NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA,
nguyên tác Anh Ngữ “Tears Before The Rain” là một tập sử liệu về sự sụp đổ của
miền Nam Việt Nam, do Larry Engelmann, Giáo Sư Đại Học San Jose State thực hiện
bằng phương pháp phỏng vấn nhiều thành phần: người Mỹ, người Việt, kẻ thắng
người bại …Những cuộc phỏng vấn này khởi sự từ 1985, sách xuất bản năm 1990. Bản
dịch Việt Ngữ do nhà văn Nguyễn Bá Trạc thực hiện năm 1993, xuất bản năm 1995
tại California.
PART 4
CHƯƠNG 17 : TRẺ EM
DƯƠNG QUANG SƠN
“Nước Mắt Trước Cơn Mưa”
.
Đêm nào tôi cũng khóc cho Việt Nam. Tôi nhớ và tôi khóc. Trong
bóng đêm đen, trí nhớ biến thành nước mắt. Những giọt nước mắt cho bố, cho mẹ,
cho các anh chị em tôi, cho tất cả những người đã bỏ đất nước ra đi, cho cả
những người không ra đi được. Tôi không muốn ký ức của tôi mất đi như nước mắt
trong mưa. Nên tôi xin kể cho ông nghe câu chuyện của tôi để ông kể lại cho
những người khác, nhờ thế có thể có nhiều người sẽ biết đến những gì xảy ra ở
Việt Nam. Nhờ thế ký ức của tôi không uổng phí. Nhờ thế ký ức của tôi sẽ là
những giọt nước mắt trước cơn mưa. Vậy xin lắng nghe. Những gì tôi kể rất quan
trọng. Những gì tôi nhớ. Những gì xảy ra cho tôi. Những gì tôi nói đây chính là
những giọt nước mắt trước cơn mưa lũ.
Bố tôi tên Trần Phong. Ông theo Phật giáo, sinh trưởng ở Hải
Phòng, Bắc Việt. Ông đã đi kháng chiến chống Pháp, nhưng khi Cộng sản chiếm miền
Bắc năm 1954, ông di cư vào Nam, định cư ở Sài Gòn. Bố tôi ghét Cộng sản. Bố tôi
yêu Tự Do. Chỉ vì muốn một đời sống Tự Do mà năm 1954 ông đã phải trở thành
người di cư.
Ông rất buồn vì đất nước chia đôi, nhưng ông lại muốn tránh xa
Cộng sản. Mẹ tôi cũng sinh trưởng ở miền Bắc. Cũng di cư vào Nam với bố tôi năm
1954. Bà ngoại tôi, các anh chị em của mẹ tôi đều ở lại ngoài Bắc cả.
Cuộc sống chúng tôi tại Sài Gòn rất tốt đẹp. Bố tôi kiếm được
khá tiền nhờ nghề sửa tàu biển. Trong gia đình, tôi là đứa con bé nhất, nên bố
tôi gọi là thằng “Út”, tiếng Việt nghiã là “đứa con nhỏ nhất”. Tôi có một người
anh, hai người chị. Cô tôi cũng ở chung với gia đình tôi trong một căn nhà rộng
rãi tại Quận Nhứt, Sài Gòn. Tôi học Trung học Công lập, anh tôi đã học Đại học.
Mùa xuân năm 1975, tôi vừa được mười sáu tuổi. Lúc này bọn học trò đều chộn rộn
về chuyện Cộng sản xâm chiếm. Có đứa bàn tán cả chuyện bỏ nước ra đi. Nhiều hôm
trên đường tan trường về, tôi thấy người ta đứng xếp hàng dài để xin giấy tờ
hoặc đổi tiền ra khỏi nước.
Có một buổi anh tôi ở Đại học về, bố tôi bảo hai anh em tôi
rằng bố tôi muốn đưa hai đứa ra khỏi nước một thời gian. “Chúng mày hãy còn bé”.
Bố tôi nói “Chúng mày còn có tương lai. Khi nào yên ổn, các con lại về”. Bố tôi
nghĩ chúng tôi nên sang Mỹ học, khi trở về, tương laì chúng tôi sẽ khá hơn.
Nhưng bấy giờ ra khỏi Việt Nam là việc thực khó, nên suốt một thời gian, hai anh
em tôi chẳng ai tin là sẽ đi được.
Tôi có một thằng bạn thân tên là Quang. Chị nó tên Hương làm
thư ký Tòa Đại sứ Mỹ. Thằng Quang bảo tôi là chị nó có thể đưa chúng tôi đi
được. Người Mỹ đã hứa cho chị nó cùng thân nhân ra khỏi Việt Nam. Nếu chúng tôi
muốn đi, chị nó chỉ cần thêm tên vào danh sách là xong.
Chúng tôi nói thế thì tốt quá. Chị ấy bèn đến nói với thượng
cấp cũng là người Việt – rằng chị có hai chú nhỏ muốn rời Việt Nam nhưng không
có họ hàng gì. Chị muốn đánh thêm hai tên này lên danh sách, chẳng biết có được
hay không? Cấp trên của chị bảo rằng được.
Thế là sau khi đã cho tên chúng tôi vào đanh sách, chị ấy bảo
chúng tôi phải sẵn sàng, đêm ngày gì cũng vậy, có thể đi bất cứ lúc nào. Chị
cũng bảo chị sẽ cho biết địa điểm và lịch trình chuyến đi.
Thế là mười giờ sáng ngày 28 tháng Tư, chị Hương đến nhà nói
với tôi: “Sơn ạ, em sửa soạn ngay. Một tiếng đồng hồ nữa phải đi.” Chị cho chúng
tôi biết phải đến chỗ nào. Xe buýt sẽ đưa chúng tôi ra phi trường. Chúng tôi chỉ
được phép mang theo mỗi người một túi áo quần. Chúng tôi chẳng có thời giờ từ
biệt ai cả. Tôi chỉ còn kịp bảo: “Bố ạ, con thương bố lắm. Con phải đi ngay bây
giờ”. Sáng hôm ấy bố mẹ tôi đều khóc. Bố mẹ tôi căn dặn anh tôi: “Con phải săn
sóc thằng ‘Út’ cho cẩn thận”.
Bố tôi lái xe chở chúng tôi đến địa điểm đón xe buýt. Chúng
tôi chẳng có giấy tờ gì đặc biệt, cũng không rõ họ sẽ hỏi han gì. Đến một cao ốc
lớn, chung quanh có hàng rào, gõ cửa, một người đàn ông mở cho chúng tôi vào.
Ông này có một danh sách. Tên chúng tôi có trong danh sách rồi. Khi qua khỏi bờ
rào, chúng tôi ngạc nhiên, bên trong là một cái sân rất rộng đã đầy người đợi.
Những người ấy từ khắp nơi, nhiều người rải rác tận các tỉnh ngoài Trung, khoảng
ngàn người có mặt. Tôi hỏi thăm vài người xem họ ở đâu đến. Người thì bảo Đà
Nẵng. Người thì bảo Nha Trang. Chúng tôi không gặp người quen nào cả, hình như
chẳng ai ở Sài Gòn ngoại trừ hai anh em chúng tôi.
Lúc ấy lòng tôi sướng vui rộn rã. Tôi hãy còn nhỏ, tôi không
phải sống dưới chế độ Cộng sản, tôi sẽ được đi học ở Mỹ, khi nào hết Cộng sản
thì tôi trở về Sài gòn.
Chúng tôi đợi trong sân không lâu thì họ gọi tên. Hai anh em
tôi đi ra cổng. Ngoài ấy có tài xế xe buýt đang đứng kiểm người trong danh sách.
Lên xe buýt, chúng tôi không tin nổi. Chúng tôi là những người đầu tiên ở trong
sân được gọi đi. Hai anh em mỗi người một cái túi, chẳng tiền bạc gì. Bố tôi đã
dặn khi đến thì gọi điện thoại, bố tôi sẽ gửi tiền sang vì chúng tôi dự định sẽ
đến California ở với một người quen.
Người ta chở chúng tôi ra phi trường. Phi trường đông nghịt
người, mặt trời nóng hừng hực. Chúng tôi ra khỏi xe, đứng một bên chờ trong
khung cảnh ồn ào ấy: Máy phóng thanh oang oang gọi tên người, hàng quà, hàng
nước, người bán hàng rong rao inh ỏi. Bọn đổi tiền lăng xăng gạ gẫm. Nhiều người
đứng khóc. Người ta choáng váng chẳng rõ mọi việc ra sao, rồi đây sẽ đến nơi
nào.
Chúng tôi cũng chẳng rõ mọi việc ra sao, nhưng đột nhiên máy
phóng thanh kêu tên. Ngạc nhiên, tôi hỏi vài người ở đấy xem họ đã đợi bao lâu.
Có người bảo: “Cả tuần lễ rồi”. Có người thì hai, ba ngày. Tôi đang nghĩ có lẽ
chẳng bao giờ tới lượt anh em chúng tôi, thì chợt họ gọi tên, đưa chúng tôi ra
Trạm khởi hành.
Họ khám người, khám hành lỷ. Họ bảo anh em chúng tôi đứng sắp
hàng. Một lúc sau, họ dẫn chúng tôi ra máy bay. Bên ngoài máy bay có hai quân
cảnh Việt Nam đứng gác để ngăn ngừa những người đào ngũ chạy ra khỏi nước. Họ
nhìn mọi người một cách cẩn mật, nhưng không hỏi gì chúng tôi. Anh em chúng tôi
bước vào máy bay.
Tôi tưởng là một cái máy bay đàng hoàng, nào ngờ chỉ là một
chiếc C-130. Chúng tôi vào theo lối đàng đuôi, bên trong không có ghế. Chúng tôi
phải ngồi chen chúc trên sàn như cá hộp. Lúc ấy cửa sổ còn mở, chợt bên ngoài
vang lên một tiếng nổ lớn, tôi hoảng hốt nghĩ: “Trời ơi, cái gì thế”. Một tiếng
nổ thật lớn ngay đằng sau máy bay.
Chiếc máy bay chuyển dịch. Chạy, trong lúc cửa còn mở. Tôi
nhìn qua cửa thấy người ta chạy khắp bốn phía, nã đạn lên trời. Họ đều có vẻ
hoảng hốt. Những người bên cạnh tôi trong máy bay rú lên kêu khóc. Vài người bắt
đầu cầu nguyện lớn tiếng. Tôi nắm lấy anh tôi mà bảo: “Cầu cho máy bay này đừng
rớt”.
Người ta vẫn không có thì giờ đóng cửa. Chiếc máy bay chạy
trên phi đạo nhưng cửa vẫn còn mở. Khi máy bay cất cánh, chúng tôi có thể nhìn
rõ qua phiá sau, dưới đất người ta chạy toán loạn với hàng trăm tiếng nổ. Trong
lửa đạn, cả phi trường đắm trong cơn điên loạn.
Theo sau chúng tôi một chiếc C-130 nữa tiến tới. Chỉ vài giây
sau khi chúng tôi cất cánh, nó bốc lên theo. Tôi nghĩ đây là hai chiếc máy bay
cuối cùng cất cánh từ Tân Sơn Nhất. Chúng tôi may mắn quá.
Lúc chúng tôi rời Sài Gòn, một người lính Mỹ đứng trấn ở cửa
sau máy bay ôm súng bắn xuống đất. Máy bay cất lên rồi, anh ta vẫn cứ bắn. Bên
trong máy bay, nhiều người khóc om sòm. Lúc nhìn người lính Mỹ đang bắn, tôi tự
hỏi chẳng biết anh ta bắn gì. Tôi nghĩ anh ta đang cố chứng tỏ sức mạnh của
người Mỹ một lần cuối cùng. Tôi nghĩ anh ta muốn bảo mọi người, với khẩu súng,
là: “Đừng bắn vào phi cơ chúng tôi! Đừng lộn xộn với cái phi cơ này! Bọn này là
Mỹ đây. Trên phi cơ có súng – tránh ra. Để chúng tôi yên!” Nhưng tôi chỉ đoán
thế. Tôi không nghĩ anh ta biết được chuyện gì đang xảy ra. Tất cả chúng tôi lúc
ấy đều thực rối ren.
Dẫu sao, đó là hình ảnh cuối cùng tôi thấy ở quê nhà. Trong
lúc máy bay cất cánh tôi đã thấy hình ảnh Việt Nam với một người lính đang cầm
súng bắn vào đất nước ấy. Chúng tôi hạ cánh ở Phi Luật Tân, tại Phi trường
Clark. Người ta đưa chúng tôi đến một nhà kho rất lớn, người Mỹ đã sắp đặt mọi
thứ chu đáo làm chúng tôi ngạc nhiên. Họ đưa chúng tôi vào một khu chuyển tiếp
khá rộng rãi, có cả máy truyền hình, giường nệm đầy đủ. Ngày hôm sau, người ta
bảo Cộng sản đã chiếm Sài Gòn. Chúng tôi đều bàng hoàng. Chúng tôi lo lắng chẳng
rõ gia đình ra sao. Bố mẹ thế nào. Cuộc đời chúng tôi khi đến đất nước Hoa Kỳ đi
đến đâu. Bao nhiêu câu hỏi nảy ra trong tâm trí anh em tôi.
Chúng tôi xem tin trên truyền hình, nhìn cảnh Bộ đội Cộng sản
tiến vào Sài Gòn. Nhiều người khóc khi thấy cảnh đó. Anh em tôi cũng khóc. Gia
đình chúng tôi vẫn còn ở Việt Nam. Anh em tôi nhìn nhau tự hỏi: “Rồi ngày mai,
cuộc đời chúng tôi sẽ ra sao?”
NGUYỄN THỊ
HOA
“Má ơi, con đi
bây giờ đây. Con sẽ làm cho má hãnh diện vì con”
Tôi lớn lên ở Saigon. Ba má tôi mở một quán ăn nhẹ, một quán
cafeteria bán cho Mỹ. Nhưng khi Mỹ rút vào năm 1973, ba tôi mất cái quán vì
chẳng còn buôn bán gì được. Không đủ khách. Ba tôi cũng bảo nhiều người Mỹ đã
quỵt tiền, họ ăn đến cuối tháng mới trả, nhưng lúc đi, họ không thanh toán nên
ba tôi thua lỗ, mất luôn chỗ buôn bán. Từ đó ba tôi trở nên chua cay, không còn
thích người Mỹ nữa. Ba má tôi phải tìm việc khác. Chúng tôi cũng không còn được
sống đầy đủ như trước.
Vào khoảng mùa Xuân năm 1975, bạn tôi và tôi rất sợ chuyện
Cộng sản chiếm Saigon. Người ta kể Cộng sản sẽ giết hết mọi người giống như
chúng đã làm hồi năm 1968 ở Huế. Tết năm ấy chúng đã giết 3,000 người mà chẳng
có lý do. Chúng trói giật cánh khuỷu, bắn vào đầu họ. Cho nên chúng tôi rất sợ
hãi.
Ba tôi không sợ. Ông bảo toàn chuyện tầm phào. Ông nói Cộng
sản có chiếm thì cũng chẳng có chi thay đổi. Tôi không tin, tôi muốn đi khỏi
nước, em gái tôi cũng vậy. Nhưng ba tôi nói: ’’Không đứa nào đi đâu hết nghe.
Chẳng chết chóc gì mà lo. Tụi bay không nghe người ta nói sao? Cộng sản không
đụng chạm gì tới bay đâu!”
Tuy nhiên, tôi vẫn quyết ra đi. Trước, tôi trù tính đi với anh
tôi, nhưng rồi ảnh đổi ý, ở lại. Tôi bèn quyết định đi với em gái tôi. Lúc ấy,
tôi mới có mười sáu. Em tôi tên Nguyễn Thị Thiết, kém tôi hai tuổi.
Đầu tiên phải kiếm đường dây, tất nhiên tôi không có tiền bạc
gì. Nhưng tôi kiếm được một người bạn tên là Nguyễn Thị Xuân. Cha mẹ bạn tôi là
chủ tàu. Bạn tôi bảo nếu chị em chúng tôi muốn đi, nó cho đi, khỏi cần tiền
nong. Tôi nói tôi muốn đi. Bạn tôi bảo vậy khi nào đi, nó sẽ kêu.
