; }

Tuesday, January 9, 2018

HỆ THỐNG ĐIỆN BÁO MORSE

Máy Morse là một thiết bị sử dụng xung điện để truyền tải qua dây cáp những thông điệp đã được mã hóa. Chiếc máy đã cách mạng hóa thông tin liên lạc đường dài, và được sử dụng rất phổ biến trong những năm 1920 và 1930.
Vào ngày 06 tháng 01 năm 1838, hệ thống điện báo của Samuel Morse được công bố lần đầu tiên ở Xưởng Cơ khí Speedwell tại Morristown, New Jersey. Máy Morse là một thiết bị sử dụng xung điện để truyền tải qua dây cáp những thông điệp đã được mã hóa. Chiếc máy đã cách mạng hóa thông tin liên lạc đường dài, và được sử dụng rất phổ biến trong những năm 1920 và 1930.
Samuel Finley Breese Morse sinh ngày 27/04/1791, tại Charlestown, Massachusetts. Ông theo học Đại học Yale, nơi mà ông đã dành sự quan tâm của mình cho nghệ thuật và kỹ thuật điện. Sau khi tốt nghiệp, Morse trở thành một họa sĩ. Năm 1832, trên con tàu trở về châu Âu, ông được nghe về một phát minh mới là nam châm điện, và từ đó nảy sinh ý tưởng về máy điện báo mà hoàn toàn không biết rằng đã có nhiều nhà khoa học khác cũng có ý tưởng tương tự.
Trong những năm tiếp theo, Morse cố gắng phát triển một nguyên mẫu máy điện báo, với sự giúp đỡ của hai trợ tá là Leonard Gale và Alfred Vail. Năm 1838, Morse lần đầu công bố phát minh của mình – máy điện báo sử dụng mã Morse, gồm các dấu chấm và dấu gạch ngang đại diện cho chữ và số. Năm 1843, Morse cuối cùng đã thuyết phục được Quốc Hội Mỹ tài trợ xây dựng đường dây điện báo đầu tiên tại Mỹ, chạy từ Washington, D.C. đến Baltimore. Tháng 05/1844, Morse gửi đi bức điện tín đầu tiên, rằng: “Những gì con có đều do Chúa ban!” (What hath God wrought!)[1]
Những năm sau đó, các công ty tư nhân đã mua lại sáng chế của Morse và xây dựng hệ thống đường dây điện báo xung quanh vùng Đông Bắc nước Mỹ. Năm 1851, New York and Mississippi Valley Printing Telegraph Company được thành lập, mà sau này đổi tên thành Western Union. Năm 1861, Western Union đã hoàn thành hệ thống đường dây điện báo liên lục địa đầu tiên trên khắp nước Mỹ. Năm năm sau, đường dây điện báo đầu tiên qua Đại Tây Dương được xây dựng, và đến cuối thế kỷ 19, điện báo đã có mặt ở châu Phi, châu Á và Úc.
Do các công ty điện báo tính phí dựa trên số từ nên các bức điện tín đều cực kỳ vắn tắt, bất kể chúng báo tin vui hay tin buồn. Chữ stop (dừng lại) được tính miễn phí, nên nó thường được dùng thay cho dấu chấm, vốn bị tính phí. Sang năm 1933, Western Union chính thức giới thiệu điện báo âm nhạc (singing telegram – điện báo dưới hình thức một bài hát, thường dùng làm quà tặng – NBT). Còn trong suốt Thế chiến II, người dân Mỹ luôn sợ hãi mỗi khi nhìn thấy người đưa tin của Western Union, vì quân đội Mỹ bấy giờ dùng điện tín để thông báo về cái chết của binh lính cho người thân.
Trong suốt thế kỷ 20, điện báo đã dần được thay thế bởi các dịch vụ liên lạc đường dài giá rẻ khác, như điện thoại, fax và email. Western Union đã chuyển bức điện tín cuối cùng vào tháng 01/2006.
Samuel Morse qua đời trong sự giàu có và nổi tiếng tại New York City vào ngày 02/04/1872, ở tuổi 80.

Monday, January 8, 2018

TÌNH BÁO ĐIỆN TỬ NHẬT BẢN

Hải quân Thiên Hoàng Nhật Bản bắt đầu tiến hành mã thám vào năm 1925 sau khi thành lập Nhóm Đặc biệt trong Phòng Truyền tin, Bộ Tổng Tham mưu Hải quân.

Khi đó, nhóm này chỉ có năm nhân viên và được ở trong tòa nhà bằng gạch của Bộ Hải quân ở Tokyo. Chuyên gia mật mã Ba Lan Jan Kovalevski đã giảng về mã thám ở đây. Các chuyên gia giải mã có đầu óc cải cách dưới sự lãnh đạo của ông đã có được các khả năng giải mã đáng gờm khi mà họ còn sử dụng mật mã của Bộ Ngoại giao Mỹ để huấn luyện.

