồng đổ bộ chạy ra, đưa tất cả những người trên tàu vào đất liền. Chúng tôi bèn
cho tàu ngược dòng sông, đến Sàigòn chùi rửa. Chuyện này thì hết chỗ nói.
Trong suốt tác vụ, chỉ thiệt một nhân mạng. Lúc bốc người từ
thuyền vào tàu, một đứa bé rơi xuống biển, giữa khoảng cách của thuyền và tàu,
không ngoi lên được nữa. Đó là thiệt hại nhân mạng duy nhất. Tuy nhiên trong
thực tế, nhân số lại sinh sôi, bởi lẽ đã có hai đứa trẻ ra đời ở trên tàu.
Khi quốc gia này mất, chúng tôi vẫn còn ở Vũng Tàu. Tại đây,
chúng tôi nhìn thấy trực thăng từ toà đại sứ bay qua, chúng tôi hiểu mọi sự đến
lúc cáo chung rồi. Lúc ấy, sự rối loạn hỗn độn lại bục ra. Hàng ngàn chiếc tàu:
tàu lớn, tàu nhỏ, ghe thuyền đủ thứ đủ loại chạy túa ra. Chúng tôi bốc người lên
tàu đa số bằng cách thả lưới bốc hàng. Trước khi rời thuyền, họ đục lỗ ở thùng
xăng, châm lửa để Cộng sản không lấy được thuyền của họ. Cả một khu vực trên mặt
biển lúc ấy đầy những ghe thuyền tàu bè bốc cháy. Những ghe thuyền này đều là
nhà của họ. Thật đáng buồn khi nhìn người ta tự thiêu đốt chính căn nhà của
mình.
Với những gì đã xảy ra, với những gì tất cả những con người
này phải trải qua, nếu là trường hợp người Mỹ, tôi nghĩ người ta đã hoá điên hết
mất thôi. Họ châm lửa đốt nhà cửa của cải. Họ không thể đem đi theo bất cứ một
thứ gì.
Tàu chúng tôi lúc ấy chốc chốc phải di chuyển, vì lẽ họ kéo
đến đông quá. Với bấy nhiêu ngàn con người, chúng tôi còn có thể làm gì được.
Thỉnh thoảng, chúng tôi cho tàu ra chừng một hải lý, rồi lại quay trở vào, cứ
thế vài lần. Chúng tôi đánh chìm mất một thuyền tỵ nạn, vì chân vịt của tàu chặt
xuống trong lúc lùi. Bấy giờ là một lúc hoàn toàn rối rắm. Chúng tôi tiếp tục
bốc và chất người lên tàu trong tình trạng như thế cho đến tối mịt thì đầy.
Chúng tôi chở số người ấy nhắm hướng đến Vịnh Subic ở Phi Luật Tân. Chúng tôi
không gặp khó khăn nào. Chúng tôi đã cố tịch thu vũ khí càng nhiều càng tốt. Một
số vũ khí được giữ lại trên tàu, hàng ngàn món vũ khí khác cứ thế liệng xuống
lòng biển.
Vì người ta mong muốn ra đi, nên họ đã hết lòng cộng tác với
chúng tôi – Tất cả những người trên tàu làm được gì, họ làm nấy – Bất kể việc gì
cần, họ làm, từ bồng bế di chuyển trẻ qua những đường cầu tàu: Vô số trẻ con,
trẻ sơ sinh đã phải chuyển dần từ người này qua người khác dọc theo đường từ mũi
đến lái.
Toàn bộ thủy thủ đoàn nỗ lực tham dự mọi việc trăm phần trăm.
Những việc này, tất nhiên mang nhiều ý nghĩa hơn là việc khiêng vác chuyên chở
đạn dược. Những con người này đang gặp hoàn cảnh cực kỳ bi đát khốn cùng. Cuộc
sống của họ treo trên chỉ mành, và chúng tôi là tất cả mối hy vọng duy nhất để
giúp họ rời khỏi xứ. Trong nhãn quan của người miền Bắc, họ là những cảm tình
viên của người Mỹ, họ là những người cộng tác với Mỹ, họ là “Ngụy”. Chúng ta là
kẻ thù của Cộng sản, họ là những người đã cộng tác với chúng ta. Điều này đây
chính là một bản án tử hình cho họ.
Suốt hải trình đi Subic, không nhân mạng nào mất mát. Chưa kể
lại thêm một chú bé ra đời, tăng nhân số người tỵ nạn lên trong chuyến đi.
Chuyến này chúng tôi chuẩn bị chu đáo hơn chuyến trước. Khi
ghé Sàigòn, nhiều cơ quan cứu trợ đã tiếp tế lên tàu hàng tấn thực phẩm. Chúng
tôi đã chu đáo tổ chức những khu nấu cơm, cung cấp cho họ những cái bếp ba chân
để chụm lửa. Chuyến thứ nhất, quả thực chúng tôi không hề rõ những gì sẽ xảy ra.
Bấy giờ chỉ biết: Đi, đi xem có thể giải cứu gì một số người tỵ nạn chăng.
Những người tỵ nạn xét ra là những người rất thân thiện. Tương
đối so với tất cả những gì đã xảy ra, những gì họ đã phải trải qua, họ là những
con người tuyệt diệu – và quá sức là đông. Chỗ nào cũng là – người. Mỗi lần tôi
đi từ giữa tàu đến mũi tàu là phải đi ngang đám người đông đảo ấy, họ đều dãn ra
hai bên nhường lối cho tôi qua. Mỗi một phân vuông trên tàu đều chen chúc toàn
người là người.
Tại Vịnh Subic, một hòn đảo được sử dụng làm khu tạm ngừng –
Mọi người đều được đưa đến đảo ấy, tôi đoán mục đích để kiểm chứng tên tuổi, căn
cước và thiết lập hồ sơ, nên tất cả đều phải chờ ở đây. Thủy thủ đoàn chúng tôi
cũng đều phải ở lại Vịnh Subic một hoặc hai tháng dự phòng trường hợp chúng tôi
cần đưa họ sang Guam, là khu vực tạm cư chính. Nhưng sau đó người ta không cần
chúng tôi làm công tác ấy nữa. Đa số người tỵ nạn được đưa sang Guam bằng máy
bay, nhưng chúng tôi vẫn cứ nán lại suốt thời gian ấy để dự phòng.
Tôi nghĩ chúng tôi đã thi hành công tác này một cách tốt đẹp.
Chúng tôi đã đưa đi được mười tám ngàn người. Thật ra, ước chi chúng tôi có thể
đưa đi được nhiều hơn nữa.
Sau khi rời Vịnh Subic, tàu chúng tôi vượt biển về Mỹ, đến
thành phố Mobile ở tiểu bang Alabama. Tại thành phố này, người ta đã dành cho
chúng tôi một cuộc tiếp đón hết sức trọng thể. Thị trưởng và tất cả dân chúng
trong thành phố đã ùa ra nghênh đón với ban nhạc kèn đồng, và nhiều thứ tốt đẹp
khác, chắc ông cũng biết. Mỗi chúng tôi đều nhận được một tấm giấy, họ nói cảm
ơn chúng tôi đã làm việc tốt, cử chỉ này thực là khả ái.
Ông ạ, có nhiều việc sau khi làm rồi thì người ta mới kiếm
cách giải thích, chứ thực ra trước đó có nghĩ gì đâu? Bấy giờ đối với chúng tôi
mọi chuyện giản dị hết sức: “Đó, người ta đầy ra đó. Bốc họ đi khỏi chỗ ấy
ngay!” Thế là xông vào làm thôi, những lúc ấy, kích thích tố trong cơ thể dâng
lên làm cho người ta hăng hái, người ta xắn áo, bắt tay vào việc thôi. Bọn đi
biển kỳ khôi lắm, ông biết đấy. Việc gì cần làm, họ làm gọn. Họ là những người
rất tốt, những người tốt nhất đời mà tôi được biết. Họ luôn luôn làm tròn công
việc của họ. Đây là tôi nói bọn đi biển chuyên nghiệp, chứ không nói về bọn nhà
binh. Bọn đi biển chuyên nghiệp làm gấp mười bọn nhà binh. Ông thấy chiếc tàu
Greenville Victory đấy, chiếc tàu trọng tải mười ngàn tấn mà thủy thủ đoàn chỉ
cần có ba mươi tám mạng. Nếu là tàu hải quân, họ phải xài ba trăm năm mươi thủy
thủ là ít. Bọn tôi là bọn đi biển chuyên nghiệp, nó khác, bao giờ tôi cũng hãnh
diện mà nói như thế, thưa ông.
Từ sau những chuyến đi ấy đến nay, thật đáng tiếc là tôi chưa
hề có dịp gặp lại một người tỵ nạn Việt Nam nào từng ở trên chiếc tàu chúng tôi
đã đưa đi.
Tôi vẫn ao ước phải chi tôi có giữ được tên của một trong
những người ấy mà gặp gỡ chuyện trò, bất cứ người Việt Nam nào đã đi trên chiếc
tàu Greenville Victory năm ấy mà nay đã đến Mỹ định cư.
Cách đây chẳng lâu, tôi có dịp đọc nhật trình cũng thấy nói về
cộng đồng Việt Nam bên miền Tây. Báo chí nói họ được thành công, nhiều người đã
khá lắm. Họ là những người chăm chỉ, những người tốt đấy. Họ chịu khó làm việc
cực nhọc chớ không chịu ăn trợ cấp, họ luôn luôn cố gắng làm việc để nuôi con
cái ăn học. Gần đây, tôi còn nghe nói có một người Việt đã đỗ cả thủ khoa trường
võ bị. Người Việt Nam là những người rất thông minh, chăm chỉ. Tôi đã ở Viễn
Đông khá lâu, với những kinh nghiệm trải qua ở Việt Nam, tôi hiểu những người
Việt Nam như thế nào.
Còn mấy đứa con tôi, đứa ba mươi bảy, đứa ba mươi lăm, đứa ba
mươi ba, một thằng cháu nội đã mười lăm tuổi đầu. Khi tôi về, kể chuyện chúng ta
đã bỏ rơi dân tộc ấy, chẳng đứa nào buồn hỏi câu gì. Không đứa nào hỏi một câu,
ví dụ quan niệm tôi thế nào, chúng ta có nên rút đi và bỏ lại những người ấy hay
không?
Những buồn tiếc không thể kể hết được, ông ạ. Khi tôi nhìn vào
mắt những người Việt Nam lúc ấy, tôi cảm thấy một cách sâu xa cái câu hỏi chứa
đựng trong lúc họ ngước nhìn: “Tại sao bỏ rơi chúng tôi? Tại sao người Mỹ đã bỏ
rơi chúng tôi?” Các cặp mắt ấy không hề tỏ lộ oán thù. Những cặp mắt ấy chỉ như
mắt đứa bé con ngước nhìn cha mà hỏi: “Bố ơi, tại sao bố lại đánh con?” (!)
Người Việt Nam là những người tuyệt diệu. Tôi yêu mến họ lắm.
Tôi ước chi tôi có thể mang hết tất cả người Việt ra đi. Nhưng tất nhiên, tốt
hơn nữa, tôi ước chi đã không để xảy ra những lý do làm cho họ cần phải ra đi.
Đáng lẽ, họ không phải bỏ xứ ra đi.
CLINTON J.
HARRIMAN, JR.
(Thủy thủ
tàu Greenville Victory)
“Mình ơi, ít
nhất mình được cùng chết bên nhau.”
Tôi bắt đầu làm cho Bộ Chỉ huy quân Hải vận kể từ 1967. Trước
đây tôi đã ở trong nghề đi biển này nhiều năm rồi. Dạo đang làm hoa tiêu dẫn tàu
vào bến cho một hãng tư ở Virgin Island, tôi bỗng khoái đi Việt Nam. Tôi đã đến
Viễn Đông nhiều lần, nhưng chưa từng tới Việt Nam bao giờ. Dạo ấy là lúc xảy ra
trận tổng công kích Tết Mậu Thân, nhưng nói cho ngay, khi tôi đến Việt Nam, tình
hình đã tốt rồi.
Như vậy là tôi đến Việt Nam lần đầu vào năm 1968 với tư cách
đệ nhất sĩ quan của tàu Robinson. Sau tôi trở thành thuyền trưởng tàu này. Công
việc chúng tôi là chuyên chở đạn dược võ khí từ Hoa Kỳ sang Việt Nam. Chúng tôi
đã đi vài chuyến như vậy. Tôi lấy vợ Việt Nam. Vợ tôi tên Trần Thị Tất. Hôm đám
cưới, có ông Hội đồng làng đến chủ tọa, rồi ghi vào gia phả, thế là xong. Ở xứ
ấy, đấy là hợp pháp, nhưng việc ấy chẳng giá trị khỉ mốc gì. Sang đến Mỹ, sau
này chúng tôi phải cưới lại. Chúng tôi có một đứa con gái đặt tên là “Thu Hồng,”
nghĩa là “đoá hoa hồng mùa thu,” nó sinh ngày 10 tháng 2, 1970. Một đứa con trai
tên Minh, cha nó là chồng trước của vợ tôi. Còn đứa con trai út của chúng tôi
sinh ở Mỹ, chúng tôi đặt tên là “Chiến Sĩ,” có nghĩa là “anh hùng đánh giặc.”
Vào lúc tình hình đang tanh bành ra vào mùa Xuân 1975 thì tôi
đang ở Mỹ. Vì vợ con ở cả Việt Nam, tôi cố về lại mà không được. Tôi kẹt ở Nữu
Ước. Tôi hiểu cái tình thế khốn nạn này tuột dốc nhanh lắm, cho nên tôi tìm gặp
viên Chỉ huy hải cảng, xuống nước năn nỉ để xin một chân đi Việt Nam trên chiếc
tàu Greenville Victory. Đây là chiếc tàu duy nhất của chúng tôi ra đi và chiếc
tàu duy nhất tôi có hy vọng đi theo.
Nhưng vào tháng Ba, lúc sắp sửa đi, tôi đạp nhằm một cục nước
đá, gẫy giò. Tôi vẫn cứ cố đi. Tôi khập khễnh bước, mặc dù đau thấu trời. Nhưng
đến lúc cái cẳng sưng vù lên, tôi đành tới Bác sĩ Hải quân. Ông này thấy thế,
bảo: “Cái cẳng như vầy, làm việc sao được? Ông không thích hợp với công tác.”
Tôi nói: “Khỉ mốc! Tôi bắt buộc phải đi chuyến này.” Ông ta bảo: “Không, tôi
không cho phép anh đi.” Tôi vẫn nói: “Tôi phải đi,” tôi giải thích lý do cho ông
ta hiểu. Nghe xong ông ta bảo: “Lạy Chúa, anh chịu đựng nổi chớ?” Tôi nói: “Được
mà. Trời đất ơi, tôi là sĩ quan trợ y trên tàu này chớ bộ.” Vì thế ông ta đành
để cho tôi đi.
Hôm lên tàu, Thuyền trưởng Ray Iacobacci cõng tôi trên lưng,
bước lên cầu mà vào chiếc Greenville Victory. Suốt tuần lễ, tôi chả làm được
công việc khỉ mốc gì.
Chiếc tàu chở đầy đạn dược đến Cát Lái. Sau đó, đi Đà Nẵng,
rồi rỡ hết hàng ở Cam Ranh. Rồi chúng tôi đi Thái Lan và cứ ở ì một chỗ ấy. Chúa
ạ, có đêm ở trên tàu đúng là chỉ có mỗi một mình cha thuyền trưởng ngồi chỏng
chơ. Thành phố này là chỗ ăn chơi động trời mà. Đến lúc nhận được lệnh trở lại
Việt Nam di tản người, thì Thuyên trưởng phải chui vô xe taxi sục sạo khắp thành
phố mới kiếm đủ người đưa về tàu.
Tôi có một căn trong chung cư tại Sàigòn và một căn nhà ở vùng
ngoại vi Tây Ninh. Căn nhà này ngon lành hết xẩy. Vợ tôi là gái quê, khi nào tôi
đi biển thì mụ vợ lui cui ở nhà. Khi tàu đến thả neo ở Vũng Tàu, tình hình đến
lúc cận kề lắm rồi. Tôi bảo thuyền trưởng Ray Iacobacci rằng: “Đây là cái cơ hội
hiếm hoi để tôi đưa vợ con đi đây”. Ray bảo: “Ô Kê, Harry, đi đi.”
Cái cớ để tôi đi là tháo cái băng bó bột ở chân. Mỗi ngày tôi
phải đứng từ mười bốn đến mười sáu tiếng, cái băng bột mềm èo, cẳng tôi đã sưng
phồng lên rồi.
Tôi đến bịnh viện Cơ Đốc với mụ vợ để tháo cái băng bột chết
tiệt này ra. Mấy cha ở đấy bảo: “Chúng tôi không cho phép ông xuất viện, trừ phi
ông bước được từ đây đến cuối phòng.” Tôi nói: “Lạy Chúa, tôi không dám nghĩ là
tôi bước nổi.” Nhưng rồi tôi cũng bước được.
Khi tôi ở Sàigòn, Thuyền trưởng Iacobacci đã đem tàu ngược lên
hướng Bắc để thi hành công tác. Bấy giờ là lúc bọn “cứt” tiến đến. Chúng tôi có
một căn chung cư rất đẹp bên kia sông, trong một nhánh nhỏ của sông Sàigòn, và
vợ tôi nói: “Hổng có chuyện gì đâu, rồi cũng êm thôi,” vân vân, vân vân… Tôi thì
tôi biết không thể êm được. Tôi đi gặp một người bạn, Đại tá Vọng, một cha ngon
lành hết xảy, ông ta đề nghị cho chúng tôi ra Tân cảng. Ông ta là Chỉ Huy trưởng
căn cứ ấy, ông ta có một căn nhà rất to lớn đẹp đẽ. Chúng tôi ở đấy mới được một
đêm thì họ hàng nhà ông đại tá kéo đến, nào mẹ, nào chị em, cô chú đủ thứ. Người
Việt Nam lạ lùng hết chỗ nói, bất kể trí thức hay nông dân gì cũng vậy, cái
chuyện mười lăm con người ngủ chung một phòng, họ coi như không. Tôi tự bảo:
“Lạy Chúa tôi, cha này dễ thương hết sức, nhưng tôi chỉ là khách ở đây. Thôi
xuống tỉnh kiếm cái khách sạn mà ở.” Với cái chân sưng to như cái cột cắm dù,
chúng tôi đến khách sạn Majestic, thuê một phòng rộng thênh thang. Rồi cứ ở đấy
chờ tàu. Tôi tự bảo: “Mẹ kiếp phải vọt khỏi đây thôi.” Bà má vợ tôi vì đã trải
qua hai trận giặc Pháp và Nhật Bổn, cứ cho rằng đây chỉ là một trận giặc nhỏ của
hai trận ấy thôi, không có gì đáng sợ, mấy chuyện như thế ông hiểu không.