Sáng 29 tháng Tư, bạn tôi kêu tôi đi. Nó biểu tụi tôi ra một
góc đường sẽ có xe tới chở xuống bờ sông Saigon. Tôi và em gái tôi mỗi đứa đem
theo một túi quần áo, hai chị em phải lén ra khỏi nhà vì ba tôi đâu có muốn cho
đi. Do đó chúng tôi không chào ba tôi. Nhưng chúng tôi đi tới tiệm ăn, nơi má
tôi làm. Bả nào có biết hôm đó chúng tôi đi. Tôi nói với má tôi rằng: “Má ơi,
con đi bây giờ đây. Con sẽ làm cho má hãnh diện vì con”. Má tôi ôm hôn tôi, ôm
hôn em gái tôi, má tôi nói “Thôi được. Má cầu Trời khấn Phật cho các con được
mọi điều tốt lành”. Lúc đó má tôi thiệt cứng cỏi, bả không khóc khi nói lời từ
biệt. Nếu lúc đó má tôi khóc chị em chúng tôi cũng ở lại rồi, có lẽ má tôi biết
nhưng bà muốn cho chị em chúng tôi đi. Tên má tôi là Trần Thị Thanh. Má tôi đã
giúp cho tôi có đủ nghị lực mà ra đi.
Chị em chúng tôi tới góc đường, nơi hẹn xe tới đón. Chúng tôi
đợi hoài đợi hủy, xe không thấy tới. Em gái tôi biểu rằng: “Để em đi kiếm điện
thoại kêu thử xem họ có tới không rồi quay về”. Em tôi bỏ túi quần áo lại, đi
kiếm điện thoại. Khi em tôi đi thì xe tới. Trên xe đầy nhóc người ngồi. Tôi năn
nỉ người tài xế chờ em tôi thì ông ta nói chẳng có cách gì: “Bây giờ mà chờ thì
hết đi nổi”. Ông biểu vậy, nên tôi đành vô trong xe, bỏ quần áo em tôi lại trên
vỉa hè. Lúc ấy, tôi vừa bấn loạn, vừa kinh hoảng vì không có em tôi.
Khi tới bờ sông, mọi người đều phải xuống tàu thiệt lẹ. Vào
lúc bối rối như vậy, tôi mất luôn túi quần áo. Như vậy tôi chỉ còn một bộ quần
áo trên người mà đi khỏi nước. Chiếc tàu chúng tôi đi tên là tàu Tân Nam Việt.
Tàu này lớn lắm, chở được tới năm sáu trăm người. Tôi thầm mong cho em tôi tới
kịp trước khi tàu đi, nhưng em tôi không bao giờ đến được nữa.
Khi tàu chạy, tôi rất sợ. Nhiều người đứng trên boong nhìn
Việt Nam lần cuối. Hình ảnh cuối cùng là bãi biển Vũng Tàu, nhưng tôi không nhìn
lui nữa vì buồn quá. Tôi đã bỏ hết mọi thứ lại nhà, chẳng biết từ nay trôi nổi
tới đâu.
Sau này tôi được tin em tôi cũng cố tìm cách đi nữa nhưng bị
bắt lại. Nó bị nhốt tù. Ra khỏi tù, nó lại đi nữa, rồi lại bị bắt nữa. Lần này
nó bị nhốt vô một nhà giam đặc biệt. Nó vẫn còn kẹt lại ở Việt Nam.
TRẦN TRÂM
“Nhìn họ kìa, toàn những thiên
thần”
Tôi chưa bao giờ từng thấy quê hương tôi có hoà bình. Lúc nào
cũng chỉ thấy lính, hoặc lính Việt, hoặc lính Mỹ. Bấy giờ tại Saigon, xóm tôi có
hai căn nhà to lớn, kín cổng cao tường, bên trong có hồ bơi và đủ các tiện nghi
giải trí. Người ta gọi đây là những biệt thự cho Mỹ ở. Những cánh cổng luôn luôn
khoá kỹ. Thỉnh thoảng vài người Mỹ mở cổng cho những người Mỹ khác ra vào, rồi
cánh cổng lại đóng chặt. Tôi nhớ khi còn nhỏ tôi vẫn tò mò đến nhìn. Họ có nuôi
những con chó to để canh gác. Mỗi lần cửa mở, bọn trẻ lảng vảng đến gần nhòm
ngó, nhưng khi chó ầm ĩ sủa thì ù té chạy. Đó là một trò chơi cho bọn chúng tôi.
Đó là một nơi đầy bí mật. Và đối với lính Mỹ, lũ trẻ con cũng rất thân thiện.
Chúng tôi thường vẫy tay mà nói “Hê lô, Salem”, như tên thuốc lá vậy. Họ cũng
tươi cười vẫy tay. Lúc ấy chúng tôi ré lên mà chạy. Tôi kể cho ông nghe chuyện
ấy bởi vì cuối cùng, khi đi khỏi Việt Nam, tôi đã từng rất ghét Mỹ. Những cảm
xúc của tôi trải qua trạng thái biến đổi ngược ngạo chỉ trong thời gian ngắn, và
tôi không biết chính xác tại sao đã xảy ra như vậy.
Cha tôi làm ăn với Mỹ bằng nghề may cờ. Một hôm, có mấy người
Mỹ đến đặt cha tôi may khá nhiều cờ cho các đơn vị của họ. Họ muốn thêu hình con
chó Snoopy lên mấy lá cờ. Họ đưa cho cha tôi xem tấm hình con chó Snoopy. Cha
tôi bảo cái hình này xấu quá, người vẽ này chả biết vẽ con chó ra làm sao. Nên
ông bảo để đó, ông sẽ vẽ lại. Lúc đầu, mấy người Mỹ đồng ý. Suốt ba, bốn ngày
sau cha tôi cặm cụi vẽ một loạt hình đủ thứ chó. Rất giống. Con nào con nấy đều
dữ dằn để thêu lên mấy lá cờ. Ông đắc ý, chắc mẩm họ phải thích công trình của
ông lắm, những cái hình này giống hệt như chó thật. Nhưng mấy người Mỹ không
thích chút nào. Họ kêu lên: “Không phải! Chúng tôi muốn con Snooopy kia!” Cha
tôi không thể hiểu tại sao họ thích cái hình một con chó như thế. Chó mà chẳng
giống chó, tức cười quá. Dầu bất mãn ra mặt, ông vẫn phải đồng ý làm cho họ một
loạt cờ khác với hình chó Snoopy. Sau này cha tôi bình phẩm rằng bọn Mỹ không
thích người Việt. Chúng không biết kính trọng các binh sĩ Việt Nam đang chiến
đấu dưới lá cờ của họ. Bọn Mỹ có thể xông pha ra chốn hiểm nghèo để chết cho con
chó Snoopy, chứ không phải cho người Việt Nam.
Rồi họ lại đặt ông làm một lá cờ Mỹ cỡ lớn. Cha tôi nghe nói
hai Tiểu bang Hawaii và Alaska đã nhập vào Hiệp Chủng Quốc, ông muốn làm cho họ
một lá cờ tân tiến, gồm đủ các tiểu bang mới. Cho nên ông cẩn thận cải tiến tấm
hình lá cờ Mỹ họ giao cho ông. Ông nghĩ tổng cộng có 52 tiểu bang thì phải mang
đủ 52 ngôi sao. Suốt mấy đêm, ông thức trắng để xếp đặt 52 ngôi sao cho được cân
đối. Khi mấy người Mỹ đến nhận hàng, họ thấy có chuyện trục trặc, nhưng loay
hoay chẳng rõ tại sao. Họ đếm mấy ngôi sao. Té ra có tới 52 ngôi sao tất cả,
nhưng đành lấy vậy. Cho nên, lúc ấy ở một chỗ nào đó tại Việt Nam, có những
người Mỹ đã treo lá cờ 52 ngôi sao cả thảy mà đứng chào.
Cha mẹ tôi là người Bắc di cư, rất chống Cộng. Người miền Bấc
biết rõ Cộng sản, họ đã sống dưới chế độ ấy. Phần tôi mặc dầu nghe nói Cộng sản,
Cộng sản, nhưng chưa bao giờ thấy mặt mũi Cộng sản ra sao, cho đến trước khi
chiến tranh chấm dứt. Tôi cũng nghe những chuyện Cộng sản hay lén lút vào thành
phố bí mật phao tin đồn, nhưng tôi chưa gặp gỡ tiếp xúc Cộng sản bao giờ. Tôi
cũng chưa bao giờ nhìn thấy một xác chết nào tại Saigon cả.
Gia đình tôi là một gia đình âm nhạc, chỉ vì thích âm nhạc,
chứ không hẳn giỏi nhạc. Sài gòn bấy giờ có một Nhạc sĩ nổi tiếng là ông Lê Văn
Khoa, ông đã để ý đến gia đình tôi, vì các cô tôi thích nhạc. Ông sử dụng hết
mọi người trong gia đình tôi vào các sản phẩm âm nhạc của ông. Ông dạy một số
bản nhạc cho tất cả lũ trẻ chúng tôi, các cô tôi, cả mẹ tôi. Ông dạy chúng tôi
một số bản vũ cổ truyền Việt Nam. Chúng tôi cũng tự chế ra một số bản vũ riêng.
Thế rồi ông đưa tất cả chúng tôi đến các nhà thương, lúc đầu ở Saigon; sau, ra
các vùng quê, nơi quân đội đóng. Chúng tôi đi đến các địa điểm mỗi lúc một xa
Saigon hơn để giải trí cho binh sĩ. Có những bệnh viện ở các vùng quê chỉ là
những dãy lều được dựng vội lên cho các thương binh.
Thỉnh thoảng chúng tôi đi trực thăng, đôi khi bằng xe Jeep.
Đến những nơi đó, chúng tôi đều được giới thiệu với các thương binh, các bác sĩ
mặc đồng phục. Đa số thương binh không bị nặng lắm, và đang bình phục. Những
người đang bình phục thường đến lều thăm chúng tôi, đôi khi chúng tôi cũng đến
tận lều họ để cho họ phấn khởi. Chúng tôi thường hát những bài ca vui tươi và
luôn luôn được mọi người tán thưởng. Tôi cảm thấy đây là giai đoạn lãng mạn nhất
đời tôi. Tôi cảm thấy mình là một thiên sứ mỗi khi trình diễn trong bộ đồng phục
học sinh hoặc trong bộ quần áo trắng tinh. Tôi luôn luôn thích quần áo màu trắng
vì tôi thấy mình như một nàng tiên bé nhỏ mỗi khi trình diễn.
Tuy nhiên, không khí ở đây làm người ta choáng váng. Mùi hôi
hám bốc lên khủng khiếp, thường trời rất nóng. Nhưng tôi vẫn không để ý, vì tôi
đã sung sướng ngất ngây khi được làm nàng tiên bé nhỏ cho các chàng chiến sĩ.
Nên một bên là nỗi buồn bã khi nhìn thấy cái đau đớn, bên kia chúng tôi đóng vai
vui sướng để tạo ra và tiếp nhận nguồn vui.
Ở Việt Nam, tuổi thơ được xem là thời gian của niềm vui và
hạnh phúc. Những chiến sĩ muốn tin rằng vì sự hy sinh của họ, vì sự đau đớn của
họ mà các thiếu nhi Việt Nam vẫn được sung sướng. Cho nên tôi đáp ứng lòng mong
ước ấy bằng cách rũ bỏ đau buồn của riêng tôi, mà dù trong thâm tâm cảm thấy,
tôi vẫn không lộ ra cho họ biết.
Suốt thời thơ dại của tôi, tôi không biết chuyện gì khác ngoài
chiến tranh. Trên một mức độ, tôi đã tự bảo cuộc sống là như thế, đời là thế, vì
tôi nào biết một cuộc sống khác đâu. Trên lý thuyết, tôi có thể phỏng đoán: có
lẽ còn có những gì khác nữa. Nhưng tôi luôn chịu đựng một nỗi buồn trong thâm
tâm, tôi chấp nhận như chẳng thế nào còn cách khác. Khi đến Mỹ, thấy như chẳng
ai buồn khổ, thì nỗi buồn riêng tư trong tôi lại càng thấm thía sâu đậm hơn. Đến
nỗi, có lúc tôi từng muốn hủy mình. Tôi cũng đã nói chuyện với nhiều người khác
muốn tự tử sau khi tới Mỹ. Tôi nghĩ nhiều người Việt Nam cũng có một tâm trạng
như tôi, nhưng chỉ vì tự ái mà không nói ra thôi.
Có một lần, trước buổi du ca của chúng tôi, chẳng may tôi đạp
phải một cái đinh, sắp tham dự một buổi trình diễn lớn thì vết thương tấy mủ.
Tôi bực bội vì muốn đi trình diễn mà vết thương đau quá. Cho nên tôi chịu đựng
nó. Tôi sống với cái đau. Đến lúc đi, vết thương làm độc, trời nắng nóng, tôi
đau và cái đau lộ liễu quá. Tôi cảm thấy lần đầu tiên trong đời tôi đã đau cái
đau của những người lính. Tôi đau đớn mà vẫn phải giả tảng như không. Đấy, biết
bao người lính đã sống cuộc đời như thế. Và tôi nghĩ, dầu hãy còn là một đứa bé
con, tôi đã cố chia sẻ cái đau của những người lính trẻ. Lúc ấy thực khó khăn
cho tôi. Tôi cảm thấy nỗi đau và những bất hạnh xảy ra khắp chung quanh, nhưng
mọi người vẫn mong đợi ở tôi, một đứa bé gái vui tươi hạnh phúc.
Năm 1973 tôi nghe người ta đoán sau khi Mỹ rút, Việt cộng sẽ
tấn công trở lại. Chẳng ai tin Việt Cộng sẽ tôn trọng Hiệp định Ba Lê. Có lẽ, Mỹ
thì tin, ngoài ra chẳng ai tin cả. Sau khi Mỹ rút, hai căn biệt thự trong xóm
tôi không còn lính Mỹ nữa. Bây giờ vẫn còn Mỹ ở, nhưng là Mỹ dân sự. Tôi tin
Việt Cộng sẽ tấn công, nhưng tôi không sợ. Tôi luôn luôn tin phe chánh thắng phe
tà. Tôi luôn luôn tin Cộng sản sẽ thua, và đến bây giờ mới nghĩ rằng quả đó chỉ
là nhãn quan của đứa trẻ nhìn ra thế giới. Tôi đã được dạy rằng bên ngoài có một
lực lượng tốt, đó là Hoa Kỳ. Họ giúp đỡ chúng tôi, đặc biệt vì chúng tôi là
những người bị tấn công chứ chúng tôi không tấn công ai. Chúng tôi là những
người bị xâm lấn. Dẫu cho họ có được một số trận chiến thì cuối cùng chúng tôi
vẫn thắng thôi.
Vào năm 1975, hầu hết mọi người trong gia đình như các cô chú
tôi đều đã ra đi từ đầu tháng Tư. Nhà cửa trống rỗng. Bà tôi bắt đầu đem đốt tất
cả thư từ giấy tờ chứng tỏ chúng tôi có liên hệ đến chính quyền. Tất cả những gì
Việt Cộng có thể thấy quá khứ chúng tôi, bà nhặt nhạnh đốt hết. Khi thấy bà lặng
lẽ ngồi đốt giấy tờ, tôi hỏi bà ơi tại sao bà đốt. Bà không trả lời, nhưng rồi
tôi cũng hiểu. Chúng tôi thiêu hủy mọi hình ảnh, tất cả, kể cả giấy tờ khai
sinh. Bây giờ hồi tưởng lại, tôi vẫn còn nhớ căn nhà đã trở nên trống trải,
nhiều người thân thích đã ra đi, những lá thư ra tro bụi, tất cả đã đổi thay hết
cái không khí và tình cảm gia đình. Đó là lúc tôi ý thức được chúng tôi đã thua
và chuyện ấy thực là trầm trọng.
Nhiều thân nhân tôi đã ra khỏi nước, đến được đảo Guam trên
đường sang Mỹ. Mấy bà cô tôi làm cho Mỹ, tôi biết chắc chắn họ cũng sẽ ra đi.
Những người ra đi không hề một lời từ biệt. Chỉ thấy một hôm, bỗng nhiên họ biến
mất.