Trong thập niên 1930, nhân viên của Nhóm Đặc biệt chủ yếu làm nhiệm vụ đọc điện mã của Trung Hoa. Chẳng hạn, họ đã đọc được bức điện mã thông báo các kế hoạch của Trung
Hoa sử dụng không quân tấn công quân Nhật. Thế là quân Nhật liền ra tay tấn công trước và tiêu diệt phần lớn không quân Tưởng Giới Thạch.

Sở dĩ các nhân viên Nhóm Đặc biệt tập trung “sự say mê” của mình chủ yếu vào điện tín  của Trung
Hoa là vì tay nghề của họ không cho phép giải mã các mật mã hải quân và ngoại giao của kẻ thù chính là Mỹ. Chỉ các tình thế thuận lợi không tận dụng được mới là ngoại lệ.

Một trường hợp thuận lợi như thế đã xuất hiện ngày 26 tháng 2 năm 1936 khi hai trung đoàn nổi loạn ở Tokyo và một số nhà hoạt động nhà nước bị treo cổ vì âm mưu làm chính biến. Các chuyên gia mã thám Nhật đã thu được một số lượng lớn điện mã và thu được nhiều từ vốn có thể tìm thấy trong bản rõ các bức điện đó.

Không lâu sau, họ đã đọc được phần lớn điện mã của Mỹ, kể cả các bức điện mã của tùy viên hải quân Mỹ ở Tokyo. Sau đó, Mỹ đã thay đổi các hệ mã của mình và một lần nữa các nhân viên Nhóm Đặc biệt lại không đủ kiến thức toán học để giải mã chúng.

Người Nhật cố bù lấp những khiếm khuyết về kiến thức lý thuyết mã thám bằng sự sáng tạo. Khoảng cuối năm 1937, một nhân viên Nhóm Đặc biệt là Morikawa đã cùng một thợ nguội đột nhập lãnh sự quán Mỹ và chụp ảnh được loại mã gọi là “mã màu nâu” của Bộ Ngoại giao Mỹ và máy mã M-138 mà trước đó người Nhật chưa từng thấy.

Không lâu sau, trong một hành động chuẩn bị chiến tranh, Bộ chỉ huy Hải quân Nhật đã cho xây dựng trạm kiểm thính đầu tiên ở làng Owada, cách Tokyo 50 phút đi xe. Các tài liệu phân tích định vị vô tuyến điện và điện mã trong thời gian diễn ra các cuộc tập trận của Hải quân Mỹ đã giúp Bộ Tổng tham mưu Nhật có được hình dung về hạm đội Mỹ và chiến thuật của nó.

Do các phương tiện liên lạc truyền tin của Mỹ có sự phát triển nhanh chóng sau sự kiện Trân Châu Cảng, Nhóm Đặc biệt đã buộc phải áp dụng các biện pháp nhằm hoàn thiện hoạt động của mình. Nhóm 50 nhân viên mới đầu tiên mà Nhóm Đặc biệt nhận vào làm việc được chọn từ các trường ngoại ngữ và cao đẳng thương mại dân sự. Đợt thứ hai gồm 70 sĩ quan sự bị được chọn theo tiêu chuẩn ngoại ngữ của họ từ 500 người và được đào tạo lại.

Trong vòng năm tháng, các tân binh được nhận vào Nhóm Đặc biệt đã thực hành mã Morse, nghiên cứu các mã sơ đẳng (của Caesar và Vigenere), học cách giải mã các hệ mã phức tạp hơn. Trong những năm Thế chiến II, đã có sáu khoá học viên ra trường. Một số học viên tốt nghiệp đã được cử đến hạm đội và bộ tham mưu các đơn vị để tiến hành hoạt động tình báo vô tuyến điện tử. Tuy vậy, đa số học viên tốt nghiệp các khoá học phục vụ ngay tại Nhóm Đặc biệt.

Một dòng thác lớn điện tín kiểm thính đã đổ về đơn vị mã thám này của Hải quân Nhật. Phần lớn chúng được gửi đến từ hàng trăm máy thu và các máy định vị vô tuyến của trạm kiểm thính ở làng Owada.

Tại đó có một số tù binh Mỹ và Australia bị cưỡng bức làm việc cho tình báo vô tuyến điện tử Nhật. Do thiếu thốn các chuyên gia lành nghề, nên Nhật đã buộc phải nhận vào cơ quan mã thám 30 cô gái trẻ người Nhật gốc Mỹ, điều chưa từng có ở Nhật thời đó.