Nhưng tôi biết chắc chắn kỳ này là cáo chung. Chắc chắn đến
tận mạng rồi. Vì thế tôi đi kiếm cho được một người bạn nữa tên là Brit, hắn
điều khiển một công ty thuyền bè nhỏ. Cha này thu xếp được cho tôi một cái xe
Renault, đời 39,40 gì đấy. Cái xe coi bộ ngon lành lắm, với một tay tài xế già.
Chúng tôi dùng xe chạy đi tìm chiếc tàu Greenville Victory khi
tàu này trở lại Vũng Tàu. Đường đi mỗi lúc một xấu, nhiều chướng ngại vật. Có
khoảng năm hay sáu dặm đường, chiếc xe chỉ rì rì chạy được với tốc lực mười lăm
dặm một giờ. Nhưng rồi cũng tới nơi. Chúng tôi đến cổng hải cảng, nhìn bừa bãi
heo lợn, rổ rá bỏ lại. Mấy chiếc xe Lambretta đổ lăn kềnh sang một bên. Tôi đã
có thể nhìn thấy cả chiếc tàu đậu trong cảng. Nhưng khi xe tiến đến gần hàng rào
chướng ngại, thì một thằng lính chết tiệt mặt đầy mụn tiến đến dí khẩu súng vào
cửa xe, chỗ tài xế lái. Tôi và vợ con ngồi cả ghế sau. Thằng lính nói: “Ra khỏi
xe, đi bộ!” Giêsu ma lạy Chúa tôi, làm sao tôi đi cho nổi? Lợi dụng việc thằng
lính không hiểu tiếng Anh, tôi bảo vợ tôi là: “Nói với cha tài xế quay mẹ cái xe
khốn nạn này mà về lại Sàigòn.” Người Việt Nam họ nói tiếng còn dịu hơn là người
Ái Nhĩ Lan. Vợ tôi nghiêng người sang nói rất nhẹ, đến nỗi tôi cũng không nghe
thấy tiếng. Cha tài xế già lúc ấy đang hoảng sợ tận mạng, vội vọt chiếc xe vòng
trở lại, chỉ trong gang tấc suýt đụng một chiếc xe vận tải. Thế là vèo một cái
chúng tôi quay ngoặt trở lại đường cũ.
Đó là một con đường khá đẹp, do Mỹ làm. Nó chẳng khác gì cái
xa lộ bốn lằn, ở giữa có rào ngăn hai chiều: một chiều chạy hướng Bắc, một chiều
chạy hướng Nam. Bấy giờ ở chiều bên kia, xe đạp, xe lam, xe gắn máy, xe vận tải,
xe nhỏ xe lớn lũ lượt nối đuôi nhau. Còn chiều bên này trống như bãi tha ma,
chạy thả dàn. Trên đường bên này chúng tôi chạy được chừng đâu hai mươi lăm dặm,
thì bắt đầu thấy mấy cha để một mớ thùng xăng loại 55 ga-lông làm chướng ngại
vật chặn đường. Đến lúc ấy tôi tự bảo “Rồi, tới lúc rồi.”
Ông tài xế già rút tốc lực lại. Trong xe, tôi để sẵn trên sàn
một thùng lựu đạn tay, một khẩu tự động 45. và một khẩu 38 đến bây giờ tôi vẫn
còn giữ. Tôi còn có bốn năm hộp đạn 45, thêm hai ba hộp đạn 38. Tôi bảo vợ tôi:
“Hãy nói với lão già này…” – Mặc dầu xin ông tin cho, tôi không bao giờ thích
chạy xe tốc lực nhanh, nhưng ngày hôm đó, có lẽ trên đời không còn thứ xe nào có
thể chạy cho đủ nhanh như tôi muốn “…Nói lão già này dậm ga tối đa. Chúng ta
phải vọt qua mấy cái thùng mắc dịch kia đi. Tôi không muốn kẹt ở cái chỗ khốn
kiếp này đâu!”
Cha tài xế già nói với vợ tôi: “Chèn đét, họ bày mấy cái thùng
kia, tui làm chi được bây giờ?” Tôi bảo: “Nói với chả nếu không vọt qua là tôi
để ngay một phát đạn này vào đầu chả.” Tới lúc này, gã nhấn ga.
Chúng tôi bay trên đường, phóng đến. Mấy cha lính bấy giờ đang
lấy sỏi dưới bờ đường để đổ vào trong thùng, nếu họ đổ vào thùng rồi mà chúng
tôi đụng tới là tiêu thôi… Thế là cha tài xế già hung hăng phóng tới chả khác
tướng Grant ào ạt đánh chiếm thành Richmond, nhưng chả chỉ đụng cái thùng chút
đỉnh. Cái thùng bay lên không trung. Lúc này mấy cha lính nằm trườn lên bờ
đường, mỗi cha chơi hai ba phát, nhắm vào chiếc xe. Chả biết lý do nào, hoặc vì
chiếc xe đang quay vòng trở lại, hoặc vì mấy chả bắn tồi quá, nhưng chúng tôi
không mảy may xây xát gì.
Bấy giờ cha tài xế nói: “Nè, nghe tui nói nè, hình như họ cắt
đường rồi. Hồi trẻ tui có đi làm đồn điền cao su, hổng xa đây lắm đâu. Ở đó có
con đường nhỏ. Nếu đi chậm lại, rẽ tay trái, lấy đường ấy mà đi cũng được.”
Tôi nghĩ: “Mẹ kiếp, vô bẫy rồi sao đây?” Nhưng trên đường
chính mấy thằng cha lính mắc dịch vẫn chờn vờn đó, nên tôi đành biểu chả đi đi.
Chả phóng qua khỏi con đường mấp mô thì đến một con đường nhựa rất nhỏ, có lẽ đã
làm từ đời những năm 1920. Chả cho xe vào đường ấy. Nhìn sang tay phải, qua cửa
sổ xe, chúng tôi thấy xa lộ chính, chúng tôi thấy có hai chiếc trực thăng đậu,
trông không có vẻ gì là của phe ta.
Bất kể mấy cha sử gia của trận chiến này sẽ nói chuyện khỉ mốc
gì với ông, nhưng bấy giờ, trong cái xe ấy, tôi biết chuyện gì đang xảy ra sờ sờ
trước mắt: Tôi thấy rõ bọn lính Bắc Việt mặc quân phục ôm súng AK 47 đang bước
ra khỏi trực thăng.
Tôi bảo vợ: “giờ phút này mình có thể vĩnh biệt bất cứ lúc
nào,” và tôi tự bảo: “Mẹ kiếp, tôi mà tiêu thì cũng phải mang vài thằng cùng
xuống địa phủ!” Vợ tôi lúc ấy can đảm bảo tôi rằng: “Mình ạ, ít nhất mình được
cùng chết bên nhau.” Bả nói câu ấy làm tôi vững bụng trở lại. Tôi chẳng rõ bả có
hiểu mình nói cái gì không, nhưng nghe vậy cũng mát lòng.
Chúng tôi bèn cho xe chạy rù rù xuống con đường nhỏ dọc dòng
sông, rồi chạy vụt vào ẩn trong rừng một lúc. Sau đó chạy khoảng tám mươi dặm
nữa, chúng tôi đến được một cánh cổng có bốt gác, nơi này có mấy thằng cha lính
khốn kiếp, người nhỏ thó, cực kỳ khó chịu. Bọn lính ít khi ưa chuyện đàn bà Việt
Nam đi với đàn ông da trắng. Chúng tôi bèn trình đủ thứ giấy tờ có hình tôi,
hình vợ tôi, thông hành Mỹ của tôi, mấy tờ thông hành có chữ ký của Đại tá Vọng.
Chữ ký của Đại tá Vọng làm cho chúng chú ý ngay lập tức, tôi xin nói rõ như thế.
Nhờ vậy chúng tôi đi được vào cổng, một nơi mà tôi vẫn chưa rõ là đâu. Hoá ra
chúng tôi đã vào một căn cứ, nơi đây bây giờ vắng hoe. Quanh quẩn tôi nhìn ra
cái câu lạc bộ thủy thủ, một cái câu lạc bộ đẹp đẽ to lớn. Đến lúc này cẳng tôi
đau thấu trời, tưởng sắp gẫy lìa đến nơi. Bấy giờ, vợ tôi nói: “Mình ơi, ông già
muốn uống nước ngọt!” Tôi bảo: “Lạy Chúa, mụ vào kiếm cho ổng một chai.”
Vợ tôi bước vào, đến cánh cửa gương thứ hai, bả dòm vào rồi
bước trở ra nói: “Vô trỏng tui sợ lắm.” Tôi hỏi: “Sao vậy?” Bả nói: “Hổng có ai
trong đó cả.” Tôi chụp khẩu súng, đi cà nhắc bước vào. Đây là một toà nhà rất
lớn, bấy giờ êm lặng như tờ, đánh rơi cái kim cũng nghe tiếng. Mấy cha trước làm
việc ở đây đã biến đâu hết. Tôi tự bảo: “Cách nào tôi cũng kiếm được một món
uống chùa, khỏi phải trả tiền.” Cái quầy rượu nằm cuối phía dưới, tôi đi xuống
dưới ấy và Chúa ơi, trong máy tính tiền còn vương vãi cả tiền bạc đủ thứ. Không
một bóng ma. Bồi bàn, đầu bếp, không một người ở đấy.
Tôi vòng ra sau quầy rượu, tự rót cho mình một cốc Vốt-ka ngon
lành, đầy nhóc, ực một cái. Vào giây phút ấy chẳng cần rượu thì kích thích tố đã
bốc rạo rực rồi. Tôi rót cho mình một cái Vốt-ka nữa, kiếm cho ông già taxi một
chai nước ngọt, rồi đi cà nhắc trở ra. Đưa chai nước cho ông ta. Vợ tôi bảo:
“Cho ổng ít tiền.” Chà, tôi còn lại sáu trăm đô trong túi, làm sao cưu mang mụ
vợ với đứa con gái nhỏ đến tận Thái Lan với sáu trăm bạc đây?
Tôi bèn hỏi: “Hai chục đủ không?” Vợ tôi nói: “Hai chục được
rồi.” Tôi đưa cho ông già hai chục bạc. ông quay ra chiếc xe Renault, rút chìa
khoá, đề máy. Cái máy xe chó đẻ không nổ. Sau một trăm sáu mươi dặm với tốc lực
rì rì như thế, có lẽ đã hết nhớt rồi.
Hình ảnh cuối cùng tôi thấy là lão già cuốc bộ ra cửa, vừa đi
vừa ực chai nước ngọt. Tôi không rõ sau đó chuyện gì xảy ra cho ông ta.
Tôi vẫn còn lại 580 đô và hai khẩu súng ngắn. Thế cũng đủ dễ
chịu. Bấy giờ mọi việc có một vẻ lắng dịu trước cơn bão tố sắp xảy ra. Tôi điện
thoại cho Bill Ryder, hoá ra hắn ở ngay trong căn cứ này. Đúng ra, hắn chỉ cách
chỗ chúng tôi vài trăm thước thôi! Tôi bảo vợ: “Thả bộ xuống chỗ ấy nào!”
Văn phòng Bộ Chỉ huy quân Hải vận đầy nhóc bọn con gái Việt
Nam coi hết sức ngon lành làm việc ở đấy. Các cô này không muốn ở lại. Thời bấy
giờ bất cứ cô nào làm việc cho Mỹ cũng chỉ cho yêu mà không được hôn. Vui chơi
thôi, không tình nghĩa gì. Tin tôi đi, bấy giờ xứ ấy đang ở vào một giai đoạn
đầy náo động.
Ryder là một gã tuyệt vời hết sức. Hắn cố thu xếp cho tôi đi
bằng chiếc Pioneer Contender để ra Vũng Tàu. Tàu ấy được điều khiển bởi một
thằng cha thuyền trưởng tên là Flink. Cái văn phòng của Ryder đầy bọn con gái
Việt Nam ngồi rỉ rả cắn móng tay, mặc những bộ áo dài đẹp nhất của họ, trong lúc
máy vô tuyến cứ phát tin ra, nhận tin vào.
Thế là họ thu xếp cho chúng tôi một cái xe hơi to tổ bố, có lẽ
là xe Buick thì phải, với tài xế đàn bà lái để chở chúng tôi đến chiếc tàu
chuyển vận tư nhân Hoa Kỳ, chiếc Pioneer Contender. Đường lên cầu tàu dài dằng
dặc, vì cái cẳng khốn kiếp của tôi giờ đây sưng phù như cái ống bễ rồi.
Thường thường vợ tôi vẫn cho con mặc quần áo Mỹ vì mỗi lần về
nước tôi lại đem sang ít quần áo. Nhưng hôm ấy, Chúa ạ, đứa con gái của tôi lại
mặc bộ bà ba Tàu. Con gái tôi rất trắng, nhưng bộ quần áo khốn nạn nó mặc hôm ấy
như thế là sai lầm.
Tôi lên tàu, ở đó thằng cha thuyền trưởng Flink đang ngồi sau
bàn làm việc của Công ty Chuyển vận mắc dịch này. Tôi nói: “Bill Ryder gửi tôi
xuống đây nhờ ông chở tôi và con gái tôi đi.” Vợ tôi lúc ấy ở trên cảng bà ấy sẽ
phải đi tìm thằng con trai. Tôi nói bả cứ chờ đó với người tài xế cho đến lúc
tôi ra hiệu hãy đi. Tôi rất sợ không có xe, với cái cẳng của tôi như thế mà leo
được vào phòng thuyền trưởng là đã chả khác leo lên tận Hy Mã Lạp Sơn.
Vậy mà thế đấy, vào giờ phút Sàigòn sắp đổ, mà hai thằng Mỹ là
cha Flink và tôi vẫn còn ở đây, và cái thằng thuyền trưởng mặt mẹt vênh váo ngồi
chành bành sau bàn giấy ấy lại bảo tôi rằng: “À há, còn phải đợi chớ. Tôi không
thể nhận ông làm hành khách được.” Tôi nói: “Chúa ơi, ông không có ý định bỏ
chúng tôi lại cái cảng khốn nạn này chớ?” Hắn nói “Nè! Còn phải có luật lệ? Công
ty chúng tôi làm ăn có luật lệ đàng hoàng.”
Ông biết không, sau này không lâu cái công ty chuyển vận hàng
hải ấy phá sản. Lúc đó tôi đã nói với hắn: “Cứ theo cách làm việc của mấy người
như ông thì công ty ông đến phá sản thôi.” Tôi quả không thể tin nổi thái độ làm
việc của mấy thằng cha như vậy.
Tôi đành quay lại văn phòng tìm Ryder, nhưng khi nghe có vài
phát súng, cô tài xế đã chở vợ tôi đi mất. May tôi không phải cuốc bộ. Tình cờ
gặp được một cậu lính Việt Nam có xe gắn máy, tôi bèn nhờ chở tôi với đứa con
gái thẳng tới văn phòng. Bill Ryder vẫn còn ngồi đấy với lũ con gái cắn móng
tay. Bill hỏi: “Mày làm cái con mẹ gì mà còn chờn vờn ở đây thế?” Tôi đáp: “Cái
thằng chó dưới ấy không chịu đưa đi.” Bill Ryder nói: “Bố tiên sư nó.” Thế là
hắn lấy một cái xe khác đưa tôi chạy lại tàu, leo lên phòng thuyền trưởng. Bill
Ryder bảo: “Nè, anh phải đưa người này đi ngay.” Thằng cha Flink lúc ấy ấp a ấp
úng vì có Bộ Chỉ huy quân Hải vận thì các công ty hàng hải này mới sống nổi, cho
nên Bill Ryder bảo: “Mấy anh nghe tôi nói đây. Nếu anh không chịu, tôi cho các
anh treo giò.” Treo giò có nghĩa là không được trả tiền, mỗi ngày khoảng 27,000
đô la. Chà, nghe như thế thằng cha Flink nhẩy nhổm. Cuộc đời thuyền trưởng của
hắn kể như xong. Hắn lắp bắp: “À, trong trường hợp này thì…” Thế là chỉ trong
vòng nửa giờ sau mọi chuyện êm thắm. Hắn đưa chúng tôi ra sông, nhắm hướng Vũng
Tàu mà đi.
Thằng cha thuyền trưởng Flink bấy giờ có lẽ đã đái trong quần,
hắn cho tàu chạy hết tốc lực ra Vũng Tàu. Thuyền trưởng Iacobacci phái một xuồng
cấp cứu chạy đến bốc chúng tôi. Vợ tôi bấy giờ đã về nhà quê đón con trai. Đại
tá Vọng cũng giúp đỡ sắp xếp cho mọi việc. Bả đi, tay vác cái va li, tay dắt con
lội bộ hơn hai mươi ba dặm đường. Phải đi qua nào rừng cao su, nào rừng dừa, đủ
các thứ cứt ỉa như vậy, khó khăn lắm mới qua được, cũng đều nhờ Đại tá Vọng cả.
Bả về được đến Sàigòn. Vào căn cứ, tại đó bả là người đàn bà duy nhất. Nhờ có
mấy tấm giấy với chữ ký của Đại tá Vọng, bả đi được bất cứ chỗ nào. Đại tá Vọng
là tổ sư luật pháp ở đây mà.
Phần tôi và con gái đi tàu Greenville Victory, đến Phi Luật
Tân. Vợ tôi và con trai đi tàu Boo Heung Pioneer, chuyến tàu cuối cùng.
Tôi còn nhớ khi tàu đậu ở bến có một cha mặc bộ vét đen coi
trịnh trọng lấm, hắn leo lên tàu, rồi chạy sục sạo khắp nơi. Hắn đi kiếm con chó
của ông Đại sứ! Thực thế đấy. Trong lúc người ta đang bận rộn bốc đi 11,000
người di tản, thì thằng cha hình như là đệ nhị bí thư – Chức tước mả mẹ gì không
rõ – Cứ chạy sục sạo từ tàu này sang tàu khác để kiếm con chó của ngài Đại sứ
Martin!
Chúng tôi đến Phi Luật Tân, ở đó tôi gặp một cha thuyền trưởng
tên là Ruebasmen, quen biết từ trước. Cha này là tay tổ bên Bộ Chỉ huy Quân Hải
vận thì phải. Lúc ấy tôi đang ngồi trong câu lạc bộ sĩ quan tại căn cứ Hải quân
ở Vịnh Subic, cha này tiến đến chào hỏi, hắn nói: “Tiện thể xin cho bạn biết, vợ
bạn đang ở East Le Grande. Bả vừa mới tới bằng tàu Boo Heung Pioneer.” Tất nhiên
như thế tôi biết vợ tôi đã đón được Minh ra đi. Cả Bill Ryder và Đại tá Vọng đã
giúp bả ra đi trên tàu này, bả còn được ngủ ngay trong phòng thuyền trưởng. Bấy
giờ đã mười giờ rưỡi đêm rồi. Ruebasmen nói: “Sáng mai bạn có thể lấy xuồng của
tôi mà chạy đi tìm vợ.” Thế là mọi sự đã ổn. Sáng hôm sau, tôi phóng đi tìm bả.