Tôi trở nên sợ hãi. Tôi nhớ tôi đã bật khóc vì không muốn phải
đối diện với nỗi đe doạ Cộng sản tiến đến Saigon. Tôi lại còn sợ những gì đã xảy
ra ở miền Bắc rồi đây sẽ xảy cho chúng tôi. Con người sẽ dòm ngó nhau, kiểm soát
nhau. Trẻ con sẽ rình mò báo cáo cha mẹ. Cuộc sống mà chúng tôi đã biết trong
quan niệm tự do rồi đây sẽ tan rã hết. Chúng tôi ngưng đến trường. Lúc nào cũng
luẩn quẩn ở nhà vì giới nghiêm.
Tôi được gia đình dặn kỹ là không được hở môi từ biệt ai, như
thế nếu lỡ không đi được thì cũng không bị kết tội bỏ nước. Chúng tôi giữ mọi
thứ bí mật.
Vào ngày gia đình quyết định đi, tôi đang ở trong nhà thờ. Cha
mẹ tôi kiếm tôi khắp nơi không ra. Sáng hôm ấy tôi đến nhà thờ, ở lại suốt ba
Thánh lễ Chủ Nhật. Cho nên cha tôi đành bảo mẹ tôi mang hết mấy đứa trẻ đi
trước, ông sẽ cố đi sau với tôi. Lý luận của cha tôi là hai người sẽ có nhiều cơ
may hơn là cả chín người túm tụm với nhau.
Tôi rất sùng đạo. Suýt có lần đã trở thành nữ tu. Tôi rất sợ,
và trong buổi rước lễ, tôi nghĩ tôi rất gắn bó với ngôi Thánh đường. Trong hai
buổi lễ đầu, tôi đến giúp nhà thờ góp tiền quyên, rồi trong khi hành lễ, tôi coi
hộ xe gắn máy cho các tín hữu khỏi bị mất cắp. Tới Thánh lễ thứ ba, tôi bước
vào. Trong lúc đang ngồi, chợt một người bạn quen bước đến. Vừa thấy anh, đột
nhiên tôi cảm thấy rồi đây chẳng bao giờ tôi còn được nhìn lại khung cảnh này
nữa. Linh tính đã báo cho tôi biết. Tôi hiểu là anh tìm đến tôi. Anh lại gần nói
thầm vào tai tôi làm tôi đứng sững. Anh ta bảo “gia đình đang tìm cô”. Tức khắc
tôi hiểu chúng tôi sẽ ra đi. Hôm ấy là Chủ Nhật 27 tháng Tư.
Người bạn bảo lên xe gắn máy để anh chở đi, nhưng tôi từ chối.
Tôi chạy một mạch về nhà. Tôi nhảy ngay lên chiếc xe Vespa của cha tôi, chúng
tôi cố đuổi theo cho kịp những người trong gia đình đã ra đi. Suốt một tháng
trường, chúng tôi đã gói ghém quần áo sẵn sàng để phòng bị ngày ra đi. Chúng tôi
chạy đến một điểm đón xe buýt ra phi trường. Một người cô tôi đáng lẽ đã có thể
đi từ trước, nhưng tình nguyện ở lại, cô biết nếu không có cô giao dịch mọi
chuyện thì gia đình tôi không thể nào đi được. Cả gia đình tôi chắc chắn không
cách gì ra đi, nếu cô không ở lại giúp đỡ chúng tôi.
Vài tuần lễ trước, một người cô khác bảo người cô này đến sở
bà để dọn dẹp bàn làm việc của bà, rồi bất cứ có món gì đáng giá để lại cứ việc
lấy. Vì thế bà cô này đã đến dọn dẹp cái bàn làm việc ấy. Tại văn phòng này có
một ngưòi Mỹ vừa đến Việt Nam được có một ngày. Ông tưởng cô tôi là nhân viên
trong văn phòng nên ông sai phái cô tôi đủ thứ việc. Chừng đến giữa ngày, ông
hỏi cô tôi một số giấy tờ, cô tôi trả lời chẳng biết đâu. Ông ta quát mắng, bảo
tại sao làm việc ở đây mà không biết gì. Cô tôi bảo là chỉ đến lau chùi hộ cái
bàn làm việc cho người chị, chứ đâu có làm ở đây. Ông ta áy náy xin lỗi, nói với
cô tôi rằng nếu cô chịu ở lại làm việc với ông thì bù lại, ông ta sẽ đưa cho cả
gia đình ra đi.
Đó là nguyên do đã giúp gia đình tôi ra khỏi nước. Tôi vừa vui
vừa buồn lẫn lộn. Buồn vì mặc dầu mới mười ba tuổi đầu nhưng đã đủ lớn khôn để
hiểu việc rời bỏ đất nước ra đi là việc quan trọng đến đâu. Nhưng tôi cũng mừng
vì tôi cảm thấy như thế là tôi sống sót.
Chúng tôi bắt kịp những người khác trong gia đình tại cao ốc,
nơi xe buýt đến đón chúng tôi. Chúng tôi kẹt lại đó cho đến tận ngày 28. Chúng
tôi ở trong cao ốc đợi, mãi đến sáu giờ chiếc xe mới tới. Chúng tôi suýt đã định
về nhà nếu cha tôi không cản lại, bảo rằng ông đã mất công tìm kiếm mọi người
suốt một buổi sáng. Cha tôi bảo tất cả phải ở lại, dẫu có ngủ đêm ở đấy cũng vẫn
phải ở. Cách gì đi nữa, mọi người cũng phải ở sát bên nhau. Có một số người mất
kiên nhẫn, họ đã ra về trước khi xe buýt tới.
Phi trường xảy ra vụ pháo kích đúng đêm 28. Người ta chạy túa
ra núp ở mấy hầm cát. Nhưng cha tôi nói: “Bây giờ không được lạc nhau nữa. Nếu
bom rơi trúng hầm cát thì cũng vậy thôi”. Do đó chúng tôi cứ chụm lại với nhau
giữa trời đất. Chúng tôi không thấy máy bay, nhưng thấy lửa cháy và những vụ nổ
tung lên.
Đối với trẻ con, chuyện đó rất kích thích. Tôi không đến nỗi
quá sợ mà lại thấy hào hứng. Chỉ sau này khi đã đến Hoa Kỳ, sống trong cuộc sống
an bình tôi mới bắt đầu nghĩ chiến tranh là chuyện bất thường. Nhưng lúc đó,
chiến tranh là những gì rất bình thường đối với tôi, cho nên vụ pháo kích lại
làm tôi sôi nổi.
Một năm sau khi đến Mỹ, chúng tôi tới phố Tàu ở San Francisco
dự Tết Nguyên Đán, em tôi chợt vụt chạy, ré lên khóc. Lúc ấy em tôi mới năm
tuổi. Nó vừa khóc vừa bảo: “Pháo kích! Pháo kích!” Tôi mới biết chuyện ấy chỉ
hào hứng với tôi, nhưng với em tôi thì không hào hứng chút nào. Không phải chỉ
có pháo kích mới làm tôi sôi nổi. Mọi thứ đã lẫn lộn pha trộn nhau trong những
ngày tháng đó: Sướng vui pha lẫn kinh hoàng. Nửa này nửa nọ làm cho mọi cảm giác
của tôi chia xẻ ra từng mảnh.
Đêm hôm ấy chúng tôi ở trong phi trường Tân Sơn Nhất. Ngày hôm
sau, cuối cùng chúng tôi đi được bằng trực thăng. Chúng tôi thấy những người
Thủy quân Lục chiến Mỹ từ trực thăng đổ tới phi trường. Tôi phải nói lính Thủy
quân Lục chiến Mỹ rất đẹp. Tôi chăm chú nhìn khi họ đến. Bấy giờ ý nghĩ của tôi
là: “Nhìn kìa! Toàn những Thiên Thần!” Đối với tôi, họ thực đẹp đẽ, bởi vì họ đã
đến để giải cứu chúng tôi.
Cả gia đình chẳng ai biết nói tiếng Anh ngoài cô tôi, nên
chẳng ai chuyện trò gì được nếu cô tôi không phiên dịch. Trong phi trường, người
rất đông, tôi quan sát hết mọi gia đình. Việc quan sát các gia đình khác đối với
tôi còn thú vị hơn là nghĩ ngợi về chính mình lúc bấy giờ.
Tôi thấy một bà bụng chửa rất to đi cùng với ông chồng. Mỗi
lần di chuyển, lại thấy ông chồng nhét một mớ tiền dưới bụng bà vợ chửa, rồi
dùng băng keo dán lại. Nhìn thấy như vậy khá mắc cỡ nhưng cũng thú vị. Đấy là
lần đầu tiên trong đời tôi thấy rõ bụng đàn bà chửa, và thấy một người đàn ông
lấy băng keo dán tiền dưới bụng bà. Bà ta chắc sẽ sanh đứa nhỏ trên tàu, vì lúc
ấy bụng chửa đã lớn lắm rồi.
Đêm hôm ấy chúng tôi đổi chỗ hoài vì có nhiều đàn ông trong
tuổi lính. Nếu Cộng sản đến, họ bị bắt, mà Cộng Hoà đến thì cũng chẳng tha. Ông
xếp Mỹ của bà cô tôi lúc ở phi trường cũng tận tình săn sóc chúng tôi. Ông rất
tử tế, nhưng tôi không nhớ được tên ông ta. Lúc ấy tên Mỹ đối với tôi xa lạ quá.
Trẻ em đều im lặng vì chúng tôi cảm thấy được là tình hình
nghiêm trọng. Người Mỹ mang cho chúng tôi đồ hộp. Khi họ đi rồi, đồ ăn vung vãi
khắp phi trường. Tôi còn nhớ một miếng phô mai to tướng bỏ lại. Trước kia mấy
thứ ấy ở Saigon đắt kinh khủng, giờ đây trở thành miễn phí, chúng tôi ngấu
nghiến ăn phô mai bằng thích. Lại còn cả những hộp súp mì gà hiệu Campbell. Đang
đói lại được ăn thoả thích. Bấy giờ có một nhóm người đứng thành hàng để dọn súp
mì gà Campbell cho chúng tôi ăn, nhưng chúng tôi không biết họ là ai.
Tôi chỉ có một túi nhỏ, nhưng khi ra đi, phải vứt cái túi lại
vì trực thăng không chở nặng được. Nhưng lúc ấy tôi đã mặc hết vào người đến ba
cái quần, ba cái áo. Cần nhất là phải lo đứng chung với nhau cho khỏi lạc. Bấy
giờ em gái tôi mới lên bốn, đứa kế lên sáu. Khi người ta bảo chạy, tất cả mọi
người trong gia đình chụm lại chạy, cả đứa em bốn tuổi cũng đã chạy rất nhanh.
Nó hiểu chuyện ấy bấy giờ quan trọng đến đâu.
Chuyến trực thăng chở chúng tôi đi là chuyến cuối cùng. Đáng
lẽ chúng tôi được đi với nhóm đầu nhưng vì chúng tôi quá bi quan về việc ra đi,
nên khi người ta kêu tên, chúng tôi đã không lên chuyến bay đầu tiên. Vì thế
chúng tôi phải chờ suốt ngày, người ta không kêu tên chúng tôi nữa. Chúng tôi
vừa bắt đầu sợ không có tên trên danh sách thì một ngưòi Mỹ tiến lại hỏi. Cô tôi
trả lời. Ông ta nói gia đình tôi đã được kêu tên trước rồi sao chưa đi. Vì thế
chúng tôi được đi buổi chiều tối hôm đó.
Tôi đã từng đi hát cho lính bằng trực thăng nên đây không phải
là lần đầu tiên lên trực thăng. Nhưng lần này tôi ý thức được là phút giây hệ
trọng. Cả gia đình có mười ba người, gồm chín người trong gia đình trực tiếp,-
tức là cha mẹ và các chị em chúng tôi – rồi thì cô tôi, bạn cô tôi và ông bà tôi
bước vào chiếc trực thăng. Chúng tôi đã chờ lâu quá. Tôi nhớ khi chiếc trực
thăng đầu tiên bay tới, người ta gọi người Mỹ đi trước, rồi đến lượt người Việt.
Bấy giờ ai nấy đều lo bị bỏ, nhưng họ hứa. Họ bảo: “Đừng rối lên, chúng tôi sẽ
trở lại đón quý vị”. Chúng tôi chờ khoảng một giờ nữa thì đột nhiên đủ các loại
trực thăng bay tới trên đầu chúng tôi. Mọi người vỗ tay, vẫy, khóc, người thì
cầu nguyện. Ai nấy đứng cả dậy, quá vui mừng.
Trước đây khi thấy người Mỹ để lại đồ ăn thức uống trong phi
trường, cha mẹ tôi đã lo người ta bỏ rơi. Phản ứng của cha mẹ tôi và tôi thực
khác nhau. Phần tôi, mặc dầu biết phút giây nghiêm trọng nhưng cũng không kiềm
được vui mừng với những đồ ăn mà lần đầu tiên trong đời mới thấy nhiều như thế.
Khi Mỹ đi rồi, những người làm cho Mỹ bưng đồ ra ăn tùy thích, chả khác đồ ăn từ
trời rơi xuống.
Khi người Mỹ quay trở lại, trời vẫn còn ánh sáng ban ngày.
Trước khi nhìn thấy họ, chúng tôi đã nghe thấy và tôi chợt có cảm giác sung
sướng biết bao. Từ lúc rời nhà thờ cho đến lúc lên trực thăng, tôi đã có cảm
giác sẽ đi được và tôi đã giữ niềm tin suốt lúc ấy. Cha mẹ tôi và những người
chung quanh có lo lắng, riêng tôi không lo lắng gì.
Tôi nhớ khi trực thăng đến, gió cánh quạt đã đẩy chúng tôi lui
lại. Em tôi nắm chặt lấy tay tôi mà đỡ gió. Tất cả chúng tôi ào chạy tới cho
nhanh, nhoài mình về cái trực thăng. Tôi nhớ một lần còn bé khi một cơn bão từ
đại dương thổi vê cũng giống hệt như vậy. Ở cửa trực thăng có hai ba người Mỹ
giúp chúng tôi vào. Tôi nhớ chúng tôi đã chạy lọt giữa mấy người Mỹ, một người
bế bổng tôi đưa vào trực thăng. Tôi được dịp ngồi bên cửa sổ cạnh người bạn của
gia đình tôi. Ông ta bảo “Cầu nguyện đi”. Ông muốn tôi đọc kinh Cám ơn. Rồi ông
ta bảo: “Hãy nói cám ơn!” Tôi nhìn ông ta và chợt thấy mắc cỡ. Mắc cỡ hết sức.
Bởi vì đột nhiên đó là giây phút đầu tiên tôi thấy tôi ghét người Mỹ quá.
Tôi cảm thấy rất tổn thương. Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ khi
chiếc trực thăng cất lên. Cảnh tượng cuối cùng tôi thấy ở Saigon là một màu đỏ
rực chiếu từ mặt trời, trên những ngọn lửa hắt ra.
Tôi không còn hào hứng gì. Lúc ấy tôi bắt đầu thấy ghét người
Mỹ. Tôi đã bị chấn thương. Khi máy bay cất khỏi mặt đất, tôi ý thức có một điều
tệ hại lắm đang xảy ra. Tôi cố khóc, nhưng chỉ dăm ba giọt nước mắt chảy xuống
chứ không nhiều như tôi muốn. Tôi muốn bi thảm hóa những cảm xúc trong tôi,
nhưng chỉ có vài giọi nước mắt còn sót lại. Tôi ngồi bên cửa sổ nhìn, thấy những
người hãy còn lại Tân Sơn Nhất. Họ bé dần đến khi mất hẳn.
Chúng tôi qua bãi biển, rồi ra tới biển Nam, tôi đều nhìn thấy
hết qua cửa sổ. Nhưng những cảnh tượng Saigon mới làm tôi nhớ đến rõ rệt nhất.
Tôi không biết những người khác đang làm gì, họ có khóc hay không, vì cuối cùng
tôi đã tự chặn lại hầu hết những ký ức khác trong ngày hôm ấy. Chiếc trực thăng
rất đông người.
Tôi không sợ hãi. Tôi có một cái cảm giác khá vô lý là tất cả
mọi chuyện đều ổn thoả. Một trong những ý nghĩ cuối cùng của tôi là đã không
mang theo một nắm đất Việt Nam. Tôi đã đọc đâu đó trong một câu chuyện lãng mạn
về một chàng đàn ông đã mang theo nắm đất của quê hương chàng. Tôi cũng định làm
như thế, nhưng với đủ các chuyện đã xảy ra ở phi trường nên tôi không còn có
dịp. Tôi đã bi thảm hoá mọi chuyện, có lẽ tôi không nên làm như thế.
Chúng tôi đáp xuống tàu Midway. Sau khi chúng tôi đến khoảng
hai tiếng đồng hồ, họ đưa cho chúng tôi một sợi dây thừng để nắm lấy mà bước qua
boong tàu. Trên con tàu, tôi vẫn còn những cảm giác lẫn lộn. Tôi hãy còn phật ý,
nhưng cùng một lúc lại thấy những người Mỹ đẹp quá, bây giờ họ chính là những
người bảo vệ chúng tôi. Tôi cảm thấy phải đặt niềm tin vào những người lính Mỹ
trên chiếc tàu Midway này. Họ có một thể lực đẹp đẽ, cao lớn và khoẻ mạnh.
Rồi chúng tôi được chuyển sang một chiếc tàu nhỏ. Tôi còn nhớ
mãi là mặt biển cứ dập dờn và con tàu lên cao xuống thấp. Ba ngày trời rồi không
có đồ ăn. Một trong những giả thuyết là có lẽ trên tàu không đủ tiếp liệu, họ
phải giữ đồ ăn cho lính Mỹ trên tàu. Giả thuyết thứ hai là họ muốn cho chúng tôi
đói lả để chúng tôi khỏi phải gây sự với nhau hoặc với họ đấy thôi.
Mẹ tôi bảo thằng em tôi ngủ đi, nhưng nó kêu suốt ngày không
ăn, đói quá. Chúng tôi có nước, nhưng lại chẳng có gì ăn. Cuối cùng tôi ăn vụng
một ít đồ ăn. Đến bây giờ tôi hãy còn mắc cỡ. Tôi khám phá được một thùng cá hộp
vẫn để ở một chỗ, tôi nhón lấy vài con rồi đậy hộp lại. Ngon hết nói. Mùi cá
tanh và lạnh, nhưng lúc ấy rất ngon. Sau đó tôi phát bệnh, nhưng tôi không thể
nói cho ai biết là tôi đã lấy trộm cá hộp mà ăn.
Chiếc tàu nhỏ chuyển chúng tôi đến Phi Luật Tân. Trên tàu, tôi
cứ nghĩ mãi về Tân Sơn Nhất và những đồ ăn vất ở đấy. Phải chi lấy một ít đem
theo. Trên tàu chúng tôi nằm chật cứng, ngủ ngay trên sàn. Còn đến Subic thì như
thiên đàng, chúng tôi ở lều, nhưng ngủ có nệm đàng hoàng. Chúng tôi được chích
thuốc, chủng đậu trước khi sang Guam.
Người ta cũng cho chúng tôi tắm rửa để khỏi mang chấy rận sang
Guam rồi đưa chấy rận vào đất Mỹ.
Gia đình tôi muốn đến định cư ở California vì chúng tôi nghe
nói ở đây có nhiều người gốc Á Châu và ở đây khí hậu tốt. Vì thế, lúc ở Guam,
khi người ta bảo có chỗ đi Fort Chaffee thuộc Tiểu bang Arkansas, gia đình tôi
từ chối. Chúng tôi muốn đi California chứ không muốn đi Arkansas. Do đó chúng
tôi phải ở lại Guam lâu hơn.
Chúng tôi không biết gì nhiều. Nhưng hễ biết được gì, chúng
tôi dứt khoát. Chúng tôi biết chúng tôi muốn đến California.
VŨ THỊ KIM VINH
“Chúng tôi bật khóc khi nhận ra
rằng: Thôi thế là xong”
Năm 1961, mẹ tôi sinh tôi ở Tây Ninh rồi đưa tôi về Saigon.
Chúng tôi là người Công giáo. Cha mẹ tôi có mười người con, tôi là con giữa. Tôi
có sáu chị lớn, hai anh trai và một em gái. Bây giờ tôi chỉ còn lại một anh
trai. Một người đã mất vì chứng sưng ruột mà anh bị từ lúc còn ở trong trại tỵ
nạn Mã Lai. Vượt biên đến Trại, anh đã mổ một lần tại đây. Sang Mỹ, mổ thêm năm
lần nữa, chết lúc hai mươi bảy tuổi.
Tôi vẫn còn nhớ chiến tranh diễn ra từ khi tôi còn bé, vì tôi
thường được mẹ tôi đưa đi thăm ba tôi, lúc ấy ở trong quân đội, đóng tại tỉnh
Bình Dương. Lúc còn bé, có lần đau nặng, tôi đã xuống ở với ba tôi vài tháng để
nhờ các Bác sĩ Quân Y săn sóc cho tôi. Những gì làm tôi nhớ nhiều đến cuộc chiến
và những hiểm nguy của cuộc chiến là vào năm 1968, khi Cộng sản tấn công trong
dịp Tết. Lúc ấy gia đình tôi đang ăn trưa, cha tôi nhận điện thoại của ông Tướng
bảo phải trở về đơn vị ngay lập tức. Mọi người trong gia đình đều lo lắng vì
đang dịp Tết, ai nấy đang vui Xuân. Chỉ còn mẹ tôi bên cạnh, chúng tôi đều lo sợ
cầu cho cha tôi được tai qua nạn khỏi. Mẹ tôi hết lòng khấn nguyện. Cha tôi lúc
ấy là Trung tá trong quân đội.
Tôi rất hãnh diện về cha tôi. Ông hồi hưu từ trước 1975. Sau
những trận đánh 1968, ông đã nhận được nhiều bằng tuyên dương công trạng của
Tổng thống Nixon và của tướng Westmoreland, bởi chính ông là người đã lấy lại
tỉnh Bình Dương, mở đường cho các đơn vị khác, do đó Cộng sản bị đánh bại. Ông
là người rất can đảm. Sau đó xin về hưu, ông nghĩ mọi chuyện dây dưa quá nhiều
đến chính trị. Cha tôi đã du lịch nhiều nơi. Ông nói được tiếng Anh, tiếng Pháp.
Ông không xa lạ gì với đất Mỹ vì ông đã từng được đi huấn luyện ở Mỹ.
Khi dư luận xôn xao về những chiến thắng của Cộng sản vào năm
1974 và 1975, chúng tôi không lo lắng vì lẽ cha tôi tỏ vẻ không quan tâm. Cả đến
khi họ tiến tới gần Saigon, chúng tôi vẫn không lo, cha tôi tin Cộng sản sẽ
chẳng bao giờ thắng nổi.
Chị tôi lấy một người chồng, anh này có một người cha giàu có.
Cha anh quen biết nhiều sĩ quan cao cấp trong chính quyền ông Thiệu, biết rõ
tình hình xảy ra. Anh rể tôi khuyên cha tôi nên thu xếp tiền nong, gói ghém quần
áo ra khỏi Việt Nam vì lẽ đã tuyệt vọng rồi, đồng minh không giúp chúng tôi nữa.
Lúc ấy khoảng đầu tháng Tư.
Cho đến 21 tháng Tư chúng tôi vẫn tin là với một quân đội và
binh lính mạnh mẽ, không cách gì thua được. Mặc dầu chúng tôi không ưa chính
quyền ông Thiệu, nhưng chúng tôi cũng chẳng thích gì Cộng sản. Chúng tôi đâm ra
bối rối. Nghe dư luận bảo Cộng sản sẽ tiến đến thiết lập một chính quyền mới,
nhưng chúng tôi chẳng còn gì khác để tin, chẳng có một đường lối nào ở giữa để
chiến đấu. Mặc dầu chúng tôi đã chiến đấu, nhưng đó chỉ vì bó buộc mà phải chiến
đấu thôi.
Chúng tôi đều đã chán ngán chiến tranh. Chúng tôi sợ cho gia
đình và tính mạng lâm nguy nếu Cộng sản chiếm đóng. Và vấn đề là, đến giữa tháng
Tư, thì những người quan trọng trong chính quyền bắt đầu di tản cả. Điều ấy làm
cho mọi việc náo loạn, kinh hãi. Sau đợt di tản đầu tiên, nhiều người đã trở nên
hoảng hốt.
Chú tôi làm việc cho ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến. Ông
xếp đặt cho những người rời khỏi nước, đưa họ ra phi trường lên máy bay. Khi mất
Ban Mê Thuột, rồi mất đến Nha Trang thì mọi người thất kinh. Gia đình tôi bắt
đầu kiếm đường đi, chỉ vì thấy ai cũng đi cả. Quan niệm gia đình Việt Nam là
quan niệm gia đình mở rộng, họ hàng gần gũi thân thiết nhau. Nếu gia đình này đi
mà gia đình khác không đi, người ta thấy vắng vẻ buồn bã vì không có thân nhân
bên cạnh, cho nên người này đi, người khác cũng đi. Nhưng gia đình tôi bị kẹt,
chính vì có quá nhiều lựa chọn. Một người chị tôi làm cho ngân hàng Mỹ. Chị cho
biết ngân hàng của chị sẽ di tản nhân viên, họ sẽ cho chị mang theo một người
nữa. Gia đình tôi quyết định cho một chị nữa đi cùng. Và rồi một người chị khác,
là người lấy chồng con nhà giàu, cũng muốn mang con đi. Bà chị này đi sớm hơn,
ra đến Tân Sơn Nhất mới biết hễ ai lọt qua cổng phi trường là đi được, không hạn
chế gì. Chị ấy cố tìm cách điện thoại kêu chúng tôi đi, nhưng điện thoại tại phi
trường kẹt. Cả một hàng dài người đứng chờ nên không thể nào gọi được. Nếu chị
ấy gọi được, có lẽ chúng tôi đã cùng đi được với chị ấy rồi. Chị có đứa con tám
tháng, lại thêm đứa nhỏ của người chị khác nữa, cứ phải lu bu cho bú. Đêm hôm
ấy, chị bay được sang Guam. Sau đó gia đình tôi bắt đầu gặp hết chuyện này đến
chuyện khác. Người anh rể tôi trở về nhà thì cha mẹ anh ấy đã đi cả mà không
hay. Anh hoảng hồn tìm đến chúng tôi. Bấy giờ anh đang ở trong Không quân, lại
về Saigon không giấy phép. Chúng tôi phải đưa anh trốn rồi tìm đường cho anh đi
trước.
Người chú làm ở ủy Hội Kiểm Soát Đình Chiến cố giúp đưa tên
anh vào danh sách. Nhưng nhiều người biết anh là con triệu phú, người ta nghĩ
anh phải mang nhiều vàng và đô la lắm nên có người báo cảnh sát. Anh ấy là phi
công. Bấy giờ luật không cho quân nhân được rời Việt Nam không giấy phép, nên
nếu anh bị bắt thì có thể bị bắn không cần xét xử gì. Anh bị bắt ngày 27 tháng
Tư, vì thế chúng tôi kẹt lại. Mẹ tôi là người rất tử tế. Một người đàn bà can
đảm với trái tim vàng. Đôi khi bà lo lắng cho người khác còn hơn cả cho con đẻ
của mình. Thấy anh rể tôi bị bắt, mẹ tôi bảo bà chỉ chịu đi khi nào thấy tận mắt
anh rể tôi lên được máy bay.
Hôm 28, chị tôi – vợ của anh phi công , ra đi. Chị có thai nên
đi trước. Mẹ tôi hỏi tôi có muốn đi theo săn sóc cho chị không. Tôi trả lòi tôi
muốn, nhưng em tôi lại thân với chị tôi hơn. Nó khóc khi thấy chị tôi đi. Vì thế
tôi đã rất ngu mà bảo nó thay chỗ tôi mà đi. Quyết định này làm tôi phải trả giá
năm năm dưới chế độ Cộng sản.
Tất cả những vấn đề lôi thôi gây ra là do chú tôi. Đáng lẽ
phải lo cho bà con đi trước, ông lại lo cho những người giàu có hơn, họ trả ông
vàng và đô la, vì thế ông đã trì hoãn những chuyến đi của chúng tôi để sắp đạt
cho các người lạ đi thế vào. Tôi không trách chú tôi vì ông cần tiền, ông phải
lo cho gia đình, và chẳng biết ngày sau sẽ ra sao. Phần ông cũng định sẽ đi sau
chót. Một hôm về nhà ông nói: “Trời ơi! Hôm nay có tới ba chỗ trống người ta bỏ
chuyến đi. Đáng lẽ em có thể xếp cho chị đi được”. Mẹ tôi rất giận, hỏi sao chú
lại đối xử với chúng tôi như thế. Chú tôi chỉ bảo chú không có thì giờ.
Chính chú tôi cũng bị kẹt. Hôm 29 là ngày cuối cùng, chú về
nhà khóc mà nói: “Tuyệt vọng rồi”. Mẹ tôi kinh hoàng hỏi chú tại sao. Chú tôi
đáp các nhân viên ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến đã đi hết, chú tôi không
đi được. Ở Tân Sơn Nhất người đông quá, chú không lọt qua nổi. Các nhân viên
khác không đợi, họ đã đi cả.
Chị tôi bèn gọi cho người bạn làm ở Tòa Đại sứ Mỹ, nhưng điện
thoại đã cắt, nên chúng tôi tới thẳng Tòa Đại sứ. Hôm ấy là 28, một đám đông
đang vây quanh khu này. Người ta la thét, khóc lóc, xô lấn nhau tìm cách vào
cổng. Bấy giờ lại có những người biết gia đình nào đã đi thì họ tràn vào nhà hôi
của: lấy tủ lạnh, bàn ghế V..V… Bọn hôi của có thể là bất cứ người nào trên
đường phố.
Đến Tòa Đại sứ, chúng tôi biết chẳng cách nào vào được. Bây
giờ tôi không thấy sợ hãi, chỉ bực bội giận dữ, và tê hết cảm giác. Tôi cứ nghĩ
“Thế này thực không công bằng”. Tôi không thể hiểu vì sao mọi chuyện đã xảy ra
với dân tộc tôi như thế. Nhưng ai có thể nói là có công bằng trong cuộc đời này?
Tôi còn nhớ lúc ấy trời mưa, cha mẹ tôi bảo không thể nào đứng
đợi mãi, nên chúng tôi quay về kiếm đường khác. Chúng tôi cần về nhà cũng vì
cũng lo bọn hôi của có thể đến nếu họ thấy chúng tôi đi lâu quá. Nhưng khi về
nhà rồi, cha tôi không muốn đi nữa. Bà nội tôi vẫn còn ở ngoài Bắc, tôi biết cha
tôi muốn gặp lại bà. Ông bảo thôi bất kể chuyện gì xảy ra, ít nhất cũng được gặp
lại mẹ và các chị em của ông. Nhưng mỉa mai thay, cha tôi sẽ không bao giờ có
dịp gặp lại bà tôi. Ông bị đi “cải tạo”, và bà nội tôi mất trong khi ông hãy còn
đang cải tạo.
Ngày 29 chúng tôi mở truyền hình xem chương trình cuối cùng
của chính phủ tự do. Chúng tôi nghe ông Vũ Văn Mẫu lên án người Mỹ, yêu cầu
người Mỹ ra khỏi xứ. Chúng tôi thấy một người trong đám sinh viên cấp tiến từng
bí mật hoạt động cho Cộng sản nay mới ra tù, lên tuyên bố rằng: “Bây giờ là lúc
thanh niên sinh viên học sinh hãy sửa soạn đón chào niềm vui mới. Niềm vui thống
nhất đất nước Việt Nam”.
Lúc ấy tôi ngây thơ hy vọng người ta sẽ không phản bội lời nói
mình. Tôi nghĩ những người bên kia cũng yêu nước, như thế có lẽ mọi sự cũng ổn
thoả thôi.
Sáng sớm 30 tháng Tư, tôi không thấy có quân đội nào trên
đường phố. Chừng chín giờ sáng mở máy phát thanh thì nghe tướng Minh kêu gọi
quân đội ngừng chiến đấu. Ông tuyên bố cuộc chiến chấm dứt.