Nhưng bả lại đi mất. Họ đã mang bả sang Guam. Ít nhất tôi cũng yên tâm là bả
đang ở trên đường sang Mỹ. Tiếp theo, tôi nghe tin bả được đưa đến trại tỵ nạn
Indian Town Gap, ở Pennsylvania. Tôi gọi ngay điện thoại tới bảo: “Không nhúc
nhích đi đâu hết! Ở đâu ở nguyên đó!”
Tôi xin kể thêm cho ông nghe một việc; Căn nhà của chúng tôi
tại ngoại vi thành phố Tây Ninh là một căn nhà rất thần tiên. Một toà nhà đẹp
tuyệt trần. Bọn Cộng sản ngày nay cứ gọi Việt Nam là “Cộng Hoà” này, “Cộng Hoà”
nọ, “Nhân dân” này, “Nhân dân” kia, đều là chuyện cứt khô! Mấy thằng cán bộ cao
cấp trong chính phủ Cộng sản còn sống đế vương hơn cả hoàng đế Nga! Ông có biết
mẹ vợ, các anh chị em vợ tôi ngày nay ở đâu không? Họ đang ở trong mấy cái nhà
kho. Thế ông có biết ai đang ở trong căn nhà đẹp đẽ của chúng tôi không? Thằng
cha tỉnh ủy Cộng sản. Tụi nó chỉ đổi cái huy hiệu trên cái mũ. Thế thôi. Đ.M.
Bọn nó gỡ cái huy hiệu cũ ra, gắn lên một cái ngôi sao, rồi dọn ngay vào ngôi
nhà mắc dịch của chúng tôi mà ở, thế thôi.
Nhưng chả sao. Chúng tôi được an toàn, hạnh phúc êm ấm tại
đây. Đứa con trai lớn là con riêng vợ tôi, bả lấy một người chồng Việt Nam đã
chết trong chiến tranh. Khi tôi gặp bả, thằng bé chỉ lớn hơn ổ bánh mì chút xíu,
hắn không biết ai là cha hắn ngoài tôi. Cho đến năm hắn mười lăm tuổi, tôi mới
kể chuyện cho hắn nghe, bởi vì một lần tôi có nói với hắn rằng: rồi đến lúc mười
bảy tuổi nhìn vào gương hắn sẽ nhận ra tôi không phải cha đẻ của hắn. Hắn có vẻ
mặt rất Á Đông, nhưng hắn ngoan lắm, như con ruột tôi vậy. Ngoài ra chúng tôi
cũng có hai đứa con đẻ.
Các ký ức chiến tranh không làm phiền tôi vì tôi đã trải qua
nhiều chuyện rồi. Hồi đệ nhị thế chiến tôi đã sống sót trong một vụ đắm tàu
ngoài khơi biển Ba Tây. Tôi cũng không nói là tôi không sợ, vì suốt một hai tuần
lễ đầu khi trở về Mỹ cứ nghe chuông điện thoại là tôi ớn, chả khác gì còi báo
động. Nhưng chỉ một vài tuần là hết. Rồi tôi lại làm một chuyến đi nữa trên tàu
Mayaguez vào năm 1975, nhưng đấy lại là một chuyện khác.
Nếu phải bắt đầu tất cả mọi sự, tôi sẽ không ngần ngừ một
phút. Nói thẳng ra, trong thực tế, bây giờ chả có gì khoái trá hơn đối với tôi
trong cõi đời mắc dịch này là: Được bước về căn nhà của chúng tôi ở Tây Ninh, đá
đít cái thằng cha Tỉnh ủy Cộng sản mắc dịch, cho nó đi chơi chỗ khác.
CHƯƠNG 9 : THỦY QUÂN LỤC CHIẾN HOA KỲ
IM KEAN
(Thiếu tá Thủy quân Lục Chiến)
“Tôi biết chắc
chắn phải có một giải pháp tốt đẹp hơn”
Tôi đã học ở trường Chiến Tranh Thủy Bộ (AWS), một phần trong
chương trình huấn luyện trung cấp của tôi. Trước đây, lúc tôi đang dạy ở trường
Huấn Luyện căn bản dành cho các sĩ quan Thủy Quân Lục Chiến, thì có lệnh gọi đi
học. Oliver North cũng đã dạy ở trường Huấn Luyện căn bản này và cũng đến thụ
huấn tại AWS một lúc với tôi.
Khi mãn khóa vào mùa Hè năm 1973, tôi được sử dụng ngay vì tôi
có học tiếng Tàu, và cũng có bằng Á Châu Học tại Đại học Berkeley. Bộ Tư Lệnh
Thủy Quân Lục Chiến điện thoại cho tôi biết: “Còn trống chỗ tại một đơn vị ở
Hồng Kông”. Họ hỏi: “Bạn có khoái đi Hồng Kông chăng?” Tôi đáp; “Bắt tôi bơi
sang bên ấy, tôi cũng không từ chối”.
Đây là chuyện đi được phép mang theo gia đình, một cơ hội hiếm
hoi cho tôi đưa gia đình theo ra hải ngoại. Trong truyền thống Thủy quân Lục
chiến, người ta không cho mang gia đình theo. Thế là tôi trở thành sĩ quan
Thường vụ của Đại đội C, Tiểu đoàn Phòng vệ Thủy Quân Lục Chiến tại Hồng Kông.
Sĩ quan chỉ huy, Thiếu tá Don Evans sẽ mãn phiên trong một năm. Như thế tôi sẽ
có cơ hội kế nhiệm ông. Chẳng bao lâu, tôi thăng Thiếu tá, đủ tư cách chỉ huy
đơn vị.
Lúc ấy nhiệm vụ của tôi bao gồm việc bảo vệ an ninh chạy suốt
từ Ấn Độ đến Bắc Kinh, Tokyo xuống đến Wellington. Cả thảy có hai mươi ba tòa
Đại sứ và tòa Lãnh sự Mỹ khác nhau trong vùng mà Thủy Quân Lục Chiến phải phụ
trách bảo vệ.
Trong năm đầu tiên, tôi chia các chuyến đi với các sĩ quan chỉ
huy, nhờ thế tôi có kinh nghiệm để sau này phụ trách Phòng Chỉ Huy. Đến lúc trở
thành Sĩ quan chỉ huy đơn vị, tôi đến mỗi tòa Đại sứ hoặc tòa Lãnh sự theo lịch
trình bình thường, cứ mỗi nơi sáu tháng một lần. Cũng có những chuyến đi bất
thường để giải quyết các vấn đề khẩn cấp. Lính Thủy Quân Lục Chiến gặp trục
trặc, thường là chuyện đàn bà gái gấm lôi thôi, là tôi cũng phải đến giải quyết
cho bọn nhỏ.
Kể ra những chuyến du lịch và những kinh nghiệm ấy cũng đã đem
lại cho tôi một nhãn quan rộng rãi hơn để biết những gì thực sự xảy ra ở Á Châu.
Nhờ thế tôi biết được cảm giác của người Ấn Độ, hiểu được những người Nhật Bản
hay người Đại Hàn suy nghĩ thế nào.
Khi đến nhiệm sở, vì thủ tục an ninh cá nhân, tôi phải nói
chuyện với những sĩ quan chính trị vụ, các nhân viên Trung Ương Tình báo, các
viên chức Bộ Ngoại Giao. Những cuộc gặp gỡ ấy là một học hỏi thích thú. Từ đấy
tôi cũng trở nên tinh tế hơn về vấn đề Việt Nam.
Thế rồi biến cố Việt Nam xảy ra. Thật đột ngột. Tôi biết thiếu
gì người có học thức cho rằng chuyện ấy cuối cùng vẫn phải xảy ra, nhưng đối với
tôi nó có vẻ đột ngột quá. Đầu tiên là vụ Bắc Việt tấn công Ban Mê Thuột vào
tháng Ba, 1975. Rồi cuộc triệt thoái Cao nguyên của quân đội Nam Việt Nam. Sau
đó là cả một cơn đại hồng thủy. Một ngọn sóng triều tràn ngập quân đội và chiến
xa Bắc Việt. Lính miền Nam rút khỏi Cao nguyên đúng lúc lính miền Bắc nỗ lực
tiến vào. Chợt một cái tất cả tan nát từng mảnh vụn.
Khi người ta bắt đầu tuôn chạy, mọi người cứ như thế ào lên
chạy. Các đơn vị tan tã. Những người quyết định chiến đấu đến chết thì đã chết
dưới lửa đạn, hoặc cũng bị cô lập mà thảm bại. Một số kéo dài việc chiến đấu lâu
hơn, cuối cùng cũng thất bại thôi.
Bấy giờ nếu ông có dịp du lịch Đông Nam Á, ông sẽ thấy nhiều
điều đáng tò mò. Tôi sẽ cho một thí dụ về nước Lào chẳng hạn. Trước khi mất Cam
Pu Chia và Việt Nam, Lào đã được cả đôi bên chiếm đóng. Tại thủ đô Lào, quân
Pathet Lào và quân chính phủ cứ thản nhiên đi ngược chiều nhau trên đường phố.
Nhưng khi tình hình Việt Nam và Cam Pu Chia bắt đầu lộn xộn, sự căng thẳng ở Lào
gia tăng. Những vụ đối đầu dần dà xảy ra. Quân Pathet Lào ở Vạn Tượng được từ từ
thay thế từng người một bằng lính chính quy thứ dữ của Bắc Việt mặc quân phục
Pathet Lào. Lực lượng Pathet Lào nguyên chỉ là lính du kích, làm gì có quân lực
nặng? Thế rồi, đùng một cái, người ta chứng kiến đầy những binh sĩ chính quy có
kỷ luật, có huấn luyện kỹ càng, người ta đương nhiên phải biết tác giả những vụ
ấy là ai.
Cam Pu Chia tan vỡ.
Bấy giờ vào mùa Xuân năm 1975 tôi đang ở Hoa Thịnh Đốn. Tôi về
dự một buổi hội nghị thì nhận tin từ Bộ Tư Lệnh Tiểu đoàn Phòng Vệ Thủy Quân Lục
Chiến cho biết: “Đã có phiền phức xảy ra. Có lẽ chúng ta sẽ phải di tản khỏi Nam
Vang.” Khi nghe Chỉ Huy Trưởng Tiểu Đoàn cho biết thế, tôi nói: “Nếu ông cho
phép, tôi cuốn gói về ngay”. Tôi bèn trở về Bangkok.
Thực ra, việc di tản Nam Vang, chiến dịch “Eagle Pull” dễ như
sơi bánh. Trước hết bởi vì Đại sứ Gunther Dean chính là một viên Tướng Thủy Quân
Lục Chiến mặc thường phục. Nhiệm vụ của ông chỉ có việc đưa đi khoảng hai trăm
nhân viên then chốt đến một bãi đáp duy nhất, nơi biệt đội đổ bộ của Tiểu đoàn
dự trù đáp xuống. Họ mau chóng thiết lập an ninh vòng đai, ném hết mọi người lên
trực thăng mà đi. Bố già ra đi với một lá cờ Mỹ được gói ghém cẩn thận. Mọi
chuyện giản dị như học trò làm bài tập, Nam Vang nằm trong tầm tay của hạm đội
đổ bộ. Biệt đội của Tiểu đoàn nhảy xuống, làm an ninh khu vực xong là rút đi
ngay trong một chiến dịch hết sức gọn gàng. Đấy, những gì xảy ra đúng y như thế.
Tôi giữ lại Bangkok vài cậu Thủy Quân Lục Chiến trước đó ở Nam Vang, xếp đặt cho
các cậu khác cũng từ Nam Vang ra. Xong, tôi quay về Hồng Kông. Tuy nhiên, các
biến cố thê thảm khác tiếp tục mở tung. Chuông báo động đang điểm. Tôi theo dõi
thấy tình hình gần Đà Nẵng đã khẩn trương. Khi được lệnh của Bộ Chỉ Huy Tiểu
đoàn ở Hoa Thịnh Đốn, tôi tức khắc đi Việt Nam ngay.
Tôi quay lại Việt Nam ngày 19 tháng Tư, trong bộ thường phục.
Tất cả lính Thủy Quân Lục Chiến làm cho Bộ Ngoại Giao đều phải mặc thường phục
lúc không có nhiệm vụ hoặc khi du hành.
Bấy giờ thực ra không có náo loạn mà tôi chỉ nghĩ lúc ấy là
một tình trạng căng thẳng đáng ngại thôi. Chợt một cái, người ta phủi bụi, moi
ra những tư liệu cũ viết từ năm 1973 về “kế hoạch di tản khẩn cấp”. Người ta
nhìn mà bảo: “Chúa ôi! Những thứ kế hoạch này chỉ là đống cứt khô. Chúng tôi
phải làm gì đây hỡi Trời!” Và vào khoảng thời điểm này Tư lệnh Thái Bình Dương,
Đề đốc Noel Gayler bắt đầu cho người vào phụ. Tư lệnh Lữ đoàn Thủy Quân Lục
Chiến, Tướng Richard Gayler đến xem xét. Những người bên bộ phận truyền thông
của Không quân cũng đến xem xét. Rồi họ đi đến kết luận: Nếu muốn di tản một số
lượng đông đảo người ra khỏi đây, người ta phải phối hợp với nhau.
Lúc ấy tôi là Đại đội trưởng Đại đội C thuộc Tiểu đoàn Phòng
Vệ Thủy Quân Lục Chiến, cũng là sĩ quan Thủy Quân Lục Chiến khu vực trực thuộc
Bộ Ngoại Giao, ở Viễn Đông. Tại Việt Nam, nhiệm vụ tôi là điều động Thủy Quân
Lục Chiến phụ trách bảo vệ an ninh các cơ sở của người Mỹ tại Đà Nẵng, Nha
Trang, Cần Thơ, Biên Hòa và Saigon. Đó là tất cả phần nhiệm vụ của tôi với Bộ
Ngoại Giao. Khi Đà Nẵng và Nha Trang mất, một số lính bảo vệ chạy vào Saigon đã
trải qua nhiều gay go, họ được di tản khỏi xứ ngay. Có những người vào Saigon
một cách dễ dàng, nhưng trên căn bản, những người từ Đà Nẵng và Nha Trang đều
được đưa ra khỏi xứ. Còn những người ở Biên Hòa khi được kéo về, tôi giữ họ lại
Saigon.
Hãy nhớ những người lính bảo vệ ấy nói chung đều là Thủy quân
Lục Chiến trẻ tuổi. Mà bọn thủy quân trẻ thì rất năng nổ. Những gì đang xảy ra
đây có lẽ là chuyện kích thích nhất đời họ. “Nghe ghê nhỉ. Rùng rợn lắm. Nhưng
chắc chắn tôi rất khoái ở đây”. Họ có thể nói thế. Tôi không bông lơn đâu. Tôi
nghĩ chuyện ấy tuyệt đối đúng như thế. Nhưng sau khi mọi việc đã xong, sẽ có
nhiều phản ứng khá mãnh liệt xảy ra. Bọn nhỏ nhiều tên đã phải trải qua những
kinh nghiệm khó tin. Cuối cùng những kinh nghiệm ấy đã để lại nhiều vết sẹo rất
sâu trong đời họ, nhưng chúng ta chỉ thấy khi mọi việc xảy ra rồi. Còn lúc ấy,
chỉ là những chuyện kích thích và căng thẳng mà họ vẫn kiểm soát được. Và Thượng
đế mới biết tất cả những gì họ đã phải kinh qua, phải chứng kiến: những đứa bé,
những trẻ sơ sinh bị nghiền nát, những con người giết chóc lẫn nhau, dầy đạp lên
nhau trong cơn hoảng hốt, tất cả những chuyện như thế đấy.
Tôi là người chỉ huy, nhưng tôi chắc không thể nào lường trước
được tất cả những trạng huống xảy ra cho họ. Cụ thể là những thảm kịch của đám
lính trẻ phải bỏ lại người yêu, bỏ lại các bạn thân tình mà sẽ chẳng bao giờ hy
vọng có ngày còn sống mà gặp lại nhau. Những việc như thế xảy ra luôn. Trừ khi
họ đến nói cho tôi biết, còn không thì chẳng thế nào biết được hết. Cũng đôi ba
trường hợp, tôi giúp được họ chút đỉnh.
Đôi lúc tôi cho mấy cậu nhỏ ra khỏi bờ tường tòa Đại sứ để tìm
các người thân. Điển hình là lúc họ quay về, họ nhoẻn cười, chào mà nói: “Thưa
Thiếu tá, em đã cứu được họ rồi. Cám ơn Thiếu Tá”.
Sau đó tôi cũng tìm cách viết cho họ vài tờ giấy ban khen, để
họ kiếm cái huy chương đeo ở ngực áo. Nếu họ thực sự có công trạng gì được biết,
họ sẽ được những huy chương cao cấp hơn.
Trong quan niệm của tôi, Đại sứ Graham Martin, người đã bị lôi
kéo vào công việc ở Saigon, là người đã gắn bó với tất cả những hành động mà ông
cảm thấy là tốt nhất cho Hoa Kỳ và cho Việt Nam, đồng minh của chúng ta. Ông
thực sự là một thứ chồn già cứng cỏi. Ông rất gắn bó với việc duy trì sự có mặt
và duy trì danh dự của người Mỹ trong các cam kết với dân chúng Nam Việt Nam.
Ngày hôm nay, trong trí tôi tuyệt đối không nghi ngờ việc đó. Bởi vì ông là một
sức mạnh dữ dội, vì ông có một cái tôi bất hủ, nên có lẽ ông đã phạm lỗi trong
việc nghĩ rằng với các sức mạnh của cá tính ông và cái sự kiện ông rất cứng cỏi
ấy, ông sẽ có thể nhìn thủng vấn đề, dù cho cái ánh sáng lù mù mỗi ngày một tối
đi khắp chung quanh ông và ngay tại Hoa Thịnh Đốn kia. Có thể ông đã là đề tài
cho người ta phê phán, đả kích vào lúc ấy và ngay cả bây giờ, nhưng xin nhớ cho
rằng ông đã là người nắm trách nhiệm. Thực khó cho tôi sau này trong việc ngồi
đó mà phê phán ông. Tôi cảm thấy đại sứ Martin đã cố sức giữ cho sự hiện diện
của chúng ta ở lại Việt nam càng lâu càng tốt, và có lẽ ông đã không muốn làm
những gì vội vàng khinh xuất khi chúng ta rút, ông cố tránh để các tai ương đừng
xảy ra. Và nói cho thật công bằng, suốt đến tận năm ngày trước khi chúng ta rút
lui, ông đã thành công, bởi vì tất cả đều tương đối trật tự, yên ổn. Nhưng chợt
một cái, mọi thứ khốn kiếp trở nên lỏng lẻo. Đã có rất nhiều người thực hiện sẵn
các kế hoạch đấy, nhưng làm sao có thể đương đầu chuyện di tản một số lượng
người rất lớn lao trong một thời gian ngắn ngủi, với mười bảy sư đoàn địch đang
xiết chặt vào? Làm thế nào dự liệu hết những chuyện kẹt đường trong thành phố?