Chừng buổi trưa chúng tôi thấy bộ đội Cộng sản đi xe Jeep có
cắm cờ chạy qua nhà tôi. Điều đầu tiên sau khi thấy họ là chúng tôi đi thay quần
áo. Chúng tôi đều đổi sang mặc quần áo đen. Dư luận nói họ không thích thấy ai
ăn mặc tử tế vì lẽ như thế chứng tỏ có tiền, sẽ bị họ giết. Tướng Minh tuyên bố
ông không còn là Tổng Thống nữa. Chúng tôi bật khóc khi nhận ra rằng thế là
xong. Cha tôi cũng khóc.
Tôi là người đem đốt tất cả giấy tờ văn bằng mà cha tôi đã
nhận được do người Mỹ và do chính phủ cấp, các giấy tờ do ông Thiệu, do Nixon và
tướng Westmoreland đã gửi cha tôi để cám ơn về các công tác ông đã thực hiện.
Tôi cũng đốt hết các hình ảnh cha tôi vẫn giữ làm kỷ niệm. Tôi bật khóc. Tôi lên
sân thượng, thấy chiếc máy bay cuối cùng rời khỏi nước, một chiếc DC-3. Tôi thấy
cái máy bay cố cất cánh, rồi bùng nổ trong không trung. Tôi thấy rõ một cái hỏa
tiễn bắn trúng, cái máy bay bùng nổ. Tôi thấy những mảnh vụn và những thây người
rơi ra ngoài trời rồi rơi xuống đất. Đó là buổi sáng ngày ba mươi.
Chúng tôi cũng thấy một chiếc trực thăng quần trên ngôi nhà
một Bác sĩ quân y, cũng là Giám đốc quân y viện. Chiếc trực thăng cố bốc ông Bác
sĩ ra đi, nhưng cái dây hơi ngắn, thả xuống không đủ, ông không sao lên được.
Chiếc trực thăng quần trên ngôi nhà một lúc, nhưng ông Bác sĩ không vào nổi,
chiếc trực thăng bay đi, bỏ ông lại. Bao nhiêu người đang cố tìm đường đi, đây
là người có phương tiện ra đi, nhưng không vào trực thăng được.
Sau ngày 30, người ta vẫn có thể rời khỏi Việt Nam khá dễ
dàng. Nhưng kẻ chiến thắng vẫn còn bận ăn mừng nên đã không kiểm soát mặt biển
kỹ càng. Cha mẹ tôi cố tìm cách trả tiền kiếm tàu đi. Nhưng trên đường, cha mẹ
tôi gặp mấy người lính Cộng sản đi nhờ xe. Cha mẹ tôi nói chuyện với họ, họ nói
mọi sự yên ổn, sẽ không có chuyện tắm máu đâu. Cha mẹ tôi hỏi thăm về việc nghe
nói những người ở trong quân đội sẽ phải vào trại tập trung, họ bảo: “Không!
Không có đâu! Mọi sự sẽ yên ổn thôi”.
Rồi họ kể cho chúng tôi nghe con gái ở ngoài Bắc ăn mặc đẹp
còn hơn con gái trong Nam như thế nào. Họ bảo chẳng có chuyện trả thù: “Đừng
biến chúng tôi thành những con quỷ, chúng tôi không phải thế đâu”.
Nhưng rồi ngày mùng Một tháng Năm là một ngày rất buồn. Một
ngày nặng nề u ám. Điện tắt nhưng Cộng sản không sửa được. Chúng tôi nghe trên
đài phát thanh một giọng nói miền Bắc to và sắc buốt của người xướng ngôn viên
lên án Mỹ và những người cộng tác với Mỹ.
Anh ta hạ nhục chúng tôi bằng cách nói chúng tôi là lũ đầy tớ,
lũ chó săn của chính phủ Mỹ, bởi chúng tôi đã hoạt động với họ trong công tác
chống Cộng. Chúng tôi hết sức tổn thương khi nghe như thế.
Việc đi ra phố hãy còn nguy hiểm vì người ta vẫn thường đột
nhập vào nhà, nếu họ tưởng người nhà đã di tản cả. Tình trạng hết sức rối loạn.
Nhiều người có súng đã cướp ngay trên đường phố, gây một bầu không khí cực kỳ
kinh sợ.
Tôi đạp xe đạp ra đường thấy vài người lính miền Nam. Họ vừa
lột bỏ đồng phục vừa khóc. Người ta thấy họ và trong lúc giao thời mới cũ này,
có người đã xua đuổi lính miền Nam để lấy điểm với chính quyền mới. Bấy giờ tôi
là một đứa bé, nhìn thấy thế tôi thật ngượng ngùng. Tôi phát tởm khi chứng kiến
cảnh tượng ấy. Rồi cũng chính những người này đã đi hoan hô lính Cộng sản. Họ ôm
lấy lính Cộng sản như những người anh em thất lạc lâu ngày. Tôi thật ngạc nhiên
khi nhìn thấy thế, và cảm thấy không vui vẻ gì.
Vào thời gian này nếu gia đình nào có bà con làm cho chính
quyền miền Bắc, dù chỉ một tên lính quèn, người ta cũng cảm thấy ít nhất là được
an toàn. “Đấy, gia đình chúng tôi cũng có người chiến đấu chống miền Nam”. Tâm
lý ấy làm chúng tôi rối rắm, bởi vì trước đó chẳng ai dám nói có quen người miền
Bắc hoặc có thân nhân trong quân đội bên kia. Chẳng ai bảo ai nhưng rồi tức khắc
người ta đã biết phải làm gì: Chợt một cái, nhà nào cũng treo cờ Việt Cộng. Cờ
Việt cộng trở thành một cái thẻ an ninh hoặc một tín chỉ có thể cứu mạng người
ta. Nhà nào cũng phải có một lá cờ. Tôi trở nên sợ hãi bởi vì mọi người quá sợ
hãi gần như mất lý trí. Người ta không còn nghĩ được nữa. Tôi có một cái áo xanh
mà tôi rất thích, nhưng chúng tôi đã phải xé ra làm cờ. Tôi khóc khi làm như
thế, tôi nhớ lại mình thật kỳ khôi. Anh tôi là tay thể thao, ảnh có một cái quần
đùi màu vàng. Chúng tôi xé ra để cất một ngôi sao may lên cái cờ treo trước nhà.
Khi lá cờ treo lên rồi, gia đình tôi mới cảm thấy yên. Người nào cũng phải làm
thế, bầu không khí sinh hoạt đã khác lạ lắm. Chợt một cái, mọi người đều nhìn
ngoại giới với một nhãn quan khác hẳn.
Những người giải phóng sử dụng một ngôn ngữ lạ lùng – mặc dầu
vẫn là tiếng Việt. Nhiều người bắt đầu bắt chước giọng ấy. Thật lạ lùng. Sau một
tuần lễ, họ chia chúng tôi thành khu vực, mỗi khu vực có một ủy viên Chính Trị.
Họ giảng về chủ nghiã Mác Xít, Lê Nin nít và chúng tôi phải thảo luận trong các
buổi họp. Thật nhục nhã. Trong các buổi họp này họ bắt chúng tôi phải phê bình
kiểm thảo lẫn nhau. Ngay cha tôi cũng phải kiểm thảo trong buổi họp này. Ông nói
ông đã giết người vô tội, nhưng tôi biết ông chẳng giết ai vô tội cả. Nếu ông
không giết chúng, chúng sẽ giết ông. Thế mà ông đã phải nói rằng ông là người có
tội, ông xin khoan hồng về việc “giết người vô tội”. Tôi chứng kiến cảnh cha tôi
khóc trước mặt mọi người. Đây là lần đầu tiên trong đời tôi thấy cha tôi khóc.
Chính tôi cũng phải làm như thế. Tôi cũng đã phải nói rằng tôi không đồng ý cách
sống của cha mẹ tôi. Việc này xảy ra sau khi nghe cán bộ nói về chủ nghiã Mác,
Lê, nói về sự nghiệp hy sinh của miền Bắc giải phóng miền Nam. Cho nên tôi đã
buộc phải nói rằng tôi rất thù ghét những người như cha mẹ tôi về những gì họ đã
làm. Tôi đã nói như thế, chỉ để mong được sống còn.
TRẦN THỊ MỸ
NGỌC
“Họ như đàn kiến vây quanh chúng
ta”
Cha mẹ tôi thôi nhau khi tôi mới vừa sinh. Cha tôi đang học
luật nhưng rồi phải gia nhập quân đội. Mẹ tôi quen sống dựa dẫm, nương tựa nhiều
vào cha tôi, do đó cha tôi chán nản. Vì thế cuộc tình duyên của cha mẹ tôi tan
vỡ từ khi tôi mới ra đời. Mẹ tôi một mình gánh hai con thơ. Tôi có một người chị
lớn hơn tôi ba tuổi.
Mẹ tôi không có tiền. Chúng tôi sống trong một xóm bình dân.
Những người hàng xóm coi vậy mà rất tốt và thân thiện. Họ giúp mẹ tôi trông nom
săn sóc tôi. Bỏ mẹ tôi rồi, cha tôi lập gia đình khác sau một thời gian ngắn và
đem chị tôi về nuôi. Tôi tiếp tục ở với mẹ cho đến khi gần sáu tuổi.
Mẹ tôi làm nghề buôn bán. Ở Việt Nam có nghề buôn vé số. Bà
vào nghề bằng cách bán vé số lẻ, sau đó từ từ khá lên cho đến khi trở thành nhà
thầu, phân phát vé số ra miền Trung cũng như lục tỉnh. Mẹ tôi kiếm tiền bằng
nghề này.
Khi tôi khoảng sáu tuổi, cha tôi mang tôi về sống với ông để
tôi có cơ hội học hành. Mẹ tôi vì buôn bán nên quá bận rộn. Từ đó, tôi lớn lên
bên cha, chỉ về thăm mẹ vào cuối tuần. Trong thời gian tôi sống với cha thì ông
đã trở thành một vị quan toà của toà áo đỏ. Với chức vụ này, ông đã xử nhiều vụ
án gian thương. Sau đó, chuyển về làm tại Toà án quân sự mặt trận cho đến ngày
Sàigòn thất thủ.
Khi sống với cha, tôi rất hồn nhiên vì cuộc sống của tôi nay
được bao che đầy đủ. Tôi làm bạn với những trẻ em cùng giai cấp khá giả. Tôi học
trường Pháp, trường Marie Curie trên đường Công Lý. Tôi học trường Pháp từ khi
còn bé cho đến khi Sàigòn mất. Tôi biết đọc biết viết tiếng Pháp trước khi biết
đọc biết viết tiếng Việt. Tôi vẫn không quên ngày bắt đầu học tiếng Việt, tôi cứ
bị bà Thầy rầy mắng vì tôi khó dạy. Tiếng Việt có nhiều dấu, không sao nhớ hết
nổi. Tôi bị thầy đánh luôn cho đến khi tôi khôn ra bằng cách cố học thiệt mau
thiệt giỏi. Đây là một cách tự bảo vệ lấy mình.
Từ đầu năm 1975, tôi bắt đầu thấy nhiều việc không ổn. Trước
Tết, theo phong tục Á Đông, chúng tôi đem quà biếu lẫn nhau. Hôm đó cha tôi và
mẹ kế tôi đem quà đến thăm và biếu ông bộ trưởng tài chánh. Ông là bạn thân của
cha tôi, cha tôi và ông nói chuyện rất lâu. Hồi đó, tôi còn nhỏ nên không để tâm
mấy đến cuộc đàm thoại này, nhưng khi về nhà, tôi nghe cha tôi và mẹ kế tôi nói
chuyện: Bạn cha tôi bảo là cha tôi cần phải ra khỏi Việt Nam ngay, Cộng sản đã
vây quanh Sàigòn rồi. Bạn cha tôi nói họ đang tiến vào. Tôi nhớ mãi câu nói ám
chỉ sự việc quân cộng sản đến: “Họ như đàn kiến vây quanh chúng ta”.
Bạn cha tôi từ chức ra đi. Vào khoảng thời gian này, cha tôi
phải đi xử án tại Cần Thơ. Ông xử những người đào ngũ và những Việt cộng bị bắt
tại miền Tây. Cha tôi không muốn rời Việt Nam. Mẹ tôi và mẹ kế tôi rất sợ hãi.
Họ đều khuyên cha tôi đừng đi xử vì lo sẽ có việc không hay xảy ra. Nơi miền Tây
có vẻ không được yên.
Nhưng cha tôi nói: “Tôi phải làm nhiệm vụ của tôi.” Ông cứ đi.
Chuyến đi cuối cùng của ông vào tháng Tư, nhưng ông phải bay về Sàigòn lại vì
tình hình chiến sự. Tôi thì vẫn đi học bình thường trong thời gian này với một
tâm trạng không mấy lo sợ vì Sàigòn chưa hề bao giờ thất thủ. Năm 1968, họ đã
từng vào nhưng bị chúng tôi đánh bật ra.
Tôi chỉ cảm thấy kỳ kỳ nhưng không biết sợ vì tôi thật sự
không biết người Cộng sản là gì. Tôi hiểu chúng tôi đánh với họ, nhưng thật sự
không biết họ là những người như thế nào. Vào thời kỳ này có rất nhiều dư luận
như là: họ sẽ giết người, giết những người nào ăn mặc đẹp, người nào sơn móng
tay. Hoặc nếu bắt được những người sơn móng tay, họ sẽ kéo tróc móng tay những
người đó. Tôi nghe vậy thì có sợ, nhưng nghĩ lại, tôi có sơn móng tay đâu.
Ngoài ra, tôi vẫn còn cảm thấy an tâm phần nào. Lời đồn, tin
đồn thì đủ thứ. Tuy nhiên, gần cuối tháng Ba, trong Nam thấy có nhiều người mới
đến. Bà con bạn bè từ Nha Trang chạy vào. Tôi vẫn chưa cảm thấy sợ. Mọi việc xảy
ra quá nhanh, nhưng cha mẹ tôi vẫn chưa có hành động gì, tôi cũng không biết làm
sao. Tôi vẫn cứ nghe rất nhiều tin đồn.
Khi cha tôi trở về Sàigòn sau chuyến đi miền Tây cuối cùng,
ông nói tin đồn bị rút móng tay là có thật, vài làng nhỏ có mấy cô giáo đã bị
hình phạt như thế.
Tin đồn nào cũng kinh khủng. Có tin họ sẽ tra tấn những người
làm việc cho chính phủ. Vào khoảng thời gian này, bạn bè cha tôi bắt đầu đi. Họ
sắp đặt cho ông đi, nhưng cha tôi không thể bỏ đi, vì họ chỉ dành một chỗ cho
riêng ông, chớ không có chỗ cho cả gia đình. Vì thế, cha tôi không chịu đi.
Lúc đó, chính phủ cũng có ra thông cáo nếu ai bỏ nước ra đi mà
bị bắt lại, có thể bị xử bắn hoặc đưa ra toà án mặt trận. Cha tôi lại là một
chánh án của Toà án quân sự mặt trận.
Tôi có một người chị bà con lấy chồng người Phi. Bấy giờ họ
đang chuẩn bị rời Việt Nam và đang chờ tại Tân Sơn Nhứt. Tôi và em tôi ra đi với
họ. Đây là vào khoảng tuần lễ thứ hai của tháng Tư. Chúng tôi chờ ba ngày, đợi
máy bay đến. Tôi không hiểu vì sao nhưng tình hình Tân Sơn Nhứt rất điên cuồng.
Chúng tôi ở đấy chờ vì toà đại sứ Phi đang chuẩn bị đem dân họ về. Chị họ tôi và
chồng chị ấy có tên trên danh sách. Họ sẽ đem chúng tôi theo với tư cách thân
quyến.
Tôi rất bình tĩnh. Đó là bản chất của tôi. Khi ở trong tình
thế hiểm nghèo, tôi bình tĩnh, nhưng sau đó, tôi sẽ bị xúc cảm.
Chúng tôi chờ hoài đâm mệt. Cha mẹ chúng tôi lo sợ nên đón
chúng tôi về. Vừa khi cha mẹ chúng tôi đưa chúng tôi về, thì đêm đó, máy bay
đến, gia đình chị họ tôi ra đi. Họ không liên lạc được với chúng tôi do đó họ ra
đi, còn chúng tôi kẹt lại.