Vâng, người ta đã cố gắng hết sức những gì có thể. Họ đã dự liệu kế hoạch cho
trực thăng quân đội hoặc trực thăng Air America bốc người từ nóc thượng, nhét
người vào những chuyến xe buýt càng đông càng tốt để có thể rút bớt việc nghẽn
xe trên đường phố. Nhưng ông cũng hiểu, tôi chắc chắn nếu người ta có tới Hoa
Thịnh Đốn vác mấy cuốn cẩm nang phòng vệ dân sự ra xem, thì trong trường hợp bị
tấn công nguyên tử, có lẽ người ta cũng chỉ viết mấy chuyện như tài xế xe buýt
phải có trách nhiệm chở người ra khỏi thành phố, vân vân.
Đấy, các kế hoạch thường vẫn thiếu phù hợp với thực tế như
thế.
Và nhiều kế hoạch cũng đã được viết từ trước bởi những người
không thể thấu hiểu hết mọi chuyện có thể xảy ra. Cho nên, chỉ đến khi các cậu
bé bự bắt đầu bước vào tỉnh, nhìn thấy tận mắt những gì cần thiết thì kế hoạch
thật sự mới được làm ra. Như khi họ bảo cần phải có một số hệ thống máy truyền
tin cụ thể nào đó, họ có thể nêu ra đủ thứ vấn đề then chốt mà có lẽ họ phải đối
đầu, nhưng thật ra, ngay cả đến mức ấy, cuối cùng cũng chỉ là những dự liệu tạm.
Đúng như vậy, ông hiểu không? Người ta đã chất đủ trực thăng lên chiến hạm, đã
đưa đủ chiến hạm đến biển Nam Hải, đã có đủ Thủy Quân Lục Chiến, đã có đủ các
máy móc truyền tin, nhưng cho đến khi bắt đầu vào việc thì cuối cùng cũng phải
giơ tay lên mà la ó và ra thủ hiệu thôi.
Trong thời gian di tản, tôi đã nói chuyện với tướng Carey ở
ngoài chiến hạm Blue Ridge qua điện đài của Trưởng toán trực thăng. Mỗi khi
chuồn chuồn bay vào, tôi thường chạy đến, người trưởng toán thường trao máy để
tôi nóỉ chuyện vối ông tướng ngoài chiến hạm.
Bấy giờ trong suốt thời kỳ dự liệu kế hoạch, người ta đã bàn
thảo về việc có hai chuyến CH-6 sẽ bốc người trên sân thượng để dành cho đại sứ
và nhóm người cuối cùng. Cách người ta tính toán lúc ấy là cứ hai mươi người một
chuồn chuồn. Như thế tức là chúng tôi chỉ tính bốc đi có lẽ từ hai mươi đến bốn
mươi người ra từ tòa Đại sứ. Còn tất cả những người khác thuộc Tòa Đại sứ và ở
trong thành phố sẽ được chở xe ra Tân Sơn Nhất. Rồi một lúc thuận tiện nào đó,
sau khi mọi việc xong xuôi, Đại sứ sẽ ra đi.
Trong những ngày cuối tháng Tư ấy, chúng tôi làm việc 24 giờ
mỗi ngày. Tôi dàn xếp với Trưởng xạ thủ, Trung sĩ J.J. Valdez, là phải giữ lính
Thủy quân lục chiến không có nhiệm vụ ở lại Tòa Đại sứ chứ không cho về trại
nữa. Lính tráng lễ mễ khiêng đồ đạc vật dụng vào ngay Tòa Đại sứ, ngủ trên ghế
bố trong cao ốc bên cạnh hồ tắm. Chúng tôi tiên liệu tình thế sẽ xấu hơn.
Ngày một ngày hai, chúng tôi đều phải họp bàn xem phải hành
động thế nào trong trường hợp đóng cao ốc, liệu có nên mang người vào trong và
để cho những người khác ở ngoài không. Rồi làm thế nào chúng tôi thoát khỏi cao
ốc, những chi tiết đại loại như thế. Bây giờ việc giữ an ninh cho văn phòng Tùy
viên Quân sự ở Tân Sơn Nhất được phụ trách bởi một số người trong Bộ binh, Không
quân và một số người khác – Vâng, trong tuần ấy họ đã cho biết là họ cần thêm
người phụ giúp, những người thuộc loại bảo vệ an ninh đã được huấn luyện đàng
hoàng. Họ yêu cầu chuyện ấy với Phó Đại sứ Wolf Lehman. Đầu tiên, tôi bảo Valdez
đến từ chối không gửi được. Nhưng sau, có vẻ như họ thực sự rất cần người, nên
tôi tự mình lên gặp Lehman, trình bày việc ấy không phải là ý kiến tốt. Nhưng
Phó Đại sứ Lehman khẳng định phải gửi. Tôi nhớ ông ấy bảo phải đưa 16 Thủy quân
Lục chiến đến canh phòng vòng rào Văn phòng Tùy viên Quân sự. Vì thế, tôi điện
thoại đến văn phòng, nói chuyện với một Đại tá và một Thiếu tá Thủy quân Lục
chiến đã ở ngoài ấy. Tôi bảo họ: “Nếu tôi gửi bọn nhỏ đến, quý vị chăm sóc chúng
được chớ? Quý vị chắc chắn hộ là khi trực thăng bay đi thì đừng quên mấy thằng
nhỏ nhá! Lỡ có gì bọn này chẳng thể vọt qua tỉnh mà lo cho mấy thằng con đâu.
Bọn này phải có dự liệu trước mọi chuyện chu tất vậy thôi”.
Họ nói sẽ lo liệu cho mấy thằng nhỏ tôi gửi đến. Thế là với
lệnh của Phó Đại sứ Lehman, tôi gửi đi một Trung sĩ xạ thủ tên Martin và mười
lăm Thủy quân Lục chiến trẻ tuổi khác. Chúng tôi chọn đám này vì tương đối họ
mới đến đơn vị, họ cũng không thắc mắc gì khi được gửi sang bên ấy. Họ cũng hiểu
là có lẽ họ sẽ đi thẳng từ bên ấy. Hạ sĩ Darwin Judge và Hạ sĩ Charles Mc Mahon
có mặt trong toán này. Judge và McMahon hai cậu cai mới tinh. Họ mới trình diện,
chưa hề bỏ một tuần canh nào tại Tòa Đại sứ, vì thế đó cũng là lý do để xếp họ
vào toán đi canh văn phòng Tùy viên Quân sự.
Bấy giờ là sáng 29 tháng Tư, sau bốn giờ sáng một chút, quân
đội Bắc Việt di chuyển đến, bắt đầu pháo Tân Sơn Nhất, vài quả rốc kết rơi ngay
doanh trại văn phòng Tùy viên Quân sự. Rồi tôi nhận tin có một số thiệt hại xảy
ra cho lính Thủy quân Lục chiến. Tôi hãy còn nhớ cú điện thoại ấy. Chúng tôi
dùng hệ thống điện thoại thường của Saigon gọi đi gọi lại để lấy tin. Tôi nói
chuyện với một sĩ quan Thủy quân Lục chiến, với một Đại tá Bộ binh, rồi với đủ
mọi người mà tôi có thể bắt được đường dây- Họ cho biết hai thằng nhỏ của tôi đã
bị giết – Judge và Mc Mahon. Chết ngay tức khắc vì một cú bắn trực tiếp. Họ đang
ra ngoài kiếm thi thể xem còn lại gì chăng. Chẳng gì sót lại. Một mẩu chân cụt
đã cháy, dăm miếng thịt còn rơi vãi. Họ nhét tất cả vào bao. Mấy cái bao được
ghi chú rõ rồi bỏ lên xe cứu thương chạy vào bệnh viện Cơ Đốc. Đấy là những thủ
tục tiêu chuẩn phải thực hiện trước khi chết. Mọi thứ được thực hiện đúng sách
vở. Tin tức sẽ chuyển sang Mỹ, gia đình họ sẽ được thông báo và không có gì lầm
lẫn trong các bản báo cáo nữa.
Tôi định gọi cho sĩ quan khác phụ trách, những người chứng
kiến nội vụ để yêu cầu giải thích lý do xảy ra, bởi tôi chẳng cách gì có thể rời
tòa Đại sứ ra tận nơi xem xét được. Nam Việt Nam đã di chuyển một số máy bay từ
phi trường Biên Hòa đến Tân Sơn Nhất. Tất nhiên, những máy bay ấy đã trở thành
mục tiêu của Bắc Việt khi họ đến. Sau khi đã dựng dàn pháo ở khu vực Biên Hòa,
và đã tiến đến gần như thế, họ bắt đầu bắn vào các máy bay ở Tân Sơn Nhất. Doanh
trại Tùy viên Quân Sự nằm ngay trên đường bắn. Chỉ cần một sai chạy nào đó trên
đạn đạo, nếu rơi gần là đạn trúng ngay xuống doanh trại Tùy viên Quân sự thôi.
Tôi thành thật nghĩ quân Bắc Việt không có ý định bắn Văn phòng Tùy Viên Quân
sự. Họ chỉ bắn máy bay Nam Việt nam mà xảy ra chuyện ấy.
Trách nhiệm của tôi là giúp trực thăng hạ cánh. Tôi đã quan
sát một vài địa điểm bên ngoài bờ tường Tòa Đại sứ, và đã ghi chú những địa điểm
ấy. Còn bên trong sân Tòa Đại sứ, tôi đi đến kết luận là phải hạ bỏ cái cây lớn
cản lối thì trực thăng mới xuống được. Nhưng Đại sứ Martin đến nói riêng với tôi
là nếu tôi chỉ chạm một ngón tay lên cái cây ấy, thì tôi sẽ có chuyện lôi thôi
với ông ngay. Cái cây đã trở thành một biểu tượng. Đã có khối chuyện tiếu lâm về
cái cây này, tôi xin nói cho ông biết.
Đã có lần, có người khoanh dây thừng chung quanh gốc cây, họ
buộc vào đấy một cái rìu và một tấm bảng nhỏ. Họ đề là: “Bực bội quá hả? Thử bửa
một nhát coi!”. Vâng, tôi đã để mắt đến cái cây ấy vì chừng nào nó còn đứng đấy,
trực thăng không thể đáp xuống an toàn. Tôi không nhớ đích xác giờ nào người ta
quyết định cho chặt. Bấy giờ, sau buổi trưa, có lẽ khoảng trước ba giờ, cuối
cùng Martin đồng ý. Ông ta bảo: “Thôi được, làm đi, hạ cái cây xuống!”. Thế là
mọi người xúm vào rất mau. Cả bọn gồm an ninh tòa Đại sứ, lính Hải quân Tạo tác,
Thủy quân Lục chiến, ngay cả mấy tay nhà báo úc Đại Lợi, Tân Tây Lan cũng xúm
vào. Sau khi cái cây khốn nạn được hạ, bưng vác quét dọn xong xuôi, tôi bèn bảo
Thủy quân Lục chiến và Hải quân tạo tác chạy ra ngoài kiếm một mớ sơn phát
quang. Tôi muốn vẽ một chữ H thật to. Mọi chuyện đã được thực hiện xong trước 5
giờ chiều hôm ấy.
Tôi biết thời gian gấp rút. Nhưng tôi hãy còn cảm thấy bình
tĩnh. Tôi trấn an Đại sứ về việc sau rốt chúng ta cũng phải điều chỉnh lại lịch
trình của trực thăng từ văn phòng Tùy viên Quân sự sang bốc người bên tòa Đại
sứ, vì chẳng thế nào chỉ sử dụng chỗ đậu xe trên nóc thượng mà thôi. Cần phải có
trực thăng lớn để chuyển người đi.
Vâng, chỉ một chặp sau khi chuồn chuồn lớn bay vào Tân Sơn
Nhất, tôi điện thoại cho Đại tá A.M. Gray, người phụ trách ngoài ấy, để ông biết
chúng tôi đang gặp khó khăn trong việc đương đầu với đám đông. Ông đồng ý gửi
thêm Thủy quân lục chiến cho tôi. Tôi nghĩ là có chừng một trăm cậu lính trẻ từ
Biệt đội đổ bộ 2/4 của Đại tá George Slade được phái đến tăng cường Tòa Đại sứ.
Từ sau vụ pháo đêm 28, phía Nam Việt Nam ban hành lệnh giới
nghiêm ban đêm. Một nỗi sợ hãi đang bành trướng, từ từ trở thành hỗn loạn. Người
Việt tụ tập phía ngoài Tòa Đại sứ. Tôi bắt đầu lo ngại thực tình. Đến trưa ngày
29, tôi phỏng định có khoảng mười ngàn người bu quanh phía ngoài tòa Đại sứ, và
chúng tôi chỉ có chừng 160 lính canh Thủy quân Lục chiến để giữ an ninh khu vực.
Không đủ Thủy quân Lục chiến để canh mấy bức tường giữ cho người ta đừng leo vào
trong Tòa Đại sứ. Mấy bức tường có vẻ khá chắc chắn, nhưng một khi họ quyết tâm
tràn vào, chỉ có Trời mới gạt họ được. Chúng tôi đặt người trên bờ tường để mong
bảo đảm là người bên ngoài không nhảy qua, hoặc leo qua được. Ngoài ra, làm sao
biết rõ những bên ngoài là ai? Chúng tôi, và nói chung lính Thủy quân lục chiến
đều biết những người bên ngoài đơn thuần chỉ là những người Việt Nam muốn đi Mỹ.
Nhưng trong đám đó, cũng có những tay phá rối, có thể có cả những đội ám sát,
những tên mang theo khí cụ phá hoại, những thứ như thế. Chúng tôi đã nhận được
lời báo động từ phía quân đội Nam Việt nam thông qua Trung ương tình báo suốt
buổi trưa hôm ấy.
Đại sứ muốn lái chiếc xe của ông ra ngoài cổng để đi vòng về
phía tư thất. Ông yêu cầu tôi cho mở cổng (Khúc này đã được một nhóm phóng viên
làm tin đứng thu hình hết mọi chuyện). Tôi trả lời: “Vâng, thưa Đại sứ, tôi sẽ
cố gắng”. Thế là Trung sĩ xạ thủ Schlager, cùng với vài cậu Thủy quân lục chiến
và tôi mở cánh cổng ra. Nhưng chẳng có cách trời trăng gì mà mở cho nổi. Tôi
quay lại bảo ông: “Thưa Đại sứ, với tất cả sự kính trọng của tôi, chẳng có qủy
thần nào đưa xe ngài ra khỏi đây được. Xin khuyên Ngài trở lên lầu thì hơn”. Đến
phút ấy. Đại sứ nổi đoá. Ông bước ra khỏi xe, mặt xám ngoét. Ông đóng sầm cánh
cửa lại, bước đi. Tôi bảo Valdez: “Sau vụ này tao tuột xuống binh nhất là cái
chắc”. Nhưng trưa hôm đó, Đại sứ Martin đến tìm tôi. Khi thấy tôi, ông đặt tay
lên vai mà bảo: “Anh đã làm việc rất đúng đắn”. Ông ta như thế đấy. Bấy giờ
người ta đang chịu nhiều áp lực thực khủng khiếp.
Nhưng Trời hành tôi, vì ông ta vẫn lại đi bộ về nhà cùng với
đám lính cận vệ của ông. Chúng tôi vội tập họp người đi cửa sau vòng qua Tòa Đại
sứ Pháp, ra đường mà đến tư thất ông. Đám Thủy quân Lục chiến vào đến đấy, sử
dụng lựu đạn tiêu hủy tất cả mọi thứ còn lại trong cái két sắt. Trong nhà để xe
hãy còn chiếc Jeep, chúng tôi nổ máy đưa ông chạy từ tư thất về lại Tòa Đại sứ.
Khi ông trở lại, chúng tôi đều biết đã đến lúc ông sắp rời khỏi xứ.
Có một cái cửa hai chiều được dựng ngay trong nhà ăn thuộc khu
giải trí, thông sang Tòa Đại sứ Pháp. Tôi giữ kế hoạch nguyên thủy của Đại sứ
Martin là sẽ vào trong ấy để nếu có chuyện gì xảy ra, ông sẽ đợi đấy mà trình ủy
nhiệm thư. Tôi nghĩ ông đã dự định ở lại, nhưng rồi kế hoạch được thay đổi sau
những giờ phút trôi qua.
Suốt buổi trưa, buổi chiều tối hôm ấy, chúng tôi biết có một
người chúng tôi cần phải đưa đi nhưng hãy còn kẹt trong đám đông ở phía ngoài.
Tuy nhiên, chúng tôi không thể mở cổng được. Cho nên, nếu cần đưa ai vào, chúng
tôi cho người leo lên tường, thòng tay xuống kéo lên. Thôi thì nắm cổ áo, nắm
tóc, giật lên giật xuống thật là khổ. Bọn Thủy quân Lục chiến kéo người như
khiêng thịt. Một tình trạng tuyệt đối hỗn loạn. Suốt buổi trưa hôm ấy tôi đã
được nghe nhiều chuyện xảy ra suốt dọc bờ tường. Những chuyện thật kỳ lạ. Nhiều
chuyện thật đáng buồn. Một cậu Thủy quân Lục chiến đã được người ta dúi vào tay
cả một bao giấy đựng đầy ngọc quý chưa cắt. Hắn trả lại, bao ấy là của một
thương gia giàu có người Tàu muốn được đưa cả gia đình ra khỏi nước trước khi
quá muộn.
Mấy cánh cổng chúng tôi đã cho xiềng khóa chặt. Chúng tôi đặt
Thủy quân Lục chiến đứng canh. Bất cứ trường hợp nào cũng không mở cổng, bởi vì
người ta đè vào. Một khi cánh cổng hé ra, nó sẽ bung, người sẽ như nước lũ tuôn,
không cách chi chặn được.
Suốt thời gian ấy tôi luôn luôn ý thức cao độ và chính xác tất
cả những gì chúng tôi đang làm. Chúng tôi đang tháo chạy. Tất nhiên cũng có
nhiều cậu Thủy quân Lục chiến trẻ người non dạ hãy còn nhìn cách khác. Theo cách
quan tâm của họ, người Mỹ hãy còn đang tham dự vào cuộc chiến. Thế đấy, có lẽ
cũng có khá nhiều người khác cảm thấy như thế, nhưng thật ra, một cách chính
thức thì từ 1973, chúng ta đã phủi tay xong xuôi. Bây giờ là lúc chúng ta ra đi
thôi. Và nếu phải đi thì có lẽ đây là cách duy nhất để chúng tôi ra đi được.