Kế tiếp, gia đình hàng xóm tôi, có cô con gái lấy chồng kỹ sư
Mỹ. Chị ấy rời Việt Nam năm 1972. Lúc đó vợ chồng chị ấy sống tại Iran, ở thủ đô
Teheran. Chị yêu cầu chồng sang Việt Nam mang gia đình chị ra. Nhân số gia đình
chị cũng cỡ nhà tôi, khá đông người. Cha tôi bàn vói nhà hàng xóm, hỏi xem họ có
thể đem hai đứa trong đám con ông đi không.
Nghĩ cũng ngộ. Cha mẹ tôi quyết định chỉ cho tôi và một em
trai cùng cha khác mẹ đi thôi. Tôi còn có chị cả và một đàn em trai cùng cha
khác mẹ nữa. Tôi không hiểu tại sao chỉ có tôi và em tôi được sắp đặt ra đi.
Người chồng của chị hàng xóm về đến Việt Nam. Lúc đó, anh gặp
sự ngăn trở của chính phủ Mỹ. Họ nói đồng ý mang chúng tôi đi nhưng phải làm thủ
tục giấy tờ. Anh ấy nói với cha mẹ tôi là, nếu anh mang chúng tôi đi, thì sau
này phải lo nhiều phí tổn cho chúng tôi, phải tốn kém trong việc trông coi chúng
tôi. Cha tôi nói “Không sao, tôi sẽ lo việc tiền nong cho anh.” Anh người Mỹ này
tên là David. Khi đó anh khoảng ba mươi mấy tuổi. Tôi nhớ anh ấy rất tốt.
Vào khoảng thời gian này, mọi sự như một trò chơi đối với tôi.
Tôi thật không biết sợ. Tôi được nuôi dưỡng trong sự bao bọc từ lâu cho nên
không nghĩ việc đời có thể thay đổi. Tôi không nghĩ đến việc phải đi khỏi Việt
Nam vĩnh viễn hay dù chỉ tạm thời. Lúc đó, gia đình tôi còn nhiều tiền trong nhà
băng, đang cố chuyển tiền qua ngoại tệ. Tuy nhiên, nhà băng chỉ có thể cung cấp
2,000 đô thôi, sau đó, ngưng đổi ngoại tệ. Hết tiền đô rồi. Vì thế, mẹ tôi phải
mua tiền đô ngoài chợ đen. Anh David lo hoàn tất tất cả các giấy tờ cần thiết,
ngày ra đi được ấn định vào 27.4.75. Tôi vẫn còn nhớ mãi. Anh ấy nói tình hình
rất khó khăn, và có lệnh người Mỹ không được đi ra đường nữa. Anh ấy dặn chúng
tôi lúc nào cũng phải sẵn sàng để đến Tân Sơn Nhứt. David thu xếp giấy tờ, nói
“Tôi sẽ trở lại đón các em, khi tôi đến, chúng ta sẽ phải đi liền”. Anh ấy cũng
dặn gia đình vợ như thế. Nhưng rồi anh vào Tân Sơn Nhứt và không được phép trở
ra nữa. Anh ấy gọi điện thoại, khóc. David nói: “Nếu tôi ra là sẽ bị bắn ngay!”
Tôi nhớ sân bay đóng cửa vào ngày 24- 4-75 gì đó. Anh ấy nói: “Tôi bị kẹt rồi và
không thể trở ra. Vậy bây giờ tất cả hãy chuẩn bị chờ, có thể tôi sẽ cho xe ra
đón đi. Hãy chuẩn bị.”
Chúng tôi chờ đến ngày 28. Anh vẫn không ra được. Cũng không
có xe đến. Rồi anh ấy phải rời Việt Nam trở lại Iran.
Tôi nghĩ cha tôi bắt đầu lo sợ. Tôi cũng cảm thấy vô cùng buồn
bã vào những ngày cuối đó. Chúng tôi không biết miền Nam sẽ mất vào ngày 30
tháng Tư. Chỉ thấy mọi người chạy như điên cuồng vào khoảng 28 tháng Tư. Nhiều
người đổ vào thành phố. Mọi sự tán loạn. Thiên hạ chạy tới lui ngoài đường phố.
Tôi không hiểu họ đi đâu, nhưng chỗ nào cũng thấy họ đi với hành lý. Bây giờ đã
có thể nghe tiếng bom rơi gần Sàigòn. Chưa bao giờ trong đời tôi nghe chiến
tranh đến gần như thế.
Ngày 29, nhìn lên trời tôi thấy có hai máy bay trong tư thế
đánh nhau. Lúc đó vào buổi trưa. Chúng tôi không biết đó là máy bay gì. Tôi
không biết gì về máy bay cả, nhưng tôi biết có hai chiếc máy bay đang bắn phá.
Sau khi ông Minh tuyên thệ nhậm chức, cha tôi nói: “Thế là
hết. Chúng ta thua rồi. Mình phải đi. Tất cả đều đã mất.”
Gia đình chúng tôi chuẩn bị đồ đạc sẵn sàng vào ngày 29. Điện
thoại reo vang từ sáng. Hễ cúp điện thoại xuống là lại reo. Những cú điện thoại
do người quen gọi, những người khuyên gia đình chúng tôi đi, những người gọi lại
hỏi ý kiến cha tôi. Có nhiều người quyết định việc ra đi hay không căn cứ theo
gia đình chúng tôi. Nếu cha tôi chưa bỏ đi thì có lẽ tình thế không đến nỗi
nghiêm trọng. Họ chờ và cũng chờ đợi ý kiến cha tôi. Cứ thế, điện thoại không
ngừng reo.
Tôi bắt đầu cảm thấy buồn. Tôi có cảm tưởng một việc gì rất
xấu đang sắp xảy đến. Tôi biết bà hàng xóm, chồng đang ở Canada. Ông ấy đi vào
tháng trước. Bộ dạng bà vô cùng rối loạn, cứ chạy tới lui với hai đứa con. Sau
cùng, bà thu xếp đồ đạc và bỏ đi. Tôi nghĩ là bà ấy biết có một chuyến tàu sắp
đi.
Có lần tôi thấy một chiếc máy bay trực thăng bay trên trời,
nhưng không biết chiếc trực thăng này thuộc về ai, bay đi đâu. Chiếc trực thăng
này muốn đáp xuống gần toà cao ốc của một nhóm tôn giáo. Tôi thấy viên phi công
muốn đáp xuống mà không được vì có nhiều cột ăng – ten và dây điện. Cuối cùng,
viên phi công phải bay đi. Lúc trước, ông ta muốn đáp xuống và khi gần xuống thì
người ta đã tranh nhau muốn leo lên. Cha tôi không cho chúng tôi ra đường vì có
quân lính bắn nhau ngoài đường. Nếu lái xe đi ngang là có thể bị bắn. Vì thế
chúng tôi bị nhốt cứng trong nhà.
Cuối ngày 29, chúng tôi biết chắc chắn thành phố coi như mất
rồi. Tôi nhớ cha tôi nói rằng hai kẻ thù lớn nhất của chúng tôi là Thiệu và Cộng
Sản. Cha tôi nói: “Đừng bao giờ quên những gì họ đã làm! Thiệu và Cộng Sản.”
Điện bị cúp vào ngày 29, chúng tôi phải dùng đèn cầy. Cha tôi
lấy giấy tờ tài liệu đem đốt, đổ tro xuống cầu tiêu. Ông cũng lấy hết súng đạn
ra, bỏ vào thùng rác công cộng. Cuối cùng, ban đêm, khoảng 11 giờ khuya, gia
đình tôi nhận cú điện thoại của người chỉ huy trưởng một chiến thuyền. Ông đã
gọi vài lần, cuối cùng ông ấy nói với cha tôi là phải quyết định mau nếu muốn
đi. “Tôi sẽ cho mấy chiếc xe Jeep đến đón gia đình anh và cả gia đình vợ trước
của anh nữa. Anh có thể mang mọi thứ anh cần!” Cha tôi suy nghĩ nhiều. Cuối cùng
khoảng nửa đêm, bạn ba tôi gọi một lần nữa, nói: “Tôi phải đi, không thể chờ
được nữa.” Cha tôi nói: “Thôi anh đi vậy”. Cha tôi quyết định ở lại.
Ngày hôm sau, Cộng sản tiến vào Sàigòn bằng xe tăng. Họ lái
đến Dinh Tổng thống. Mẹ tôi khuyên ba tôi dời nhà, đến một căn an toàn hơn để
tránh mặt Cộng sản. Vào buổi sáng, cha tôi chất chúng tôi lên xe hơi, chở chúng
tôi đến đó, bởi ông sợ gia đình chúng tôi sẽ bị giết hại, nếu vẫn ở tại nhà.
Thiên hạ xem chừng rối loạn, không được bình thường. Buổi sáng đó, khi ba tôi
lái xe chở chúng tôi đi, tôi chứng kiến nhiều cảnh. Tôi thấy xe tăng tiến vào
dinh tổng thống, cán dẹp hàng rào sắt của dinh. Tôi không nhìn thấy nhiều và rõ
hơn vì ba tôi lái lẹ quá.
Tiếp đến, tôi thấy lính cầm cờ với ngôi sao vàng. Tôi nói:
“Thôi rồi ! Thế là hết!” Lúc đó nỗi sợ hãi lan tràn. Chúng tôi sợ bị giết. Tôi
thật lo sợ cho cha tôi hơn là lo cho bản thân chúng tôi. Trong thân quyến, ai
cũng sợ cho ba tôi.
Đường xá vắng hơn những ngày trước. Vào buổi sáng đó, có lẽ xe
tăng nhiều hơn người.
Nơi chúng tôi ở lúc trước có 36 căn nhà. Có một gia đình tỏ vẻ
thật là vui. Liền sáng đó, họ đeo băng tay đỏ, chứng tỏ họ là Cộng sản. Họ ra
mặt, ngày 29 thì chưa. Nhưng ngày 30, họ lộ diện. Có lẽ vì vậy cha tôi mang
chúng tôi đi thật lẹ sáng hôm đó. Mẹ tôi khuyên cha tôi mang chúng tôi đến toà
nhà lầu này, gần nơi mẹ tôi ở, vì những người ở đó là bạn mẹ tôi, họ sẽ giúp đỡ
chúng tôi.
Đường xá vắng tanh, giống như sau một trận giặc. Đồ đạc ngổn
ngang, đầy rẫy y phục quân nhân, có nhiều món đang cháy. Rác rưởi um sùm. Nhiều
chiếc xe bị vất bỏ ở ngoài đường. Đường phố chỉ thưa thớt vài chiếc xe chạy.
Không có các trạm kiểm soát, không có những quân lính cướp bóc. Họ mắc bận xục
xạo các dinh thự.
Quân đội Cộng sản chạy vượt ngang xe chúng tôi, nhưng họ không
tỏ vẻ quan tâm. Chúng tôi nhìn họ, họ nhìn chúng tôi, ba tôi lái xe vượt qua
thật lẹ. Tôi có ý nghĩ là quân đội Cộng Hoà ăn mặc chỉnh tề, quân phục đẹp và
vừa vặn hơn. Mấy người lính cộng sản mặc quân phục quá rộng, có vẻ như lạc lõng,
cũng như chúng tôi. Ông có biết họ giống cái gì không? Giống như là du khách đi
lạc vậy?
Không ngờ nơi chúng tôi đến lại là nơi ở của người Cộng sản.
Thật ra là những người nằm vùng. Chúng tôi rất quí mến ba người bạn mẹ tôi mà
tôi gọi là dì và người đàn ông chúng tôi gọi là chú, chúng tôi biết họ từ khi
còn trẻ thơ. Nhưng chúng tôi không bao giờ ngờ họ là cộng sản. Chúng tôi hỏi xem
có thể tạm ở đó không, họ nói không sao. Mẹ tôi biết rõ mọi chuyện nhưng cha tôi
thì không. Cha tôi lo lắng, mẹ tôi cũng lo cho cha tôi. Nhưng họ nói không ai có
thể xâm phạm căn nhà này. Người ta có thể vào các nhà bỏ hoang, nhưng trong căn
nhà này, cha tôi và chúng tôi sẽ được yên ổn, không ai hãm hại gia đình chúng
tôi cả. Cha tôi nói “Tốt lắm”, ông đưa chúng tôi vào. Ông chạm trán những người
mà ông chưa hề gặp. Những người này có bộ dạng rất khác lạ. Cha tôi liền bước
ngay trở ra khỏi căn nhà. Ông dặn: “mấy con ở đây, các con sẽ được an toàn,
nhưng ba phải đi liền”.” Chúng tôi không hiểu tại sao cha tôi phải đi vội vã như
thế. Tôi nói: “sao ba kỳ vậy? Sao không ở đây? Nơi này rất an toàn mà” Cha tôi
nói: “Im đi cứ ở đây. Cứ làm như bình thường, đừng nói nhiều, như vậy các con sẽ
bình an”. Cha tôi không nói cho chúng tôi biết ông sẽ đi đâu.
Tôi có một cái giỏ nhỏ, trong đó chứa những vật dụng cần thiết
như thuốc, bàn chải đánh răng, kem đánh răng, tôi nghĩ cũng có tiền nữa. Cha tôi
gởi bảy chị em tôi ở đó với những người lạ lùng này. Họ có điệu bộ kỳ kỳ. Họ có
vẻ thư thái, vui vẻ. Chúng tôi sợ muốn chết, còn họ cứ nhìn chúng tôi mỉm cười.
Họ hỏi chuyện chúng tôi, nhưng cha tôi đã dặn là không được
nói nhiều. Họ hỏi: “ “Bây giờ đất nước được giải phóng rồi, các cháu cảm thấy ra
sao? Có thích không? Các cháu nghe chính phủ ngụy nói gì về Việt cộng?” Tôi còn
khờ dại nên nói: “Mấy bác biết không, nếu cộng sản bắt được người nào sơn móng
tay, họ sẽ rút móng tay và hành hạ những người đó. Thêm nữa, ai giàu có và làm
việc cho chính phủ trước, họ sẽ bắt và hành hạ những người này. Tụi con nghe vậy
đó!” Họ cười xoà khi nghe thế.
Họ không nói gì khác, ngoài việc hỏi chúng tôi đã nghe những
gì, cảm thấy thế nào. Tôi kể cho họ những gì tôi đã nghe. Họ nói: “Ở đây các
cháu rất yên ổn, không việc gì xảy đến cho các cháu đâu. Vậy bây giờ cháu nghĩ
sao?”. Khi họ nói thế, tôi bắt đầu thấy không ổn vì có lẽ tôi đã nói quá nhiều.
Do đó tôi nói: “con nghĩ đó là tin đồn chính phủ nói láo thôi!” Tôi biết có việc
gì đây. Họ không tuyên truyền cho Cộng sản, họ chỉ nói là: “Bây giờ cháu đã thấy
sự thật. Chúng tôi không hại người.” Từ đó, tôi ngậm im luôn.
Chúng tôi ăn ngủ ở đó. Thiệt khó chịu. Sau trận hỏi đáp, tôi
bắt đầu hiểu. Tôi hiểu họ không phải là người ở phía chúng tôi. Tôi thật không
sợ hãi, chỉ lo lắng. Một cảm giác kỳ cục. Tôi chẳng có thể làm gì được, chỉ phải
chờ. Tôi không hiểu chuyện gì sẽ xảy đến cho chúng tôi. Chúng tôi sẽ phải ở đây
bao lâu, khi nào cha mẹ chúng tôi mới đến đón chúng tôi về. Chúng tôi không đi
ra ngoài đường, chỉ nhìn qua cửa sổ.
Sau ngày 30, mọi nơi đều im lặng vắng vẻ. Mọi người đều ở
trong nhà. Không có ai mua bán gì.
Ba bốn ngày sau, mẹ tôi đến đón chúng tôi về. Chúng tôi về nhà
mẹ ruột tôi, ở gần đó. Cha tôi đã vào Chợ Lớn vì có bà con trong ấy. Thật ra,
lúc đầu chúng tôi không biết cha tôi ở đâu, không ai chịu nói cả. Gia đình tôi
sợ người Cộng sản sẽ hỏi chúng tôi. Cha tôi ở trong Chợ Lớn đến tháng Năm, khi
tình hình có vẻ tạm yên và chính phủ mới nói là người chế độ cũ phải đi học tập
cải tạo. Căn cứ trên chức vụ, ông sẽ phải đi từ ba tuần đến ba tháng. Những
người chức nhỏ hơn thì đi một cho đến ba tuần.
Chúng tôi không biết gì nhiều về cha tôi nữa. Tôi nhớ mẹ tôi
đã mang tôi vô Chợ Lớn gặp cha tôi. Tôi nghe cha tôi than phiền với mẹ tôi về
việc đem chúng tôi đến căn nhà bạn bà: “Bộ bà điên hay sao? Bà kêu tôi đi thẳng
vô hang cọp.” Mẹ tôi nói: “Tôi đâu có biết”. Cha tôi nói: “Sao bà biểu tôi đến
đó? Bộ bà không biết là đó là hầm rắn hay sao? Vừa bước chân vô cửa, tôi biết
ngay họ là ai, bởi thế tôi đã phải để mấy nhỏ đó và bỏ đi ngay đó.” Tôi không
hiểu sao cha tôi biết.
Cha tôi tiếp tục ở trong Chợ Lớn cho đến khi ông bị gọi. Tôi
nghĩ là ông đã đắn đo nhiều về việc nên đi trình diện hay không, nhưng sau cùng
ông nghĩ là đi phứt cho rồi vì không thể nào lẩn mặt được mãi. Vả chăng, chỉ đi
ba tháng thôi. Do đó, ông đành đi.
Vào khoảng tháng Năm, chúng tôi trở lại nhà. Gia đình Việt
cộng ở khu nhà tôi đã bắt đầu tổ chức, trở thành lãnh đạo 36 căn nhà trong khu
đó. Ai nấy phải theo kỷ luật mới. Thật ra cũng không có gì rõ rệt. Họ chỉ kiểm
soát chúng tôi vậy thôi. Chúng tôi không dám mua bán gì. Chúng tôi không dám đi
chợ. Tôi không nhớ đã ăn gì để sống. Có lẽ chỉ ăn đồ khô dự trữ thôi.
Cha tôi đi trình diện tại một địa điểm mà nhiều người phải đến
để trình diện. Chỗ đó gần sở thú. Người ta xếp hàng thiệt dài, người nào cũng có
hành trang. Họ không biết họ phải cần món gì, do đó họ mang theo áo quần và vài
thứ cần dùng. Có nhiều hàng dài và người Cộng sản ngồi ở bàn để nhận người.
Chúng tôi, gồm có mẹ kế tôi, chị lớn tôi, và tôi đứng đó chờ với cha tôi. Đến
phiên cha tôi tiến lại bàn. Tôi nhớ là ông được biểu phải lột đồng hồ và vài món
đồ khác. Và ông đã trình diện xong. Chúng tôi không biết họ sẽ đem những người
đến trình diện đi đâu, nhưng cha tôi phải đi.
Từ đó, chúng tôi không còn biết họ đưa cha tôi đi đâu.
CHƯƠNG 18 : NHỮNG NGƯỜI CHIẾN THẮNG
ĐẠI TÁ BÙI
TÍN
“Tôi trở thành một người của
chiến cuộc dù tôi không hề bao giờ muốn thế”
Khi Tổng thống Diệm bị ám sát vào tháng Mười Một năm 1963, tôi
không nghĩ chính quyền miền Nam sẽ sụp đổ. Ngay cả sau cái chết của Kennedy, tôi
cũng không nghĩ như thế. Tôi biết là cần phải chiến đấu trước đã.
Vào thời điểm ấy, chúng tôi tăng cường nỗ lực tại miền Nam.
Chúng tôi quyết định phải đưa dần các đơn vị cỡ Sư đoàn vào đánh chế độ bù nhìn
miền Nam. Đa số bộ đội các đơn vị này là người miền Nam tập kết ra Bắc, nhưng
sau đó, chúng tôi bắt đầu tuyển mộ cả người miền Bắc.
Hai tuần sau cái chết của Diệm, tôi đã ở trong phái đoàn Bộ
Chỉ Huy đến Cao nguyên tham quan tình hình tại chỗ nhằm mở rộng đường mòn Hồ Chí
Minh, hoàn bị việc tổ chức. Tôi cũng đã tổ chức các Sư đoàn và Trung đoàn tại
Cao nguyên. Về con đường mòn, lúc đầu chúng tôi chỉ có thể đi bộ, nhưng cho đến
1963, bề rộng con đường đã đủ lớn, tổ chức đã đủ tốt để chuyên chở tiếp vận bằng
xe đạp thồ. Lúc ấy hãy còn lác đác máy bay Việt, Mỹ bỏ bom trên đường mòn này.
Khi Mỹ viện trợ thiết vận xa cho chính quyền miền Nam, chúng
tôi không chắc có thể địch lại, vì trước đây chúng tôi chưa hề đối đầu loại
chiến cụ này. Trước trận Ấp Bắc, chúng tôi vẫn chưa có đúng vũ khí với khả năng
tiêu diệt thiết vận xa. Vì thế chúng tôi báo cáo Bộ Tư Lệnh để liên hệ với Liên
Xô và Trung Quốc xin cung cấp cho chúng tôi những vũ khí có thể đối địch được.
Họ bắt đầu tiếp vận cho chúng tôi hoả tiễn tiêu diệt thiết vận xa.
Khi Tướng Westmoreland trở thành Tư lệnh Hoa Kỳ, chúng tôi lại
phải tự kiểm điểm xem chúng tôi có thể thành công trong việc đánh Mỹ hay không.
Nhưng sau trận đánh với Mỹ tại Thung Lũng Ia Drang năm 1965, chúng tôi kết luận
có thể chiến đấu trực diện với người Mỹ. Bấy giờ chúng tôi không dám nói có thể
thắng Mỹ, nhưng chúng tôi biết chúng tôi có thể đương đầu được, thắng hay không
lại là chuyện khác.
Càng ngày chúng tôi càng đạt được nhiều kinh nghiệm hơn trong
những trận đánh mà Mỹ sử dụng thiết vận xa và trực thăng. Khi họ đưa ra cái gì
mới, chúng tôi cũng phải có cái mới. Chúng tôi đã học được sức mạnh Mỹ, nhưng
cũng thấy được những chỗ yếu của chúng tôi. Vì thế sau trận la Drang là nơi Mỹ
vận chuyển lính đến bằng trực thăng, chúng tôi rút lui để suy nghĩ lại các
phương án chiến đấu chống Mỹ, tìm cho ra những chiến thuật mới. Lúc ấy chúng tôi
đang có vấn đề.
Tiếp đến lại tăng thêm vấn đề oanh tạc cơ Mỹ, đặc biệt B-52.
Chúng tôi cũng phải suy tính cách nào đối đầu được với họ suốt dọc đường mòn Hồ
Chí Minh
Tôi hết sức lo lắng, nhưng không mất niềm tin. Tất cả bộ đội
chúng tôi trong suốt thời gian ấy đều duy trì tinh thần rất cao, mặc dầu không
biết sẽ thắng cách nào, nhưng chưa hề bao giờ chúng tôi nghĩ có thể thua. Hễ
chính phủ Mỹ dở dói đòn nào, chúng tôi đều có thể gỡ đòn ấy. Vào thời gian đầu,
quả thật B-52 hết sức kinh hoàng, làm tôi cực kỳ lo lắng. Nhưng rồi quan sát kỹ
các máy bay này, chúng tôi tìm được đội hình máy bay, phương hướng đánh bom trên
trận địa, nhờ đó chúng tôi có thể vào hầm trú ẩn trong các khu vực mà chúng tôi
nghĩ rằng bom không đụng tới.
– Làm thế nào để duy trì tinh thần bộ đội chúng tôi? Chúng tôi
đã chiến đấu cho nền độc lập và cho sự thống nhất đất nước. Và chúng tôi biết sẽ
sống còn trong cuộc chiến. Trong buổi đầu quả có lo ngại với những trận dội bom,
vì nhiều người bị giết, đôi lúc chúng tôi đã có phần giao động không rõ có thoát
khỏi các cuộc đánh phá của Mỹ không. Nhưng khi khám phá ra mặc dù Mỹ có vũ khí
và kỹ thuật hiện đại, nhưng chúng tôi vẫn có thể tránh được, khi biết như thế,
chúng tôi thấy có thể thắng.
Hoa Kỳ và Nam Việt Nam có phải là những đối thủ đáng kể trên
chiến trường không? Tôi đã suy nghĩ việc này trong một thời gian khá lâu. Kết
luận của tôi là họ có rất nhiều nhược điểm. Lính Mỹ là lính nhà giàu, đến từ một
đất nước giàu, họ có đủ vũ khí đạn dược cần đến, nhưng họ cũng có nhược điểm, do
đó đánh họ không khó. Chỉ nhờ nguồn tiếp vận đầy đủ thôi không đủ giúp họ vượt
qua các nhược điểm ấy.
Nhược điểm lớn nhất của lính Mỹ chính là thái độ của họ. Họ
thực sự không hiểu chiến đấu cho cái gì. Họ chiến đấu cho một đất nước không
phải của họ. Họ nhớ gia đình. Mặc dầu phải làm tròn nhiệm vụ với quốc gia họ
nhưng họ không quá quan tâm với cuộc chiến vì vậy tinh thần họ yếu. Họ lệ thuộc
quá nhiều vào không lực và pháo binh. Khi bắt buộc phải đánh giáp lá cà mà không
có không quân và pháo binh yểm trợ, nếu chỉ hai bên mặt đối mặt thì thường họ
đâm ra hoang mang hoảng hốt.
Bộ đội miền Bắc chúng tôi chiến đấu có mục tiêu. Chúng tôi
thực sự muốn giải phóng đất nước. Còn lính Mỹ đánh trận vì đó là nghề, đa số chỉ
muốn hồi hương. Họ không dốc lòng vào việc chiến đấu như chúng tôi. Đây là một
khác biệt chính yếu giữa đôi bên.
Tiếp theo việc ký hiệp định Pa-ri, tôi được đưa vào Nam tham
dự ủy Ban Liên Hợp Quân Sự bốn bên để thanh toán các điều khoản trong hiệp định.
Tôi đã đến trại Davis với tư cách thành viên phái đoàn miền Bắc mà tôi là phát
ngôn viên. Tôi đã ở đây 60 ngày, và đây là lần đầu tiên tôi gặp gỡ người Mỹ. Tôi
gặp Trung tướng Gilbert H. Woodward và bà vợ. Tướng Woodward là Trưởng phái đoàn
Hoa Kỳ trong ủy Ban Liên Hợp Quân sự. Chúng tôi đã hội họp, gặp gỡ tại Saigon,
Mỹ Tho và Đà Nẵng khi làm việc với ủy ban.
Ngày 29 tháng Ba năm 1973 tôi hướng dẫn một nhóm đến thanh sát
việc Mỹ rút quân. Bấy giờ tôi mặc quân phục. Tôi nhớ tôi đã chứng kiến những
người lính Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam. Tôi bắt tay người lính Mỹ cuối cùng
ra đi mà tôi còn nhớ tên là Trung sĩ Bienco. Tôi đã bắt tay anh, nói lời chào từ
biệt. Tôi tặng anh một khung hình nhỏ với tấm ảnh hồ Hoàn Kiếm ở Hà Nội, cái hồ
của “lưỡi gươm trở về.” Tôi chúc anh Bienco được hạnh phúc khi về đoàn tụ với
đất nước anh, tôi chúc anh bình an mạnh khỏe, và hy vọng anh sẽ không bao giờ
quay lại đất nước Việt Nam nữa. Sau đó tôi trở về Hà Nội đúng ngày cuối tháng
ba.(*)
Năm 1975, tôi trở lại miền Nam với tướng Văn Tiến Dũng. Lần
này tôi là một nhà báo. Tôi ở trong đơn vị Bộ chỉ huy, đến Saigon với toán quân
Bắc Việt đầu tiên tiến vào thành phố.
Vì không có các sĩ quan cao cấp đi với chúng tôi vào Saigon,
nên tôi đã phải lãnh nhiệm vụ tiếp nhận cuộc đầu hàng vô điều kiện của chính
quyền miền Nam. Tôi ở trong toán gồm ba chiến xa đầu tiên tiến vào thành phố.
Nhờ có mặt ở Saigon năm 1973 và đã đi xem đường phố, nên trong
các chiến xa này, tôi là người sĩ quan duy nhất biết đường đi trong thành phố.
Cũng năm 1973 nhờ đã chụp hình dinh Tổng Thống mà tôi biết phải nhắm hướng đến
chỗ nào. Hồi ấy trên đường đi Tân Sơn Nhất để gặp phái đoàn Hung Ga Ri, tôi đã
chụp ảnh dinh Tổng Thống và vẫn giữ bên mình.
Tôi hướng dẫn các chiến xa qua các đường phố, tiến đến dinh
Tổng Thống. Trở lại Saigon, tiến vào khu vực của dinh (Tổng Thống) thực là một
xúc động lớn lao. Trước đấy tôi luôn lo ngại sẽ có những trận chiến xảy ra trong
thành phố. Tôi nghĩ có lẽ chúng tôi sẽ phải đánh chừng một tuần trong thành phố.
Rồi khi tiến vào tôi nghe có tiếng súng, tôi đoán có một trận
đánh lớn đang xảy ra, nhưng chỉ là binh sĩ đang bắn chỉ thiên, báo hiệu cuộc
chiến tranh đã chấm dứt thôi.
Chúng tôi lái chiến xa tiến đến dinh Tổng Thống để tiếp nhận
cuộc đầu hàng.
Thực tình tôi không chuẩn bị rằng tôi sẽ là người tiếp nhận
cuộc đầu hàng sau chót của chính quyền miền Nam. Chỉ tình cờ tôi đã có mặt để
hướng dẫn những chiến xa đầu tiên tiến đến dinh Tổng Thống vì tôi biết nó ở đâu.
Nhưng việc này không trù liệu trước, chỉ xảy ra tình cờ thôi.
Tôi được người chỉ huy đơn vị thiết giáp hướng dẫn đến gặp
Tướng Dương Văn Minh. Tôi đến văn phòng Tướng Minh. Ông đứng đấy nói rằng ông
đang đợi người tiếp nhận cuộc đầu hàng. Tôi nhìn quanh, thấy tất cả mọi người
trong phòng đều có vẻ hết sức lo lắng. Tướng Minh mặc áo sơ mi cụt tay, vẻ mặt
mệt mỏi. Trông ông như mất ngủ khá lâu, và đã mấy ngày không cạo râu. Ông nói
ông muốn chuyển giao chính quyền Nam Việt Nam cho tôi “Tôi đã đợi ở đây từ sáng
sớm để chuyển giao quyền hành cho ông”. Ông nói. Và tất nhiên, tôi đã nói một
câu mà bây giờ trở thành nổi tiếng: “Ở đây không có vấn đề chuyển giao quyền
hành. Quyền hành của quý ông đã tan tành. Quý ông không có gì trong tay để
chuyển giao, vì thế quý ông không thể chuyển giao những gì quý ông không có”.
Tất cả những người trong chính quyền Nam Việt Nam đều có vẻ
rất lo lắng, vì thế tôi nhìn quanh mà bảo họ “Hôm nay phải là một ngày vui của
đất nước chúng ta vì chiến tranh đã chấm dứt. Nếu quý vị yêu nước, quý vị nên
lấy đó làm vui mừng”. Khi nghe tôi nói thế, họ có vẻ thoải mái, không quá lo
lắng nữa. Rồi để cho không khí căn phòng được nhẹ nhõm, vui vẻ, tôi hỏi thăm gia
đình ông Vũ Văn Mẫu, nói vài câu khôi hài, vài chuyện vặt. Tôi hỏi thăm tướng
Minh chuyện đánh quần vợt. Tôi biết tướng Minh trồng phong lan, nên tôi nói
chuyện với ông về phong lan. Tôi làm họ ngạc nhiên vì tôi biết rõ mọi chuyện của
họ. Tất cả mọi chuyện. Còn họ không biết chút nào về tôi cả. Hà – Hà!