Phải đi với cái cách ấy, hoặc cứ ở lại tái tục cả một trận chiến khốn nạn lần
nữa. Rồi rõ rệt quân Bắc Việt đang nhịp chân bước vào. Tôi muốn nói, quỷ thần ạ,
họ có đến tất cả 17 Sư đoàn tiến vào Saigon. Mười bảy sư đoàn cả thảy! Nhưng tôi
nghĩ, mặc dầu vậy, cái lối quân Bấc Việt kéo đến bao quanh thành phố, là cái lối
họ mời chúng tôi ra đi cho. Hiển nhiên họ đã mở một hành lang để trực thăng bay
vào bay ra mà không hề có một hành vi thù địch. Họ không muốn lộn xộn gì với
người Mỹ. Điều ấy thực rõ rệt. Tuy vậy, hiển nhiên vẫn có một sự kiện nguy hiểm
là bất kỳ lúc nào nếu có sự tiếp giáp của những đơn vị nhỏ, chẳng ai có thể kiểm
soát hết mọi chuyện cho được. Nếu bất cứ lúc nào họ khai hỏa bắn lính Mỹ, người
ta sẽ lại phải chơi toàn bộ một trận mới nữa. Như thế chúng ta cũng phải quay về
lại với chiến tranh thôi.
Tất nhiên, đệ thất hạm đội cũng đã có sẵn 9,000 lính Thủy quân
Lục chiến liên tục đặt trong tình trạng báo động từ 48 giờ qua. Họ được đặt sẵn
trên tàu và được trang bị đủ thứ vũ khí đầy ắp đến tận răng.
Buổi trưa hôm ấy chuồn chuồn gặp khó khi tiến vào bãi đậu. Sự
việc không người nào bị thương tích gì quả đã là một bản tuyên dương nghề nghiệp
cho những tay đi bay. Họ tỏ ra tuyệt vời. Họ đã bị bắn sẻ bởi những bọn hôi của,
những bọn có vũ khí ăn cắp mà chúng tôi gọi là bọn cao bồi. Trong lúc tranh tối
tranh sáng người ta có thể nhìn thấy những vạch đạn bắn lên, và những khi như
thế tôi gọi cho các phi công trực thăng đang tiến vào mà bảo: “Chúng nó đang bắn
bạn” thì họ đáp: “Biết rồi! Biết rồi!”. Vài chiếc trực thăng bị những lỗ đạn,
nhưng chả làm gì được. Nếu những bọn cao bồi ở trên những cao ốc bên kia mặt
đường tòa Đại sứ, và chúng tôi thấy được tia lửa tóa ra từ khu ấy, thì chúng tôi
chỉ có cách gọi cảnh sát Việt Nam lên thử dẹp đám khốn nạn bắn bừa ấy thôi.
Các phi công trực thăng cũng gặp nhiều vấn đề nghiêm trọng. Họ
chỉ có khoảng 70 bộ Anh theo chiều thẳng đứng để hạ xuống tòa Đại sứ. Họ phải
lượn đến, bay lởn vởn rồi hạ 70 bộ xuống cái lỗ này, và bề rộng không được bao
nhiêu. Lỡ mất một cái trực thăng là hỏng hết, tin tôi đi.
Sức chở bao nhiêu là họ phải nhồi người vào trong chiếc chuồn
chuồn bấy nhiêu. Sau đó họ phải tìm cách bay thẳng đứng, thay vì theo phương
thức “chuyển động tịnh tiến” nghĩa là cho chuồn chuồn bốc khỏi mặt đất rồi liệng
về phía trước. Không đủ chỗ làm chuyển động tịnh tiến. Đúng y chang là họ phải
bốc thẳng lên khỏi 70 bộ Anh. Tôi còn nhớ rõ một chiếc trực thăng mà tay phóng
viên Ken Kashiwahara của hãng ABC đã leo lên. Quỷ thần ạ, cái trực thăng cố bốc
mà bốc hết nổi. Họ phải thả bớt người xuống, lại cố bay lên, vẫn không xong. Lại
gạt thêm người xuống nữa. Cuối cùng gạt đủ số mới bay lên được. Chúng tôi bảo
cha phi công: “Vác bố nó cái trực thăng khặc khừ chó đẻ này cất đi cho được
việc!”.
Trong lúc cuộc di tản diễn ra, tôi cũng đã nghe chuyện các
tướng lãnh và sĩ quan cao cấp của quân đội Việt nam bỏ chạy. Tuy nhiên, đích mắt
tôi không thấy ai. Lính Thủy quân Lục chiến điện thoại bảo tôi họ thấy một người
Việt cao cấp nhảy vào chiếc C-141 ở Tân Sơn Nhất, thắt giây lưng lại mà đi.
Trong tình trạng rối loạn ấy cũng chẳng có gì bất thường khi chứng kiến những
người bỏ hàng ngũ chạy. Nhưng chúng tôi biết nhiệm vụ chúng tôi cũng giống nhiệm
vụ của người lính cứu hoả. Chúng tôi phải ở lại cho đến phút chung cuộc cay
đắng. Chúng tôi phải ở lại và phải chứng kiến cảnh tượng đầy những người đang
trốn trước chúng tôi.
Với bao con người, với những chiếc chuồn chuồn túi bụi bay vào
bay ra, lúc ấy thực ồn ào hết sức. Tất nhiên rất mất trật tự. Có lẽ, tôi có thể
nói nó kém trật tự so với các phi trường ở New York, nhưng hãy còn trật tự hơn
một trận tranh giải túc cầu ở Peru.
Suốt buổi trưa và buổi tối hôm ấy, người ta mặc nhiên xem như
tất cả mọi người trong phạm vi tòa Đại sứ sẽ được ra đi, mặc dầu điều ấy không
bao giờ được loan báo cả. Tôi không nghĩ là có sự loan báo chính thức nào về
chuyện ấy. Nhưng ông biết, bền bỉ như các phi công Thủy quân Lục chiến rồi cũng
chẳng bay mãi được. Đôi lúc họ hết xăng. Đôi lúc họ cũng phải nghỉ ngơi, ngủ
nghê. Tuy nhiên, chúng tôi cần phải tin rằng tất cả mọi người sẽ được ra đi.
Điều tin tưởng ấy làm cho nơi này tương đối êm ả.
Nhưng lúc nào mà chẳng có cái nguy cơ của sự hỗn loạn. Dĩ
nhiên, luôn luôn có những kẻ nóng nảy khùng điên. Và mỗi khi trực thăng đến,
chúng tôi đều nhét người vào càng nhiều càng tốt, rồi đếm xem số còn lại bao
nhiêu. Những người còn lại luôn luôn tỏ ra bồn chồn lo lắng. Nhưng chúng tôi vẫn
tiếp tục tập trung vào công việc. Với sự làm việc, chúng tôi đã rút bớt mối nguy
cơ hỗn loạn xuống mức tối thiểu.
Công việc tôi lúc ấy là phải lo kiểm soát truyền thông. Tôi có
một máy truyền tin xách tay của Thủy quân Lục chiến, nhờ đó có thể liên lạc được
với tất cả các Thủy quân Lục chiến khác. Tôi phải lo bãi đậu trên nóc thượng Tòa
Đại sứ. Tôi phải hướng dẫn chuồn chuồn ra vào. Các phi công cần định điểm chỗ
tôi đứng, để tôi hướng dẫn họ vào. Tôi có thể nhìn tất cả mọi chuyện diễn ra
trên nóc thượng và từ trên ấy tôi có thể thấy hết mọi bờ tường. Tôi cần phải
đóng vai trung tâm, luôn luôn hiện diện cho mọi người thấy để đôn đốc công việc.
Tôi bận bịu như thế suốt đêm ngày cho đến nỗi mắt cá chân sưng phồng, đi không
nổi.
Mỗi lần cần chỉ thị của Đại sứ Marrtin, tôi lại phải tự mình
chạy kiếm ông già. Có lúc ban đêm, tôi chạy quanh, khi thì leo bực thang, khi
thì đi thang máy để kiếm ông già hỏi xem kế hoạch thế nào. Có lúc lên tuốt nóc
thượng, đeo máy truyền tin nói chuyện với chiến hạm, rồi lại ba chân bốn cẳng
chạy xuống. Lúc nào cũng bận bịu chạy lên chạy xuống như thế. Một lần tôi và
Valdez vừa bước vào thang máy thì ông già – Đại sứ Martin – đã đứng trong ấy với
Polgar, viên Trưởng nhiệm sở Trung ương Tinh báo. Polgar đã tuyên bố vớ vẩn gì
đó, ông già Martin biết được và không bằng lòng. Tôi còn nhớ lúc ấy Martin rõ
rệt đang hết sức giận dữ. Martin bảo anh ta: “Nếu tôi còn nghe anh nói bất cứ
chuyện gì như thế thì anh sẽ được xuống Nam cực làm việc cho đến mãn đời!”. Suốt
lúc ấy Valdez và tôi đã cố thu mình cho họ khỏi trông thấy.
Lúc ấy Martin trông rất mãnh liệt. Nhưng xin nhớ đã bảy mươi
tiếng đồng hồ qua hoặc hơn nữa, ông chỉ được nghỉ ngơi rất ít. Và ông cũng không
còn là một thanh niên trai tráng.
Đêm buông xuống. Đám người trong sân tòa Đại sứ vẫn đông đầy.
Tôi nhận ra rằng cần có đèn, nhưng mấy cột đèn trong tòa Đại sứ không sáng nữa.
Vì thế chúng tôi bèn mang những chiếc xe hơi trong Tòa Đại sứ ra sắp thành vòng
bán nguyệt. Chúng tôi xem xét lại xăng trong xe, mở máy nổ, cho để đèn sáng. Sau
đó chúng tôi gọi phi công trực thăng khi họ bay vào để soát lại cho chắc: “Các
bạn có thấy rõ không”. Họ đáp “Thấy”. Nhưng đêm khuya hôm ấy, tình trạng trở nên
rất căng. Chúng tôi hiểu bắt buộc phải đặt một giới hạn cho con số người đi. Thế
là chúng tôi chạy quanh để đếm người xem ai được đi, ai phải ở lại. Việc ấy thực
nhẫn tâm.
Vấn đề luôn luôn có kẽ hở. Chẳng cách nào Martin có thể định
được chính xác số người. Tôi nghĩ có lẽ sẽ đưa đi được khỏi tòa Đại sứ 2,500
người là dứt. Nhưng đêm hôm ấy, bất cứ lúc nào số người trong sân tòa Đại sứ
cũng có vẻ y như cũ, không hề suy suyển gì.
Trước đấy vào buổi chiều có lúc các chuyến bay đã tạm ngưng,
người ta quyết định chuồn chuồn không bay sau 5 giờ. Nhưng rồi lại đổi, người ta
quyết định sau trời tối, vẫn cứ bay. Rồi lại phải quyết định: Bay bao nhiêu lâu
sau khi trời tối? Sau này, người ta cho tôi biết: Tướng Lou Wilson, người sẽ trở
thành Tư lệnh Thủy quân Lục chiến, lúc bấy giờ đang là Tướng chỉ huy Thủy quân
Lục chiến thuộc Hạm đội Thái Bình Dương, đã ra lệnh chuồn chuồn tiếp tục bay đến
khi nào bốc hết người trong tòa Đại sứ và tại văn phòng Tùy viên Quân sự mới
thôi.
Họ tiếp tục bay. Nhưng lại có vụ tạm ngưng lần thứ hai. Lần
này là lần chúng tôi được tin đích thân Tổng thống Hiệp chủng Quốc Hoa Kỳ ra
lệnh: Chỉ 20 chuyến nữa là phải chấm dứt. Hết.
Và rồi mọi sự đã xảy ra như thế này: Một cậu hạ sĩ quan đứng
trên nóc sân thượng với khẩu súng máy đã gọi cho tôi. Hắn bảo: “Chuồn chuồn của
Đại sứ đã đến rồi”. Tôi trả lời: “Hãy khoan, cần có thêm chỉ thị đã”.
Chiếc trực thăng đã vào khu vực để đợi Đại sứ Martin và đoàn
tùy tùng ra đi. Chiếc trực thăng này được chỉ thị cụ thể là chỉ có nhiệm vụ đón
Đại sứ. Ông Đại sứ chưa có mặt trên chỗ đáp. Tôi đến lấy chiếc điện đài của
trưởng toán phi hành, gọi thẳng cho tướng Carey. Tướng Carey bảo Tổng thống Hoa
Kỳ đã chỉ thị là Đại sứ phải đi ngay bây giờ. “Và những chuyến bay sau đó chỉ
được dành cho….” tôi hãy còn nhớ câu nói này, vì lúc đó với tôi, nghe có vẻ thực
khôi hài… “Các nhân viên Thủy, Bộ Hoa Kỳ mà thôi”. Tướng Carey lập lại với tôi
những khẩu lệnh của thượng cấp như thế. Tôi giải thích với tướng Carey tình
trạng bây giờ của tôi như sau: “Lính của tôi đang ở trên bờ tường. Giữa bờ tường
và cánh cửa tòa nhà Đại sứ là khoảng bốn trăm người đang đợi di tản…” Tôi không
nhớ chính xác từng chữ, nhưng tôi đã nói rất cẩn thận “Tôi mong Ngài hiểu rõ khi
rút lính Thủy quân Lục chiến vào tòa nhà Đại sứ, tức là những người ấy sẽ bị bỏ
lại”. Tôi muốn chuyện ấy phải được hiểu thật rõ và tôi không muốn trở thành
người gánh chịu trách nhiệm về việc bỏ những con người ấy lại. Tôi đã sửa soạn
mang họ đi, và tôi hiểu lệnh của ông ta là không bao gồm những con người này.
Tôi biết lời điện đàm của tôi đang được phóng thanh trên mấy cái loa tại phòng
chiến sự, như thế những nhân vật chỉ huy của chiến hạm U.S.S Blue Ridge đều được
nghe thấy rõ. Tướng Carey hiểu thế.
Ông lập lại lệnh một lần nữa: “Tôi muốn anh hiểu rõ: Đây là
chỉ thị của Tổng thống Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ”.
Tôi đáp: “Thưa Ngài, vâng”.
Trong lúc Đại sứ đang đợi, tôi cho một cậu hạ sĩ trẻ ôm súng
máy đứng canh chiếc trực thăng.
Tôi bảo hắn là tôi không muốn chiếc chuồn chuồn này bay đi cho
đến khi nào chuyện này được giải quyết xong. Rồi tôi đến trình với nhóm tùy tùng
của Đại sứ biết về các chỉ thị tôi nhận được. Chính đây là lúc mà Ken Moorefield
đã nói với ông Đại sứ một câu lịch sử: “Đã đến lúc phải ra đi!”.
Đại sứ Martin nhìn về phía tôi một lát. Ông không nói một lời.
Không biểu lộ một xúc cảm nào. Trông ông mệt mỏi. Ông biết giây phút buồn bã này
trước sau cũng đến. Chợt nó đến.
Ông lên sân thượng, bước vào chiếc trực thăng, rời Việt Nam.
Ông mang theo bên ông lá cờ Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ.
Tôi rời văn phòng, xuống nhà. Đại tá Bộ binh John Madison, tùy
viên Ủy Ban Liên Hợp Quân sự bước đến phía tôi. Tôi bảo ông không còn chuyến bay
nào cho thường dân nữa, và đã đến giờ phải đi. Lúc ấy vụ cãi cọ xảy ra. Đại tá
Madison muốn đưa tất cả các thường dân đi. Tôi bảo ông không còn cách gì. Ông
bảo ông từ chối không đi, trừ phi chúng tôi mang hết 400 người ấy đi. Tôi bảo
ông là tôi có chỉ thị của tôi. Tôi nói xin cứ ra ngoài tàu rồi giải quyết chuyện
này, còn bây giờ là lúc phải đi thôi. Trong lúc đang cãi cọ như thế thì nhân vật
số hai của Đại tá Madison bước đến dòm ngó chiếc trực thăng. Ông ta muốn chắc
chắn là sẽ có chỗ trên chuyến bay ra. Đại tá Madison trừng trừng nhìn tôi với vẻ
mặt mất tinh thần. Ông không biết làm gì nữa. Ông giơ hai tay trên trời, quay
lưng bước đi. Trong số 400 người bị bỏ lại sân tòa Đại sứ, có rất nhiều người
tốt. Cho đến nay, tôi vẫn còn cảm thấy áy náy về chuyện ấy.
Bên phía khu giải trí, qua bên kia bức tường, cạnh hồ tắm có
một quầy rượu. Mấy ông ngoại giao Nam Hàn đã phóc vào trong ấy. Họ uống hơi quá
chén một chút. Anh nào anh nấy lăn ra ngủ khò. Khi tỉnh dậy, cuộc di tản sẽ dứt
điểm. Cho nên khi hơi men đã hết, chắc chắn một tràng tiếng Cao Ly sẽ được xổ
ra, nó sẽ có nghĩa là: “Đ…đ…đù mẹ! Mấy cái trực thăng bỏ mình lại đây mà bay mất
tiêu rồi!”
Trong lúc di tản cũng có nhiều người khác uống rượu. Một số
rất đông đã nhậu, nhưng không say. Trong tòa nhà Đại sứ, trên tầng ba cũng có
một quầy rượu. Rất đông các nhân vật then chốt đã nhậu, mặt đỏ ké. Thế đấy, chỉ
trong vài giờ đồng hồ nữa, cuộc đời họ sẽ rã rời. Nói cho thẳng ra, đó là lý do
vì sao tôi chỉ thích tiếp xúc trực tiếp với Đại sứ Martin. Tôi biết ít nhất là
mặc dầu mệt mỏi, ông vẫn tỉnh táo. Tôi không thích phải nói chuyện với ai ngoài
ông, đặc biệt với mấy cha nhậu nhẹt mặt đỏ nhừ.
Đến gần cuối chiến dịch di tản, tôi rất ngạc nhiên khi thấy
một người đàn bà trong tòa Đại sứ. Tôi thường gọi cô ta một cách thân mến, với
một cái tên: “Hilda, cô vắt sữa”. Bởi vì cô có bộ ngực bự sự, dáng dấp tháo vát,
khỏe mạnh. Đấy là một người đàn bà hết xảy. Tôi nghĩ cô ta là thư ký của một tay
Trung ương tình báo, loại đàn bà có thể giúp sắp xếp công việc ngăn nắp đâu vào
đấy. Thấy lính vất vả, cô xông vào, chẳng cần ai hỏi. Lăng xăng đưa người này
cốc cà phê, hỏi người kia xem có cần gì không. Cô dừng lại bên tôi một lần, làm
tôi thấy dễ chịu. Bởi vì cô nắm cánh tay tôi một lúc và nói: “Anh làm việc dữ
quá, để em lo cho anh một cốc cà phê nhé?” Tôi còn biết trả lời gì nữa ngoài hai
tiếng “Cám ơn”.
Sau khi Đại sứ và tùy tùng đã đi, bây giờ là lúc phải lo cho
tất cả những người Mỹ khác ra đi. Chúng tôi dàn xếp với nhau là sẽ ra tín hiệu ở
bãi đậu xe bằng hỏa châu loại cầm tay. Chúng tôi chuyển khẩu lệnh cho mọi Thủy
quân Lục chiến biết khi tín hiệu ban ra, tất cả đều phải bắt đầu lùi về phía
cửa, lập thành một hình vòng cung bao ngay trước mặt tòa Đại sứ. Dĩ nhiên tất cả
đều hiểu khi lùi khỏi bức tường là người bên ngoài sẽ tràn vào, những người ở
trong sân tất sẽ rối ren hoảng hốt. Hẳn việc ấy sẽ xảy ra vì đám người này bị bỏ
lại, trái với lời chúng tôi đã suốt đêm hứa hẹn với họ.
Thế là tôi cho người đi vào trong những cánh cửa lớn bằng gỗ
lim của tòa Đại sứ. Tôi bảo họ khi Thủy quân Lục chiến lùi về phía họ, họ phải
để mắt canh chừng đám đông. Những người đứng trong cửa phải tiếp tay lôi lính
ngay vào cho nhanh. Tôi sắp đặt để cho càng ít phải sử dụng bạo lực càng tốt.
Mọi sự xảy ra y như vậy. Hỏa châu đốt lên, cuộc rút lui bắt
đầu. Lúc đó chả khác địa ngục vỡ tung. Đám đông bên ngoài biết chuyện đang xảy
đến, họ ý thức được họ đang bị Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ bỏ rơi, họ ào vào một cách
hỗn loạn khủng khiếp.
Một sĩ quan Hải quân tạo tác tiến lên. Anh mặc thường phục,
người ngợm đồ sộ vạm vỡ. Anh vớ được cái đòn gỗ khổng lồ thường để cài cánh
cổng. Anh ta khiêng lên, quài tay quay cái đòn, xoay mòng mòng. Ai vô phúc trúng
một đòn là đo đất tức khắc. Đám đông lui trở lại. Anh ta cứ thế múa tới múa lui.
Lúc ấy ở phía trong, người ta nắm lấy bọn Thủy quân Lục chiến mà kéo tuột vào
rồi.
Tôi đưa tất cả mọi người vào trong nhà được an toàn thì bắt
đầu kéo cái cửa sắt sau cánh cửa gỗ lim lại. Cửa này được điều khiển bằng máy,
nhưng nó tắc nghẽn lưng chừng. Chúng tôi bèn bảo “kệ mẹ nó” rồi chạy lại phía
thang máy.
Chúng tôi bấm hai cái thang máy lên đến từng sáu thì cắt điện
để không ai sử dụng thang máy được nữa. Rồi chúng tôi ùa chạy vào cầu thang lên
từng sáu. Tại từng hai và từng bốn, có hai cánh cửa lưới. Chúng tôi đóng, khóa
chặt lại. Tổng cộng chúng tôi có khoảng sáu mươi người, di chuyển lên từng sáu
với một tác phong trật tự tương đối. Chúng tôi tiến qua cái hành lang dài từ
từng sáu để lên từng thượng. Từ từng thượng lên chỗ đậu trực thăng, có một cái
thang sắt ngắn. Chúng tôi cho đi cứ hai mươi người mỗi chuyến đến khi chỉ còn
mười một người cuối cùng.
Cho đến khi chỉ còn lại mười một người ở sân thượng, chúng tôi
chính là lực lượng cuối cùng của Hoa Kỳ tại Việt Nam.
Tất cả bây giờ đều mệt lử. Đã mười hai giờ đồng hồ không ngủ.
Vài cậu nhỏ ngồi bệt xuống, mắt nhìn mông vào quãng không. Nỗi băn khoăn lo lắng
đến cao độ. Những người khác còn lại trong tòa Đại sứ đang kinh hoảng, tuyệt đối
kinh hoảng. Họ đều muốn ra khỏi nước. Muốn thế, họ phải leo lên mái nhà, mà
chúng tôi lại không cho phép làm chuyện ấy. Với những người còn lại trong tòa
nhà, chúng tôi không có thể phân biệt được ai với ai, và những phiền phức có thể
đến bất cứ lúc nào.
Hãy nhớ đây là những cậu Thủy quân Lục chiến ít tuổi. Ngày
này, giờ này họ sẽ không bao giờ quên được. Nhìn họ, tôi nghĩ: “Trời ạ, mình đến
cái chỗ lộn xộn này từ năm 1966. Còn họ, thực khó cho họ hiểu được tất cả những
điều này có nghiã gì. Một mai đây, chẳng biết họ sẽ nghĩ sao về chuyện này?”
Chiếc trực thăng không đến đón chúng tôi ngay. Và thời gian
trôi qua. Vài cậu nhỏ dựa lưng nghỉ. Rồi trôi vào giấc ngủ.
Ánh sáng bình minh ló dạng .
Chúng tôi đều tò mò muốn nhìn những gì đang xảy ra ở Saigon,
trong ánh sáng của buổi sớm mai chúng tôi nhìn ra thành phố, chúng tôi có thể
thấy bằng chứng của những gì xảy ra ban đêm. Hiển nhiên đã có những vụ cướp bóc
hôi của, rác rưởi vương vãi. Tại một vài khu, lửa đang cháy, khói dâng cuồn
cuộn. Những người không ngủ trong bọn tôi, nằm trên nóc thượng ngắm nhìn. Tôi
không bao giờ được xác nhận vì chẳng có cách gì xác nhận được, nhưng có một đoàn
xe mà tôi đoán là xe của Minh Cồ, tân Tổng thống Nam Việt Nam đã tiến qua ngay
cửa Tòa Đại sứ, có xe Cảnh sát Quốc gia hộ tống. Họ rút súng bắn vào lũ hôi của
để dẹp đường cho Minh tiến đến dinh Tổng thống. Tôi nghĩ ông ta đang tiến đến để
sửa soạn chào đón quân đội Bắc Việt và đầu hàng.
Nằm trên ấy nhìn, chúng tôi cảm thấy khích động. Chúng tôi
đang nhìn lịch sử tạo dựng, và cùng một lúc, chính chúng tôi cũng là một phần
của lịch sử. Tôi còn nhớ việc ấy đã tạo nên một ấn tượng đặc biệt trong trí tôi,
bởi vì chúng tôi chính là những người Mỹ cuối cùng được thấy, được nhìn.
Chúng tôi có thể nhìn thấy ánh lửa loé lên từ họng súng của
quân Bắc Việt ở phía xa. Chúng tôi đã có cơ hội để suy tưởng suốt hai tiếng đồng
hồ. Đó là những gì mà tất cả mười một con người chúng tôi đã làm: suy tưởng.
Chúng tôi nhìn ngược lại các chuyện cũ, chúng tôi nói về những kinh nghiệm đã
trải qua, và chúng tôi nghĩ “Trời ạ, thực lộn xộn”. Chúng tôi nhận thức được
chính mười một con người chúng tôi đây gần như đã đại diện cho việc can thiệp
quân sự cuối cùng của Hoa Kỳ tại Việt Nam.
Vào lúc đó, có người đã bày tỏ nhiều hối tiếc và cay đắng.
Nhưng đây là những người khác, không phải tôi. Đấy không phải là cảm giác của
tôi, bởi lẽ cái tôi cảm thấy là cuối cùng đây chính là chuyện tốt nhất. Và tôi
nghĩ cũng đáng buồn. Tôi nhớ lại cái cảm giác thực rất giống cảm giác của một
người lính cứu hoả sau khi đã suốt đêm cật lực chiến đấu chống ngọn lửa bên
tiếng còi báo động liên hồi, để sau đó chấm dứt với một nỗi sầu muộn sâu xa. Để
thấy sung sướng vô cùng vì ngọn lửa đã tắt. Nhưng nhìn đống tro tàn, vẫn không
thể tránh được cái buồn bã u hoài.
Sau khi nói chuyện trầm lặng với nhau một lúc, tôi đã làm một
chuyện đáng buồn cười. Trên sân thượng, có một đĩa ăng ten bắt qua vệ tinh.
Trong cơn bực bội, tôi bước lại gần. Rút khẩu súng lục 45 ra, tôi trút hết đạn
bắn vào cái đĩa khốn kiếp ấy.
Để ngăn người từ dưới nhà tìm cách đi lên, chúng tôi thả hơi
cay xuống cầu thang. Chúng tôi sợ họ ùa lên, níu lấy chúng tôi mà tuôn vào trực
thăng, nếu họ lên được.
Lúc ấy Steven Bauer đã làm một công việc quan trọng. Hắn là
một hạ sĩ. Người nhỏ thó, hắn chui lọt vào cái lỗ cuối hành lang. Ở mỗi cuối
hành lang có một lối thoát phòng hỏa, một trong những lối đó có cái cửa sổ bằng
kính, bên trong là kim khí. Người ta đã đập cái cửa này để cố chui vào. Tay ôm
vài trái lựu đạn cay, Bauer ngồi canh trong cái lỗ ấy. Hễ có ai thò vào, hắn lại
thả một quả cay để xua ra. Chính hắn đã thủ vai hàng rào cuối cùng cho bọn chúng
tôi.
Nhưng rồi có một cha ở phía ngoài tòa nhà cũng đã cố tìm cách
leo lên mái với chúng tôi. Chúng tôi bèn giáng cho gã một nhát vào đầu. Cú ấy đủ
cho gã tởn. Gã leo đã gần đến từng thượng thì mới có người thấy. Họ bèn ném cái
gì đó không rõ, cú ấy đánh bật hắn té rụng xuống bên cạnh tòa nhà.
Suốt cuối đêm ấy cho đến khi mặt trời mọc, không ai biết chúng
tôi đâu, trừ những người chạy theo. Những người này vào được cầu thang, quanh
quẩn bên mấy chân thang. Những người này chắc chắn không được thoải mái, vì họ
phải kiếm cho ra khăn ướt để bụm mặt mà thở. Trong hành lang sặc sụa hơi cay.
Tôi biết rất rõ chúng tôi còn lại bao nhiêu vũ khí đạn dược để
ngộ lỡ quân Bắc Việt bắt đầu tấn công. Nhưng những ý nghĩ chỉ chạy thoáng qua
đầu. Tôi không mất thì giờ nghĩ nhiều về việc ấy, vì lúc nào cũng phải bận rộn
đối đầu với những việc xảy ra trước mắt.
Nhưng tôi muốn nhấn mạnh một sự kiện mà tôi cảm thấy rõ ràng:
Quân đội Bắc Việt đã làm tất cả những gì có thể để cho phép chúng tôi đi quách
khỏi nơi này trong vòng yên ổn trật tự. Và mối quan tâm của tôi bấy giờ không
phải là lo bị quân Bắc Việt bắn, mà là lo phải chiến đấu để khỏi bị cầm tù. Mối
quan tâm đó là: Trên phương diện kỹ thuật, đây chẳng là còn cuộc chiến tranh của
chúng tôi nữa.
Chúng tôi ngồi chụm với nhau. Hình như Bobby Frain thì phải,
moi ra một chai rượu. Chúng tôi chuyền tay nhau. Chúng tôi lặng lẽ chờ trực
thăng đến.
Đúng trước 8 giờ sáng, tôi thấy chiếc trực thăng bay vào. Tôi
nhận thấy nó tiến đến từ xa. Một chiếc CH 46 không hộ tống, từ phía đông mặt
trời mọc, nó tiến đến đón chúng tôi. Tôi thấy nó trước khi nghe thấy tiếng. Tôi
bảo mọi người sẵn sàng.
Cuối cùng, chiếc trực thăng đáp xuống, đúng vào lúc 7 giờ 58
hoặc 7 giờ 59 phút sáng. Chúng tôi lên trực thăng. Tôi nghĩ, một vài người trong
bọn ý thức được rằng đây là giây phút cuối cùng. Giây phút của lịch sử. Chúng
tôi chính là những người lính Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam. Thoạt tiên, mọi
người đều chạy đến trực thăng. Rồi trên sân thượng chỉ còn lại ba người: Bauer,
Valdez và tôi. Bauer ngồi xa nhất nên anh ta là người sau chót đến bên trực
thăng. Nhưng theo tôi nhớ, Valdez đã dừng lại ở đuôi trực thăng để bấm một tấm
ảnh. Thật ra, tôi nhớ hắn đã bấm đến 2 tấm ảnh rất nhanh khi mọi người leo vào
trực thăng. Tất cả chúng tôi đều mừng rơn vì được đón đi.
Trong lúc phi công chuẩn bị bốc, chúng tôi bị một luồng hơi
lựu đạn cay. Anh phi công cũng bị dính. Bọn tôi không ai có mặt nạ chống hơi
độc. Luồng hơi cay thoảng lên từ cầu thang, lọt vào trực thăng. Nhưng bây giờ
anh phi công cũng bất kể. Chỉ mong đi nhanh cho thoát khỏi chỗ ấy thôi.
Khi vào trực thăng, ai nấy đều im lặng, mừng được ra đi. Không
ai mở miệng nói gì suốt một lúc. Nhưng rồi cậu Trung sĩ Bobby Frain tìm được một
cái máy truyền tin PRC-25 lăn trên sàn. Hắn lượm cái máy làm bộ vặn máy. Hắn
diễn xuất hệt như đang nói chuyện với người trong máy. Cả bọn chúng tôi ngồi
yên, ai nấy đều nghĩ “Mẹ kiếp, đi mau ra khỏi đây cho rồi”. Nhưng Bobby cất
tiếng la lên. Tiếng hắn át tiếng cánh quạt bắt đầu kêu phành phạch: “Thưa Thiếu
tá! Họ hỏi muốn ăn thứ bánh ‘pizza’ gì khi đến Manila?”
Tôi tin đó chính là câu nói cuối cùng của một Thủy quân Lục
chiến Mỹ trước khi chúng ta vĩnh viễn rời khỏi Việt Nam. Chúng tôi bật cười với
lời nói đùa của Bobby. Lời nói đùa này phá vỡ sự căng thẳng. Chúng tôi cười vì
câu nói, nhưng cũng cười vì chúng tôi đều mừng rỡ là cuối cùng chúng tôi sẽ được
về với gia đình.
Sự thực lúc ấy phi hành đoàn chỉ lấy đủ xăng để bay khỏi
Saigon. Họ không đổ thêm. Trên lúc bay ra chiến hạm Okinawa, có đèn báo động
trên cả hai bình xăng. Tôi khá lo. Tôi thấy chiếc đèn thứ nhất bật lên. Cả phi
công chính và phi công phụ cũng đều để ý. Rồi chiếc đèn thứ hai bật lên. Tôi nói
“Lạy Chúa, cầu cho cái trực thăng đừng hết xăng trước khi đến nơi đến chốn!”.
Nhưng rồi hạm đội hiện ra. Sáng hôm ấy là một buổi sáng trong
trẻo. Khi vừa thấy mấy chiếc chiến hạm, chúng tôi thấy ngay các thứ còn sót lại
của những chiếc trực thăng trên mặt nước chung quanh tầu. Mọi thứ lộn xộn như
cái sở thú. Trên sàn bay của chiến hạm Okinawa người ta xếp thành hàng để làm
thủ tục. Vũ khí bị tước lấy, ném đi.
Tôi dám cá rằng mười mấy Thủy quân Lục chiến của nhóm tôi ít
nhất có đến 36 món vũ khí. Khi lên tàu, vài cậu đeo súng đầy mình chẳng khác
tướng cướp Pancho Villa. Cá nhân tôi có một khẩu Colt 45, một khẩu súng lục tự
động 9 ly, và một M-16. Mấy cậu nhỏ khác có cả lô vũ khí đã nhặt trên mái tòa
Đại sứ để giữ làm kỷ niệm. Vài khẩu AR-15 báng gấp. Một khẩu súng lục .32 mạ
kền. Vài khẩu súng lục Tiệp Khắc. Đủ các thứ vũ khí mà người ta có thể tưởng
tượng ra. Ông biết là ngay khi chúng tôi bước lên tàu Okinawa họ tước hết vũ khí
ném qua thành tàu. Cũng hơi buồn, nhưng bọn Thủy quân Lục chiến vẫn thường gặp
cảnh này luôn. Tôi đoán khi nhặt nhạnh vũ khí, chúng tôi quên bẵng chuyện này.
Tước vũ khí tất cả mọi người trên tàu là biện pháp duy nhất để tránh tai nạn
vậy.
Chúng tôi thấy người Việt lái trực thăng ra đang cố hạ xuống
sàn chiến hạm. Nhưng tôi quá mệt để đứng nhìn cảnh này. Làm thủ tục xong, tôi
chui ngay vào túi ngủ, đánh một giấc sáu tiếng đồng hồ. Thế rồi họ thức tôi dậy,
bảo tướng Carey muốn gặp tôi bên chiến hạm Blue Ridge ngay tức khắc. Tôi nhảy
vào trực thăng. Họ đưa tôi bay qua tàu bên kia. Nhưng vào lúc trực thăng chúng
tôi sắp hạ thì đã có một chiếc khác đang cố hạ xuống mũi tàu. Đừng quên đây
không phải là Hàng không Mẫu hạm. Chiếc trực thăng Việt Nam ấy đã đụng gẫy một
số cột ăng ten, suýt gây thiệt hại nghiêm trọng. Nhưng họ đã tuyệt vọng cố bay
ra khỏi xứ. Họ bay vòng vòng khắp trên không trung.
Sau khi tất cả các biến cố trôi qua, tôi vẫn không dám chắc là
sẽ được tưởng thưởng hay sẽ bị một cú đá đít đích đáng vì việc đã sử dụng lựu
đạn cay. Sau cùng, họ cho tôi một huy chương ngôi sao đồng.
Khi trở lại Hồng Kông, tôi và Bob Lewis, sĩ quan chấp hành của
tôi ngồi xuống. Chúng tôi làm sẵn bốn mươi hai bằng tưởng lục cho tất cả những
thuộc cấp khắp từ Nam Vang, Nha Trang, Đà Nẵng, Cần Thơ, Biên Hòa và Saigon. Sau
khi nhận đủ các báo cáo công trạng, ai làm chuyện gì, chuyện gì xảy ra, tôi ngồi
xuống nghiền ngẫm. Tôi biết tác dụng của việc tưởng thưởng, tôi rất quan tâm đến
việc làm sao cho mỗi cậu nhỏ đều được để ý đến bằng cách này hay cách khác. Vì
thế tôi đã làm hết sức mình. Đôi trường hợp tôi được báo cáo đầy đủ. Đôi trường
hợp, tôi phải thêu dệt ra. Cho nên lời khen thưởng nào nghe cũng từa tựa như
nhau. Nhưng hiển nhiên, tôi biết họ đã là một phần của hành động, họ đã tham dự.
Sau đó tôi đem các bảng tưởng lục đến cho Tổng Lãnh sự tại Hồng Kông ký, như thế
các nhân vật của Bộ Ngoại Giao phải tiến cử. Và như thế Bộ Tư Lệnh Thủy quân Lục
chiến chắc chắn sẽ không thể gạt đi được.
Kết quả, tất cả mọi người đều được tưởng thưởng. Đa số tuy
không được thưởng đúng mức, nhưng cũng có người được huy chương Quân công của
Hải quân, hoặc huy chương Tuyên dương của Hải quân. Sau này, tôi ngạc nhiên khi
tìm ra nhiều người trong số vẫn còn ở lại binh chủng Thủy quân Lục chiến. Steven
Bauer chẳng hạn. Lần cuối cùng tôi gặp, anh ta vẫn ở trong binh chủng, lúc ấy đã
trở thành Trung sĩ xạ thủ. Tất cả những cậu lính này đều có một chút gì giống
như các cậu lính của Napoléon. Napoléon đã lưa ý đến một sự kiện là người ta
thường làm những hành vi can đảm chỉ vì muốn được một miếng huy chương. Tôi thực
ngạc nhiên khi gặp những cậu lính vẫn còn tiếp tục ở lại Thủy quân Lục chiến sau
biến cố ấy.
Chúng tôi đã cụng ly uống đến say mềm ở Manila. Mười một người
chúng tôi. Sau đó chúng tôi không bao giờ còn có dịp tụ họp lại với nhau nữa.
Phần tôi, tôi ở binh chủng Thủy quân Lục chiến cho đến tháng
Bảy năm 1983. Nhưng thực ra, tôi vẫn luôn luôn là một người lính chiến. Tôi nghĩ
cuộc di tản ở Saigon đã trở thành những gì đáng nhớ nhất trong đời binh nghiệp
khá dài của tôi ở binh chủng Thủy quân Lục chiến.
Vào thời gian ấy tôi đã nhạy cảm với những gì đã xảy ra với
tất cả các ý nghĩa của nó. Đây là lần đầu tiên Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ tháo chạy
và đã phải thừa nhận rằng mình cạn hết năng lực.
Tôi đã viếng Đài Kỷ Niệm các chiến sĩ bỏ mình trong trận chiến
Việt Nam. Tôi nghĩ đài này rất đẹp với những cái tên, chỉ những cái tên thôi,
khắc trên đá hoa đen. Và tôi cảm thấy khi người ta nhìn vào và đọc một số tên,
thì cái đài đó đã đạt được những kết quả mong muốn rồi.
Tôi rời Thủy quân Lục chiến, không tình nguyện đăng thêm.
Nói một cách thẳng thắn, cách tôi tham dự cuộc chiến là chỉ vì
bản chất tôi thích liên hệ vào mọi chuyện diễn ra. Đó là việc xảy ra trong một
thời điểm của đời tôi, tôi đã rất muốn tham dự vào. Đó là một biến cố hệ trọng.
Nó cho tôi dịp chia sẻ kinh nghiệm của cha tôi trong kỳ đệ nhị thế chiến.
Bây giờ thỉnh thoảng tôi vẫn ngừng lại và nghĩ nhớ về Việt
Nam. Tôi tưởng như vẫn còn thấy những khuôn mặt, nghe những giọng nói, tiếng
động, ngửi thấy những mùi vị xa xưa trở về. Đây đó vẫn tưởng ra những giây phút
xưa cũ, những biến cố ngày nào. Nhưng tôi không hề bao giờ bị chấn thương vì
kinh nghiệm chiến tranh cả.
Ông biết, khi đọc tin trên báo, khi thấy các hình ảnh là tôi
đều cảm thấy như quay cuồng về chốn cũ. Tôi có thể cho ông hàng tá thí dụ về
những chuyện như thế. Tôi nhớ hình ảnh những đứa bé đẹp đẽ. Tôi nhớ mùi xăng đốt
khét lẹt. Tôi nhớ những buổi đi hành quân tuần tiễu.
Tôi nhớ một chuyện đặc biệt khi chúng tôi hành quân qua làng
đã gặp một bà già Việt nam. Một bà già nhỏ thó. Ngón tay cái của bà già mưng mủ,
nó bị thối hoại. Người lính quân y bèn rửa ráy sạch sẽ, cắt thịt hư, bôi trụ
sinh lên, băng bó cẩn thận ngón tay cho bà già. Khi chúng tôi gặp bà già này thì
ngón tay mưng mủ ấy được trét phân bò và bó bằng lá chuối. Người lính quân y có
nói được đôi chút tiếng Việt, và qua lời người thông dịch, hắn đã dặn dò bà già
phải đi bác sĩ. Bởi vì nếu bà không giữ sạch sẽ, vi trùng thối hoại đã sẵn đấy,
bà có thể mất ngón tay, hoặc nếu nó lan rộng thì có thể mất mạng như không.
Đó là cái thông điệp chúng tôi đã chuyển cho bà già. Tuy nhiên
chúng tôi không thể giải phẫu ngón tay cho bà trong lúc hành quân. Nhưng chúng
tôi nghĩ chúng tôi đã giúp bà khá nhiều, và đã cứu mạng bà rồi.
Ba ngày sau trở lại ngôi làng ấy, bà già vẫy mời chúng tôi
uống cà phê. Khi bà mang cà phê đến, chúng tôi thấy bà đã vứt hết bông băng rồi
lại trét phân bò, quấn lá chuối lên ngón tay. Bà già nhỏ thó ấy, trông như đã
126 tuổi nhưng có lẽ chỉ ngoại tứ tuần, nếu cứ như thế bà sẽ chết thôi. Chúng
tôi sẽ không thay đổi được gì hết. Tôi bị kích động vì những chuyện hiển nhiên
như vậy.
Một lần khác nữa chúng tôi đi hành quân qua ruộng lúa, có một
chiếc chiến đấu cơ Phantom bay qua. Bay rất thấp. Khi nghe tiếng động cơ chúng
tôi ngửng nhìn. Kìa trên bầu trời là một chiếc máy bay tân kỳ trị giá mười triệu
đô la đang trưng ra với những người làm ruộng mà chắc rằng họ chẳng thể nào biết
gì về nó. Tương tự như một chiếc oanh tạc cơ bay qua hòn đảo New Guinea vào thời
đệ nhị thế chiến. Những người dân quê sống trong mấy túp lều, đi cày với mấy con
trâu khi ngửng lên thấy chiếc Phantom, làm thế nào họ có thể hiểu đây là cái gì,
nó bay đến đây làm gì?! Chuyện ấy không thể hiểu được đối với họ. Tất cả những
gì họ hiểu ra được một cách chắc chắn, ấy là nó chỉ làm phiền cho cuộc sống của
họ thôi.
Tôi vẫn nhớ đến những con người đã ngửng nhìn chiếc Phantom
một lát rồi tiếp tục làm việc. Những nỗi hoài niệm phiền muộn ấy cứ quay về trở
đi trở lại mãi.
Tôi xin nói với ông là ký ức rất quan hệ đối với tôi, bởi vì
nó chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu xa. Mỗi khi mắc kẹt với các câu hỏi như việc can
thiệp của Hoa Kỳ ở Trung Mỹ, tôi lại nhớ đến những điều ấy, bởi vì đấy là những
kinh nghiệm thực của tôi. Những lúc ấy tôi thường nói: “Chúng ta không thể xuống
dưới vùng ấy với những lý tưởng kiểu Mỹ để giải quyết vấn đề của họ, bởi vì
chúng ta sẽ không có câu trả lời”. Có lẽ cách tốt nhất là nằm ở nhà, tránh quách
những chuyện ấy, ngoại trừ việc cấp viện trợ kinh tế, hoặc hỗ trợ các kế hoạch
hoà bình. Chúng ta phải nhớ bất cứ khi nào các điều kiện kinh tế của mỗi xứ đã
mâu thuẫn phân chia giữa những “cái có” và những “cái không có” thì đều có triển
vọng cho các xáo trộn thực sự xảy ra. Không một người đàn ông nào đáng giá một
hột muối lại sẽ đứng thụ động quá lâu để chứng kiến cảnh gia đình mình đói khổ
cả.
Cách tệ hại nhất mà chung ta làm chính là đưa giải pháp quân
sự xuống dưới ấy, ấn vào tay những người không cần đến. Và đấy cũng là lý do tại
sao tôi đã hoàn toàn phủ nhận các giải pháp quân sự. Xin ông hãy tin tôi, giải
pháp quân sự không giải quyết được vấn đề gì. Tôi nghĩ người ta phải có khả năng
tự vệ, nhưng hệ thống ngày nay đã có vẻ hoàn toàn mất kiểm soát rồi. Hiện nay
tôi chính là một người thực sự chủ trương hòa bình. Đặc biệt là với vấn đề ngân
sách quốc phòng, ngày nay đã trở thành quá sức tưởng tượng.
Với tất cả lòng thành của tôi trước Thượng đế, tôi không cho
rằng tôi sẽ là một người cha thành công nếu con cái của tôi thích chuyện súng
gươm. Tôi thành thực tin như vậy. Tôi mong các con tôi sẽ làm một chuyện gì xây
dựng – một người thợ nề lương thiện xây nhà, dựng tường, một người viết văn
lương thiện viết một cuốn sách tốt đẹp. Chứ tôi không muốn một đứa con nào đi
vào binh nghiệp cả.
Tôi không bao giờ sử dụng đến súng nữa. Trong nhà – tôi không
giữ một khẩu súng nào. Tôi không vui khi thấy con tôi mở mấy cuốn sách quảng cáo
để xem mấy khẩu súng bắn đạn bi, hoặc đứng nhìn mấy khẩu súng trường bày bán ở
các tiệm thể thao. Mỗi khi thấy thế, tôi cắn môi. Tôi muốn người ta vứt hết mấy
thứ rác rưởi ấy đi cho xong.
Tôi biết (Tổng thống) Ronald Reagan cùng tuổi với cha tôi.
Trong khi Reagan đóng phim ở Hollywood thì suốt bốn năm đệ nhị thế chiến, tôi
không được gần cha. Tôi không muốn nói xấu về việc ấy, vì ít nhất Reagan cũng đã
còn giơ tay lên mà tình nguyện làm một chuyện gì. Nhưng tôi tuyệt đối phẫn nộ
đối với bọn chủ chiến không ra gì, chúng bao quanh lấy ông ta. Những cái lỗ đít
ấy chẳng từng bao giờ ở trong quân đội, những thằng mập xịt ngồi ứ để chơi trò
sức mạnh võ biền. Bọn nó xắn tay áo, phun nước bọt, gửi những thằng bé mười chín
tuổi đầu ra chỗ chết. Thê thảm.
Cho nên một Tổng thống cần phải biết nghe khuyến cáo mỗi khi
những bọn hiếu chiến bắt đầu khua động loảng xoảng gươm dao. Ông Tổng Thống cần
phải nhớ rằng cả một thế hệ đã lớn lên và không hề biết một chút gì về Việt Nam.
Thế hệ ấy dễ tin, dễ cảm vào mấy thứ rác rưởi như “Rambo”. Những thứ như thế
thúc đẩy bọn trẻ con máu nóng nhảy ra chiến đấu và chết. Chúng sẽ không chết ở
Việt Nam. Cuộc chiến ở đấy đã xong. Nhưng chúng sẽ chết ở một nơi xa xôi nào
khác nữa.
Chiến tranh là một sự phí phạm. Thế thôi. Tôi là người đã
chứng kiến. Đã sống sót. Và ngày nay vẫn còn thấy trong tâm trí cuộc chiến ấy.
Tôi biết chắc chắn rằng phải có một giải pháp tốt đẹp hơn.
TRUNG Sĩ
KEVIN MALONY
(Cận vệ của
Đại sứ Martin)
“Phục sinh từ đám tro tàn”
Tôi phục vụ ở Tòa Đại sứ Hoa Kỳ tại Warsaw, Ba Lan, cho tới 22
tháng Giêng 1975 thì chuyển về Saigon. Thực tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa.
Tháng Mười năm trước tôi rời Hoa Thịnh Đốn đi Âu Châu vài
tuần. Thêm vào chương trình huấn luyện thông thường mà các vệ binh Tòa Đại sứ
phải thụ huấn, tôi có tham dự chương trình cận vệ bảo an các yếu nhân. Rồi phục
vụ tại Luân Đôn, tại Frankfurt, Tây Đức, sau đó là Warsaw. Tôi chỉ ở Warsaw có
mười tuần lễ rồi tình nguyện đi Saigon.
Tại Saigon theo quy định tôi chỉ mặc thường phục, và là cận vệ
Đại sứ Martin cho đến ngày 28 tháng Tư.
Khi tới Saigon vào tháng Giêng, tôi nghĩ mình sẽ ở đây một
năm, nhưng rồi “Cuộc chơi lớn” bắt đầu.
Saigon khá an ninh lúc tôi đến. Nay mỗi lần nghĩ tới tôi lại
càng ngạc nhiên. Sĩ quan an ninh khu vực bảo tôi trong vòng sáu mươi dặm Anh tại
Saigon không hề có Việt Cộng. Tuy nhiên Saigon lúc ấy chính là một trại lính.
Tòa Đại sứ ở đây có lẽ còn an ninh hơn bất cứ một Tòa Đại sứ nào.
Bên kia thành phố, tại tư thất Đại sứ, chúng tôi gồm tất cả
sáu người lo phụ trách bảo vệ cho Đại sứ. Nhiệm vụ của tôi thuần túy là nhiệm vụ
bảo vệ Đại sứ Hoa Kỳ. Có một trung tâm truyền thông đặt ngay trong tư thất Đại
sứ, tôi là người canh giữ trung tâm ấy. Trong giai đoạn sau, tôi cũng là người
phụ giúp việc truyền thông giữa Tòa Bạch ốc và Đại sứ. Có lần một số vị trong
Hội Đồng An Ninh Quốc Gia đến đấy, tôi đã có mặt trong lúc quý vị ấy họp bàn kế
hoạch.
Khi gặp Đại sứ lần đầu, thấy một ông già mặc cái quần ka-ki
cũ, cái áo lụng thụng, lăng xăng trong sân, tôi cứ ngỡ là ông làm vườn. Trông
không có vẻ gì Đại sứ cả.
Tôi được giới thiệu với ông vào ngày hôm sau tôi đến. Ông là
người lịch thiệp, gây nhiều ấn tượng sâu sắc. Thực là một tay cứng cỏi. Bấy giờ
đã ngoài bảy mươi tuổi, nhưng ông còn làm việc bền bỉ hơn tôi.
Trong giai đoạn cuối, Đại sứ tỏ ra rất kiên quyết. Ông không
muốn lộ việc người Mỹ di tản vì chuyện ấy có thể gây náo loạn. Vì thế chúng tôi
đã phải giữ cho mọi việc có vẻ vẫn bình thường.
Cuộc di tản, có lẽ là một trong những biến cố trọng yếu nhất
đời tôi. Ngày 28 tháng Tư, tôi bị giải nhiệm vì tác phong: Tôi nhậu nhẹt quá sá
và đã tạo thành vấn đề. Chính Thiếu tá Kean là người đã đề nghị đưa tôi ra tòa
quân sự. Nhưng Thiếu tá Kean cũng cho tôi đoái công chuộc tội: Nếu làm việc tử
tế, ông sẽ nương tay. Sau đó khi về Mỹ, tôi chỉ bị các hình phạt quân kỷ, khỏi
phải ra tòa. Tôi bị phạt và bị thuyên chuyển thôi.
Cấp bậc của tôi là Trung sĩ. Tôi được chỉ định phụ trách một
số quân nhân có nhiệm vụ canh giữ doanh trại văn phòng Tùy Viên Quân Sự. Hạ sĩ
Mc Mahon và Hạ sĩ Darwin đều là hai người làm việc trong tiểu đội tôi, họ mới
đến có hai tuần lễ. Tôi biết họ chưa lâu, mới ít ngày. Hai người bồ bịch thân
thiết nhau lắm, tôi cho là chẳng ai tách rời họ được. Họ đến cùng lúc, thân
thiết với nhau ngay. Lúc tôi tới, lính tráng thường cười đùa trêu chọc Judge vì
anh ta hay nhái giọng nói miền Boston của Mc Mahon.
Tôi tới đây vào lúc chiếc phi cơ A-37 của Việt Nam bị tấn
công. Chúng tôi vác cả súng trường lẫn súng lục ra mà bắn.
Sau khi máy bay được đưa đi hết, yên lắng lại, chúng tôi mới
trò chuyện với nhau. Chắc ông từng nghe người ta nói “Chết đến nơi thì phải tin
Trời, Phật, Thánh, Thần”. Đúng thế, Judge là người Thiên Chúa Giáo, hắn đã trò
chuyện với tất cả mọi người về niềm tin của hắn. Hắn thuyết về đạo giáo cho tất
cả lính tráng trong đơn vị trước khi tôi đến, sau đó lại rao giảng với chính
tôi. Tôi biết hắn đúng, tôi đồng ý. Trước đây tôi chưa từng nghe chuyện tôn
giáo. Bây giờ là lúc quyết định: Đúng ngày hôm ấy tôi đã trở thành một tín đồ
Thiên Chúa Giáo. Ngay tại đấy, và từ đó cuộc đời tôi rõ rệt đổi khác.
Cái kinh nghiệm sáng hôm ấy của tôi là kinh nghiệm của một
người trở về đối diện với chính mình, nhận được rằng mình đã sống cuộc đời đáng
tởm. Tôi ở trong binh chủng Thủy Quân Lục Chiến đã bốn năm, đã sống với cái hình
ảnh của tài tử cao bồi John Wayne, cái lối nhậu nhẹt dữ dằn, kiểu sống khó
thương của dân Thủy quân Lục Chiến. Đời sống ấy tạo trong tôi một sự trống rỗng,
làm cho tôi chẳng còn là tôi, có lẽ đó chính là lý do tại sao bia rượu tàn phá
tôi. Tôi đã bị hủy hoại, chẳng sót lại gì. Bao nhiêu điều tốt đẹp khi gia nhập
Thủy Quân Lục Chiến chỉ còn lại tro than.
Mọi sự giống như cơn lốc xoáy. Tôi đã khá thành công trong
binh chủng Thủy quân Lục chiến. Từ binh nhì lên trung sĩ chỉ trong thời gian
ngắn. Nếu đừng vấp vấn đề lôi thôi ở Saigon, có lẽ tôi đã là người trung sĩ trẻ
tuổi nhất binh chủng.
Vào đêm hai chú nhỏ bị giết, chính tôi là người bố trí trạm
gác.
Lúc ấy 4 giờ kém 15 phút sáng, tụi hắn trúng ngay quả rốc-kết
đầu tiên bắn tới. Tôi đoán là một quả 122 ly, sau đó tôi có tìm được cái cơ phận
quả đạn. Lúc ấy tôi đang ở căn cao ốc kế cận, quả rốc-két đã đánh bật tôi ra
khỏi giường. Ở ngoài ấy với tụi hắn, còn một chú nhỏ nữa. Tụi hắn ở phía góc căn
trại, còn chú nhỏ kia tên là Holmes, ở phía cổng. Chú này bị ngay đầu. Có tiếng
đạn cá nhân nổ liên hồi, hóa ra là dây lưng đựng đạn cá nhân của Judge phát nổ
trong đống xe Honda bốc cháy, thoạt nghe như súng máy nổ ngoài cổng.
Quả rốc-két có lẽ rơi cách Mc Mahon và Judge chỉ khoảng mười
tám phân Anh. Trúng đạn tụi hắn chết tức khắc. Không ai có thể nhắm trúng đến
thế. Mc Mahon hứng ngay luồng đạn, thân thể hoàn toàn nát bấy, đầu một nơi, mình
một nơi, tay chân một nẻo. Judge còn khá nguyên vẹn. Lúc đầu nhìn, tôi cứ tưởng
hắn còn sống. Tôi kéo hắn ra khỏi ngọn lửa, nhưng hắn đã chết rồi. Stu Herrinton
nhặt cái mũ sắt của Judge mang đi.
Sáng hôm ấy tất cả bắt đầu rung chuyển. Không quân Việt Nam cố
di tản máy bay đi, mấy chiếc C-130 trúng rốc-két cháy tại chỗ. Đám nhân viên phi
hành chạy vào. Chúng tôi cố núp tránh miểng đạn. Người ta có thể nghe đại pháo
130 ly rít qua đầu, nổ ầm trong đám kho xăng. Tôi nhìn thấy một chiếc C-l 19 cất
cánh rồi bị bắn hạ.
Lúc ấy tôi là người tin số mạng, cái gì đến thì đến, nếu số
tôi tới thì tới, vậy thôi. Không biết bây giờ tôi còn tin thế không, nhưng lúc
ấy tôi tin như vậy. Tôi là loại cứng cổ, dù có sợ cũng không thừa nhận với chính
mình.
Thiếu tá Tony Woods là người có trách nhiệm đưa đa số người Mỹ
đi khỏi Saigon. Ông và tôi lái xe buýt quanh thành phố để đón người Mỹ tại các
khách sạn. Có rất đông nhà báo. Thiếu tá Woods đã được một huy chương sao đồng
về các hành động tại đây.
Ông ta và tôi nhảy lên một chiếc Jeep chạy quanh mấy nút chặn
của lính Việt Nam trên đường phố Saigon. Chúng tôi lái đến mấy nút chặn ấy xem
họ làm gì. Nhiều cha nổi nóng. Họ nổ súng nhưng chúng tôi không trả đũa. Sau đó
ông ta và tôi lạc nhau trong một vụ nổ. Ông đi một đường, tôi đi một nẻo.
Việc ấy xảy ra ngay bên ngoài phi trường Tân Sơn Nhất. Người
ta cứ đại ngôn về việc chúng tôi có thể đi ra phi trường mà không bị bắn chác
gì. Vâng, những người nói chuyện như thế là những người không có mặt ở Saigon.
Quân đội Việt Nam Cộng Hòa không bắn chúng tôi, nhưng lính của
họ thì có. Vô khối lính đã nã đạn lên trời, cũng vài chiếc xe buýt bị trúng đạn.
Thiếu tá Woods và tôi hộ tống mấy chiếc buýt cho đến khi chúng
tôi lạc nhau. Tôi lọt xuống trung tâm thành phố thì chợt phía sau là một xe vận
tải đầy lính Việt Nam trang bị súng ống, cứ thế lừ lừ chạy theo. Tôi vòng một
khu đường để đi sau chiếc vận tải thì bọn lính chĩa súng về phía chúng tôi. Đến
khi chiếc xe buýt về tới Tòa Đại sứ, người trên buýt bước xuống, và khi vừa
thoát khỏi bọn lính Nam Việt Nam, tôi chui ngay vào trong Tòa Đại sứ.
Tôi leo tường vào. Lúc ấy tôi mặc đồ rằn của lính Nam Việt Nam
để di chuyển trong thành phố. Tôi cũng mang một khẩu M-16 và một khẩu .38. Ngày
hôm ấy, họ cho chặt bỏ cái cây để trực thăng đáp xuống.
Tôi đã vào giữ vị trí ở cổng khu giải trí vài tiếng đồng hồ
cho đến khi người ta bỏ khu này. Tôi nghĩ tôi là người cuối cùng còn ở bên
ngoài. Địa bàn chúng tôi thu hẹp dần. Vài người và tôi đã đi qua tất cả các
phòng của Tòa Đại sứ, từng phòng một để kéo mọi người ra. Rồi lên nóc thượng.
Tôi đi trên chiếc trực thăng bay lúc mặt trời mọc. Trên trực
thăng này chỉ có lính Thủy Quân Lục Chiến. Chúng tôi ném hết nón sắt áo giáp để
ngưòi khác có chỗ vào thêm.
Đến lúc ấy, tôi mệt lử. Tôi nhớ chiếc trực thăng bay, nhưng
tôi nghĩ gì thì chẳng nhớ để kể cho ông nghe được.
Tôi đã nhìn xuống thành phố Saigon lúc bay ra. Chắc chắn tôi
phải nhìn xuống. Mặt trời vừa mọc. Chúng tôi bay qua bến tàu, qua sông, tôi nhớ
đã thấy mấy lằn đạn bắn đến, có lẽ đạn của lính Nam Việt Nam bắn chỉ thiên, hoặc
là của súng phòng không. Chúng tôi bay qua bãi biển, đấy là điều cuối cùng tôi
nhớ trước khi hạ xuống chiếc tàu Okinawa.
Nói chung tôi cho rằng đây là một sự mất mát không thể tưởng
tượng. Và tôi đã có mặt để chứng kiến tới giây phút cuối cùng. Tôi nghĩ chúng ta
đã bỏ rơi những người bạn và tôi không thích chuyện mà người ta gọi là “hoà bình
trong danh dự”. Chúng ta đã ù té chạy, bỏ họ lại cho bọn Bắc Việt. Và ông thừa
hiểu bọn ấy “tử tế” như thế nào.
Lúc ấy tôi chỉ mới hai mươi hai tuổi đầu. Đó chính là thời
điểm thay đổi hẳn đời tôi. Tôi vẫn còn nghĩ đến rất nhiều. Tôi có thể quên nhiều
thứ trong đời, nhưng không bao giờ quên được lúc ấy mặc dầu đó là một kinh
nghiệm bi thảm, và sau khi ra đi tôi đã thay đổi hẳn. Năm 1975 là năm tệ hại
nhất đời tôi, tạo nhiều khó khăn cho tôi, nhưng hồi tưởng lại thì chính nhờ đó
tôi thay đổi để sống một cuộc sống tốt lành hơn.
Một phần của con người tôi đã chết ở chốn ấy. Nhưng một phần
khác đã trỗi lên từ đống tro tàn. Tôi đã phải đối diện một cuộc phấn đấu lâu
dài, nhưng nay tôi trở thành tốt đẹp hơn. Tôi tìm thấy sự thiện hảo trong niềm
tin vào Chúa.
CHƯƠNG 10 : TÙ BINH CHIẾN TRANH
DENNIS
CHAMBERS
(Phi công
Tù bỉnh)
“Chúng ta thắng
trận phải không? Xin làm ơn nói thật”
Tháng Tám năm 1967 trong lần thực hiện phi vụ thứ một trăm lẻ
một, tôi đã bị bắn hạ tại Đồng Hới, ngay phía Bắc vùng phi quân sự. Tôi là phi
công phụ của chiếc máy bay F-4C. Phi công chính và tôi thoát chết, nhưng sau đó
đã bị giam suốt năm năm rưỡi tại nhà tù Cộng sản, Hỏa Lò, nơi người ta vẫn gọi
là “Khách sạn Hilton Hà Nội.”
Trước khi xảy ra vụ này, trong tôi đã tan vỡ nhiều ảo tưởng về
cuộc chiến. Vì sao? Mục đích cuộc chiến tuyệt đối đúng, nhưng phương thức chúng
ta chiến đấu, cách chúng ta muốn đạt đến mục đích thật hết sức sai lầm.
Tôi đóng ở Cam Ranh. Tôi đến đấy vào tháng 3 năm 1967. Ngay
sau phi vụ đầu tiên, tôi đã phải viết thư cho dân biểu của tôi mà hỏi: “Chúng ta
đang làm gì ở đây?” Chúng ta đang làm một lỗi lầm lớn, ai cũng có thể thấy rõ
như vậy!
Ngay lúc mới đến Cam Ranh, người ta đã căn dặn chúng tôi đừng
ai ra phố. Không được vượt qua cây cầu vào thị xã. Lý do, họ bảo là vì dân chúng
bất thân thiện. Lạy chúa, bất thân thiện! Ngay tại Cam Ranh này mà dân chúng
không đối xử thân thiện với chúng tôi. Họ là bạn, họ là đồng minh kia mà? Vậy
nếu họ không thân thiện với chúng tôi thì việc gì đang xảy ra ở đây. Hoàn cảnh
này là hoàn cảnh nào?
Về việc dội bom: chúng tôi đã dội bom dã man lên tất cả mọi
thứ. Không bao giờ lại phí bom thả xuống biển. Sau mỗi phi vụ khi bay về, nếu
còn dư bom, chúng tôi luôn luôn cố kiếm ra một cái gì mà dộng xuống. Bọn phi
công sẽ kiếm một thứ gì, bất cứ cái gì để dội lên với số bom còn lại. Tôi cũng
đã nghe kể nhiều chuyện về lính bộ binh thường nhả đạn giết dân bừa bãi chỉ vì
lý do không ưa cái bộ dạng của người ta! Không ưa cách người ta nhìn, họ bóp cò.
Tình trạng có vẻ thực vô kiểm soát. Bấy giờ là năm 1967. Sau này tình trạng lại
còn tệ hại hơn. Sĩ quan không kiểm soát nổi lính tráng. Chúng ta có rất đông
quân, mà chúng ta lại không hề bao giờ chính thức tuyên bố chiến tranh. Chúng
tôi cứ bay, cứ dộng bom, và nếu tôi hỏi “Chúng ta đi đâu, chúng ta làm gì đây”
thì câu trả lời luôn luôn vẫn là “không biết!”
Ấy thế rồi họ trói tay chúng tôi lại. Họ bảo chúng tôi là có
một số việc chúng tôi không được phép làm. Ví dụ nếu tìm ra được các chiến đấu
cơ MIG, chúng tôi phải làm các thủ tục nhận diện cho chắc chắn là MIG, rồi mới
được phép bắn. Trong tình trạng ấy quý ông có biết cơ may sống sót của chúng tôi
mỏng manh đến đâu? Một chiếc MIG có khả năng làm lắm chuyện hơn cả mấy chiếc
F-4C, F-105, hoặc là F-111. Với những chiếc máy bay nguy hiểm như thế mà chúng
tôi lại còn phải cố nhận diện đã, thì sinh mạng của chúng tôi chịu biết bao may
rủi? Rồi chúng tôi lại bị cấm không được phép bắn những chiếc tàu dài hơn 50 bộ
Anh, hoặc ngắn hơn 20 bộ Anh. Như vậy tất nhiên Việt Cộng cứ cho chở hết mọi thứ
trong những chiếc tàu nhỏ là tha hồ an toàn xuôi ngược trên sông! Tôi cảm thấy
thực cay đắng với tất cả những chuyện như thế.
Ngoài ra ở đấy người ta đã lừa bịp dối trá như điên. Con số
máy bay được đếm là chỉ bằng nửa con số chúng tôi báo cáo. Số máy bay chúng ta
mất xảy ra rất đều đặn: Chỉ trong năm tháng tôi ở đấy, chiếc máy bay của tôi đã
là chiếc thứ 13 tại Cam Ranh bị mất. Và người ta chỉ ghi vào thống kê những
chiếc máy bay mất nếu có người nào nhìn thấy tận mắt. Không nhìn thấy máy bay bị
hạ kể như không mất. Thật là khùng!
Trong Hỏa Lò Hà Nội, các tù binh Mỹ còn sống sót được nhờ
những lý do khác nhau. Tinh thần bác ái và tinh thần Thiên Chúa giáo đã giúp một
số người sống còn. Riêng tôi, chính hận thù giúp tôi sống còn! Tôi hận thù
Lyndon Johnson. Tôi hận thù Richard Nixon. Tôi hận thù chiến tranh. Tôi hận thù
người Việt miền Bắc. Tôi hun đúc tất cả những hận thù ấy để sống còn.
Những hận thù ấy cũng tạo nên cho tôi một tinh thần hoài nghi
sâu đậm. Khi được thả vào năm 1973, họ đưa chúng tôi vào chiếc máy bay C-141 từ
Hà Nội đến Phi Luật Tân, lúc ấy tôi không còn một niềm tin vào bất cứ gì nữa.
Đặc biệt tôi đã không tin được một lời nói nào của Cộng sản. Tôi cứ nghĩ chúng
sẽ không bao giờ thả chúng tôi ra. Cho nên khi máy bay rời Hà Nội, tôi chắc mẩm
là chúng sẽ bắn hạ chiếc máy bay này. Tôi đinh ninh chờ đợi một chuyện xảy ra:
Có lẽ chúng đã đặt bom. Có lẽ một chiếc chiến đấu cơ MIG, hay một hỏa tiễn SAM
sẽ phóng theo. Tôi tự bảo: “Không thể tin được! Chuyện này không thể xảy ra
được! Đấy là mơ chứ không thể là thực.”
Thế rồi khi máy bay rời Hà Nội, một nhóm bác sĩ, y tá và những
người trợ tá đến săn sóc chúng tôi. Tất cả chúng tôi đều nắm lấy họ mà cùng hỏi
một câu: “Chúng ta thắng trận phải không? Xin làm ơn nói thật.” Và một sĩ quan
Mỹ trên máy bay bảo: “Chắc chán là thế. Trên căn bản chúng ta đã thắng. Địch đã
bại – Nhờ máy bay B-52, chúng ta đã thắng!” Khi nghe như thế, chúng tôi ngây
ngất. Những năm tháng tù đầy của chúng tôi nhờ vậy mà xứng đáng. Không còn chữ
nào ngọt ngào hơn mấy chữ “Chúng ta đã kết thúc xong.” Họ nói với chúng tôi như
thế.
Rồi khi về nhà chúng tôi khám phá ra cuộc chiến chưa kết thúc.
Chúng ta chưa thắng. Chúng tôi lại bị dối trá. Người ta không cho biết sự thật.
Khi Sàigòn sụp đổ, tôi đang sống tại căn nhà ở vùng núi Santa Cruz tại tiểu bang
California. Tôi không coi truyền hình nhưng mỗi ngày đều đọc báo và nghe tin
trên máy phát thanh. Khi đọc và nghe những chuyện xảy ra bên ấy, tôi có thái độ
bi thảm của cái kiểu như là: “Đó, tôi đã bảo mà, thấy chưa.”
Tất cả những gì xảy ra thực sự chỉ là kết quả của hàng chuỗi lỗi lầm nghiêm
trọng mà chúng ta đã tạo nên sau nhiều năm tháng.
Vào cuối tháng Tư, khi bắt đầu nghe tin về cuộc tỵ nạn và những con người đáng
thương bên ấy đang cố ra khỏi xứ, tôi cảm thấy muốn phát bịnh. Bao nhiêu người
đã từng làm việc cho chúng ta ở bên ấy giờ đây bị đối xử cạn tầu ráo máng. Chúng
ta bỏ lại rất nhiều người. Lời hứa của Mỹ chẳng còn một giá trị gì. Bây giờ, ở Á
Châu, lời hứa của người Mỹ không còn đáng một cục cứt!
Những gì đáng lẽ chúng ta phải thực hiện, đó là phải bảo đảm an ninh cho bạn hữu
của chúng ta. Nhưng chính dư luận công chúng đã chống lại Việt Nam. Chính khách
đã chống lại Việt Nam. Mỉa mai quá! Nếu trước đó họ chống vấn đề Việt Nam sớm
hơn, thì mọi việc chẳng xảy ra như vậy. Tôi quy trách nhiệm cho toàn thể nước Mỹ
về việc bỏ rơi những bạn hữu của chúng ta ở lại Việt Nam. Không một ai đứng dậy
mà phản đối việc chúng ta bỏ rơi bạn, những người đã cật lực làm việc cho chúng
ta. Bây giờ chúng ta thản nhiên bỏ rơi họ.
Những gì đáng lẽ chúng ta phải làm, thực giản dị. Đáng lẽ chúng ta phải thiết
lập một khu vực “Không người” và bảo bọn Cộng sản rằng: “Nếu các anh vượt ranh
giới này, chúng tôi giết.” Chúng sẽ hiểu điều ấy. Như thế, chúng ta sẽ mang tất
cả những người bạn ra. Và chúng ta đáng lẽ phải nói: “Nga Sô, tránh ra! Trung
Cộng tránh ra! Chúng tôi sẽ rời khỏi xứ trong 6 tháng – Nếu Bắc Việt can thiệp,
chúng tôi sẽ xoá Hà Nội khỏi bản đồ tức khắc!”
Đáng lẽ chúng ta phải thiết lập tình trạng khẩn cấp, tuyên bố rõ rệt những gì sẽ
thực hiện, yêu cầu quan sát viên Nga Sô và Trung Quốc đến để chứng tỏ chúng ta
sẽ không quay trở lại. Chúng ta sẽ ra đi, và chúng ta sẽ mang theo các bạn hữu
của chúng ta. Chúng ta cần mở những trại định cư tại Mỹ với các tiện nghi tạm cư
cho các bạn của chúng ta. Vào thời đệ nhị thế chiến khi xảy ra vụ Nhật-Mỹ, họ
dựng trại nhanh lắm. Thế thì chắc chắn họ cũng có thể dựng trại tạm cư rất nhanh
cho các bạn của chúng ta vào năm 1975. Nhưng chúng ta đã không làm như vậy.
Không ai còn có can đảm quyết định. Không ai muốn chấp nhận trách nhiệm.
Chúng ta đã chờ đợi quá lâu. Đáng lẽ chúng ta không nên để kết cuộc phải xảy ra
trên cái nóc nhà khốn nạn của toà Đại sứ Mỹ ở Sàigòn. Đáng lẽ chúng ta có thể
chấm dứt tình trạng rối loạn với một vài lời đoan quyết. Nhưng không ai đã nói
một lời nào. Và bọn Cộng sản khốn kiếp cười vào mặt chúng ta. Chúng ta đã bị một
bọn lùn xủn bu lấy đá vào mắt cá chân. Hy vọng là chúng ta có thể học được đôi
điều trong chuyện này.
Tôi đã mất cái khả năng yêu thương tại Việt Nam. Tôi không còn
yêu thương, tôi cũng không còn sát sinh được. Tôi không săn bắn, tôi không câu
cá, mà tôi cũng không còn sức yêu thương. Khi trở về, họ gọi tôi là anh hùng.
Không, tôi không phải là anh hùng. Tôi đâu có tự ý tình nguyện xin ngồi tù cho
đến năm năm rưỡi? Tôi chỉ tình nguyện chiến đấu cho xứ sở. Tôi chỉ tình nguyện
chiến đấu cho tự do. Tôi đã tình nguyện lái một chiếc máy bay.
Khi mọi sự tan vỡ vào năm 1975, tôi cảm thấy thời gian phục vụ
của tôi ở Việt Nam thực là uổng phí. Ngày nay tôi chẳng nằm mộng hay thấy ác
mộng gì về chuyện ấy. Tôi không nghĩ gì về Việt Nam nữa. Không, tôi hoàn toàn
không nghĩ gì về những chuyện ấy nữa. Mọi phương tiện đối với người Mỹ này đều
đã được tận dụng, kể cả việc làm giấy tờ giả mạo.
No comments:
Post a Comment