Rồi tôi đến tòa Đại sứ Mỹ. Tôi chụp hình cái cây lớn ngoài tòa
Đại sứ mà người ta đã đốn xuống. Rồi tôi lên mái nhà chụp ảnh với các đồng chí
của tôi. Khắp nơi trên mái nhà vứt rất nhiều mũ sắt, súng ống, đồ vật ngổn
ngang. Họ bỏ lại rất nhiều thứ trên mái nhà. Tôi cũng đến xem chỗ người Mỹ tiêu
hủy tài liệu của họ. Rồi tôi lại ra phi trường Tân Sơn Nhất xem chỗ họ giữ các
tài liệu. Lúc ấy hãy còn đang cháy.
Tôi rất vui mừng. Điều làm tôi thích nhất là người miền Nam đã
đến trò chuyện, hỏi thăm chúng tôi. Những người trẻ cũng đến trò chuyện, tìm
hiểu chúng tôi, để về báo cho gia đình biết. Nhân dân có vẻ hoan nghênh chúng
tôi nhưng họ lo ngại. Phần tôi say sưa chuyện trò với mọi người, say sưa đi xem
Saigon mà quên cả nhiệm vụ nhà báo, mãi đến chiều tối mới ngồi đặt bút viết bài
về những biến cố trong ngày.
Chiều tối hôm ấy, tôi ngồi ở cái bàn giấy trên tầng hai dinh
Tổng Thống viết một mạch bốn trang về chiến thắng của chúng tôi. Tôi không biết
cách nào gửi bài viết ấy về Hà Nội, rồi mới sực nhớ là có thể sử dụng hệ thống
điện báo tại văn phòng Tùy viên Quân sự Mỹ ở phi trường Tân Sơn Nhất. Nhưng khi
đến đấy thì người Mỹ đã phá hủy hệ thống điện báo, tôi bèn đến trại Davis nhờ họ
chuyển bài ra Hà Nội. Bài này chính là bản tin đầu tiên vê cuộc chiến từ Saigon
gửi ra trong ngày hôm ấy.
Dòng đầu tiên là: “Tôi đang viết bài này trong lúc ngồi tại
bàn giấy, trên tầng hai dinh Tổng Thống ở Saigon. Cuộc chiến tranh lâu dài đã
chấm dứt”.
Ngày nay, người Mỹ cần nhớ rằng cuộc chiến ấy thật đáng tiếc.
Đáng lẽ cuộc chiến ấy ngăn ngừa được. Đáng lẽ cuộc chiến ấy không nên xảy ra.
Đây là trận chiến đáng tiếc nhất trong lịch sử Mỹ. Nhân dân Mỹ, đặc biệt chính
phủ Mỹ luôn luôn tỏ ra chậm chạp trong việc nhận thức bản chất đích thực của các
sự việc tại Á Châu. Bây giờ đây, tất nhiên Mỹ đã có quan hệ ngoại giao với Liên
Xô và Trung Quốc, nhưng không có quan hệ ngoại giao với chúng tôi. Tại sao
không? Chúng ta từng có lúc đã là bạn hữu vào cuối đệ nhị thế chiến. Người Mỹ
từng huấn luyện chúng tôi chiến đấu lúc chúng tôi hãy còn là Việt Minh, người Mỹ
cũng đã cung cấp cả vũ khí cho chúng tôi. Đáng lẽ chúng ta nên duy trì tình hữu
nghị, đáng lẽ trận chiến này đừng bao giờ xảy ra. Thực bi thảm.
Ngày nay, người Việt không có gì để cay đắng về cuộc chiến
này. Tại sao? Lý do là bởi chúng tôi không làm gì sai trái về phương diện đạo
đức. Chúng tôi không bao giờ thả bom xuống đất Mỹ. Chúng tôi không bao giờ bắn
giết tù binh và thường dân. Còn những gì lính Mỹ đã làm, chúng tôi cũng hiểu
rằng họ được yêu cầu để làm cho đất nước họ mà thôi. Tôi từng nói chuyện với hơn
100 phi công Mỹ tại Hà Nội sau khi bị bắn hạ. Chúng tôi đã từng giam hơn 500
người trong tù tại đây, vào thời chiến. Đáng lẽ họ không bao giờ nên là kẻ thù
của chúng tôi.
Ngày hôm nay, tôi đã rất chán nản mệt mỏi về chiến trận. Những
ai đã phải tham dự chinh chiến mới biết cảm tạ hoà bình. Tất cả nhân dân thế
giới đều mong mỏi hòa bình.
Tôi đã trở nên một người của chiến cuộc và chính tôi chưa hề
bao giờ muốn như thế. Chúng tôi bị bắt buộc phải tham dự trận chiến. Nhân dân
Việt Nam thù ghét chiến tranh. Chúng tôi yêu chuông hòa bình. Tôi yêu chuộng hòa
bình.
__________________
(*) Ghi chú của tác giả Larry Engelmann: Tờ “Thống Nhất,” của
Bắc Việt đã mô tả tình tiết này trong số báo ra ngày 23 tháng Ba năm 1974 như
sau: “Người lính Mỹ cuối cùng bước lên máy bay tên là Bienco. Những người chiến
thắng bắt tay anh, chúc anh những điều tốt lành và trao tặng cho anh một tấm bưu
ảnh có hình chùa một cột ở Hà Nội. Anh lính Bienco ngạc nhiên, há hốc mồm ra
nhìn họ một lúc, lẩm bẩm vài lời cám ơn, rồi bước vào máy bay. Những cánh cửa
đóng lại. Chiếc máy bay Mac DC-9 40169 từ từ lăn bánh, cất cánh lên và biến mất
trong bầu trời”.
TRUNG TƯỚNG
TRẦN CÔNG MÂN ( Bắc Việt)
“Việc gì cũng cần phải có thời
gian”
Tỉnh Phước Long được giải phóng vào đầu năm 1975. Sau khi giải
phóng, cuộc tiến công Phước Long đã đặt cho chúng tôi hai hậu quả có thể xảy ra:
Hoặc tỉnh này sẽ bị chiếm lại, hoặc sẽ mãi mãi nằm trong tay chúng tôi. Và chính
đây là cuộc thử nghiệm đầu tiên của bộ đội chúng tôi nhằm đo lường tình thế miền
Nam.
Để lấy lại Phước Long, chính quyền Nam Việt Nam cần phải có
viện trợ quân sự cao độ của chính phủ Mỹ, nhưng chúng tôi nghĩ việc ấy không xảy
ra, vì cuộc tiến công đã được thi hành sau vụ Watergate, lúc ấy đã có những dấu
hiệu rõ rệt cho thấy công chúng Mỹ chán ngán chiến tranh rồi, quốc hội Mỹ đã bắt
đầu lãnh đạm với Việt Nam rồi.
Muốn thắng một cuộc chiến, người ta cần hiểu đối phương, cần
hiểu chính quyền họ. Có thể những người thiết lập kế hoạch ở Hà Nội không có đầy
đủ chi tiết hơn về sự vận hành của người Mỹ, nhưng với mô thức tổng quát mà
chúng tôi đã thấy, đã hiểu, thì chúng tôi biết khá rõ về thái độ người Mỹ, do đó
có thể dự tính về họ được.
Về lính miền Nam thì tinh thần của họ gắn liền với sức mạnh
Không quân Mỹ. Khi sức mạnh Không quân Mỹ giảm sút, tinh thần lính miền Nam cũng
giảm. Về những người lính bình thường của miền Nam thì họ đã mệt mỏi chiến
tranh, họ đã phải kéo dài một trận chiến không đi đến đâu. Nhưng đối với các sĩ
quan quân đội miền Nam thì tinh thần họ cao hơn, vì họ biết nếu chiến tranh chấm
dứt, sự nghiệp của họ cũng chấm dứt luôn.
Cuộc tiến công Phước Long là một cuộc trắc nghiệm đã được tính
toán hết sức thận trọng. Chúng tôi muốn thử cả chính quyền Mỹ lẫn chính quyền
Việt Nam. Nếu tấn công Quảng Trị, hoặc Đà Nẵng chẳng hạn thì xa quá, chúng tôi
không trắc nghiệm được phản ứng họ. Nếu tấn công Saigon thì gần quá. Cho nên
Phước Long là một địa điểm chúng tôi cảm thấy có một khoảng cách vừa phải đối
với Saigon. Tất nhiên, đã không có phản ứng nào xảy ra. Đó chính là điều chúng
tôi muốn tìm hiểu: Họ sẽ phản ứng, hay họ sẵn sàng buông xuôi? Câu trả lời là họ
đã buông xuôi.
Trước khi cuộc tiến công xảy ra, tôi đang ở Ban Mê Thuột,
nhưng khi tiến công, tôi ở Hà Nội. Tôi đã ở Hà Nội cho đến hết cuộc chiến này.
Về cuộc tấn công Ban Mê Thuột chúng tôi đã làm cho quân đội
miền Nam ngạc nhiên nhưng mặt khác, chính họ cũng làm chúng tôi ngạc nhiên vì họ
tan rã quá mau, chúng tôi không lường trước sự việc xảy ra như vậy. Chúng tôi cứ
tưởng sau cuộc tấn công Ban Mê thuột, quân đội miền Nam sẽ tái lập phòng tuyến
phản công. Chúng tôi dự liệu một trận mãnh liệt lâu dài hơn với quân đội miền
Nam ở vùng chung quanh Ban Mê Thuột. Nhưng ngay cả trong trí tưởng tượng, chúng
tôi cũng không hề nghĩ đến việc Thiệu đã phản ứng lại cuộc tấn công với cách như
thế.
Trong thực tế, phản ứng của Thiệu đã tạo một câu hỏi lớn trong trí óc chúng tôi,
làm chúng tôi tự hỏi phải chăng đây là một cái bẫy, một chiến thuật khôn khéo để
nhử chúng tôi. Không thể nào chúng tôi tin nổi những chuyện ông ta đã làm. Chính
vì hành vi đó của ông Thiệu, chúng tôi nghĩ chúng tôi sẽ phải đương đầu một
chiến thuật phòng thủ cực kỳ sáng tạo mới mẻ, do đó trước hết các cấp chỉ huy
của chúng tôi phải tiến lên hết sức cẩn thận, xem chừng đừng rơi vào bẫy.
Trong mấy ngày đầu, chúng tôi đinh ninh quân đội miền Nam đã
hoạch định một vài ngạc nhiên lớn dành cho chúng tôi. Nhưng đến khi Thiệu rút
quân ở Pleiku, đột nhiên chúng tôi nhận thức được là chẳng có cạm bẫy, chẳng kế
hoạch gì, miền Nam đã bỏ cuộc, không chiến đấu nữa. Lúc ấy là lúc chúng tôi
quyết định đuổi theo càng nhanh càng tốt.
Lúc đầu, khoảng những năm 1970, chính phủ Mỹ sử dụng máy bay
B-52 làm chúng tôi lo lắng. Nhưng trong năm 1975 vấn đề ấy không còn nữa, vì lẽ
vào năm 1972 người Mỹ đã không thành công trong việc đánh bom chúng tôi ở miền
Nam, nên chúng tôi biết ít khi người Mỹ thử lại lần nữa.
Sau khi chúng tôi đã giải phóng xong miền Trung, thì có vài
cuộc vận động ngoại giao giữa chính phủ Mỹ và Hà Nội nhằm mục đích làm chậm
những cuộc tiến công của quân đội miền Bắc.
Việc này không thực hiện trực tiếp giữa đôi bên, mà qua một số
nước khác, qua những người trung gian. Người Mỹ yêu cầu chúng tôi cho quân đội
đi chậm lại để họ có đủ thì giờ hoàn tất cuộc rút quân khỏi Saigon. Họ cảnh cáo
nếu chúng tôi không thực hiện như thế, họ sẽ can thiệp vào Việt Nam trở lại và
sẽ tiến hành những cuộc tấn công đắt giá cho chúng tôi. Đấy là những gì chúng
tôi đã được thông báo.
Tuy nhiên chúng tôi không còn coi điều ấy quan trọng nữa. Đấy
chỉ là một sự đe doạ vô nghiã vào năm 1975, chúng tôi biết rõ như thế. Người Mỹ
sẽ không còn quay trở lại.
Vì thế, gác bỏ những cảnh cáo nhằm làm chậm cuộc tiến quân,
ngược lại, chúng tôi còn cố tiến nhanh hơn để khỏi đánh vào mùa mưa. Chúng tôi
muốn đến Saigon trước khi mùa mưa khởi đầu. Nếu có một lúc nào cuộc tiến công có
vẻ chậm lại, đấy chỉ vì nhu cầu chiến thuật dàn quân mà thôi.
Tôi không ở trong một số ít người có đặc quyền được biết điều
này, tuy nhiên quan niệm của tôi là cuộc tiến công hoàn toàn do chúng tôi tiến
hành, tuyệt đối không ai khác, tuyệt đối không có Liên Xô hay Trung Quốc liên hệ
gì đến việc hoạch định cả.
Sau hiệp định Pa-ri, có việc rút giảm tiếp vận vũ khí từ các nước Xã Hội Chủ
Nghiã. Nhưng Trung Quốc lại khác, vì trước cả hiệp định Pari, Trung quốc đã ký
hiệp định Thượng Hải với Mỹ. Dựa trên sự công bố hiệp định này thì rõ ràng Trung
Quốc không hỗ trợ chúng tôi và không thực sự muốn chiến tranh Việt Nam chấm dứt.
Trung Quốc không thực sự hài lòng vui vẻ gì về việc cuối cùng trận chiến đã được
giải quyết, họ không hài lòng vui vẻ gì về cuộc Đại thắng mùa Xuân của chúng
tôi.
Các viên chức cao cấp Nam Việt Nam bấy giờ đã cố gắng nhằm đạt đến một thoả
thuận trong việc kết thúc cuộc chiến. Khi thấy rõ sẽ thua, đột nhiên họ muốn có
chính phủ liên hiệp. Nhưng chúng tôi đã ra lệnh bộ đội cứ gia tăng áp lực để đạt
chiến thắng càng nhanh càng tốt, chúng tôi không chú ý đến bất cứ một hình thức
chính phủ liên hiệp nào ở Saigon. Đã quá muộn rồi.
Chúng tôi chỉ nhằm đánh quân đội miền Nam, chúng tôi không muốn làm bất cứ một
hành động nào liên hệ đến người Mỹ. Vì thế chúng tôi không đụng chạm gì đến
người Mỹ, tuyệt nhiên không bắn họ. Chúng tôi chỉ muốn người Mỹ ra khỏi đất nước
chúng tôi càng sớm càng tốt, ngõ hầu chúng tôi có thể dốc toàn lực vào thanh
toán quân đội miền Nam.
Chúng tôi nghĩ toà Đại sứ Mỹ là cánh tay của Ngũ Giác Đài, nên
chúng tôi cho rằng biện pháp tốt nhất là để tất cả người Mỹ ra đi từ Tòa Đại sứ
mà hồi hương. Chúng tôi không làm thoả thuận nào với miền Nam về bất cứ điều gì.
Chúng tôi không hề thoả thuận gì về việc Không quân của họ ở lại Saigon. Tất
nhiên là không. Thực tức cười!
Mặc dầu ở Hà Nội, nhưng tôi vẫn được thuyết trình hàng giờ về
những gì xảy ra chung quanh Saigon. Các tin tức về việc Saigon sụp đổ đã được
thông báo cho các cán bộ lãnh đạo cao cấp ở đây trước. Tôi không phải là người
duy nhất được nghe tin. Tất cả mọi người đã nhận được tin ấy vào khoảng buổi
trưa ngày ba mươi. Tất cả đã tràn ra ngoài đường, vô cùng sung sướng. Chiến
tranh đã dứt.
Chúng tôi cử hành liên hoan mừng Giải phóng Saigon. Thực tình
chúng tôi nghĩ rằng còn phải khó khăn chứ không ngờ dễ dàng như vậy. Chúng tôi
hết sức ngạc nhiên.
Việt Nam đã lâm vào tình trạng chiến tranh quá lâu, mọi người
đều mong mỏi chiến tranh kết thúc nhưng chẳng ai biết bao giờ mới chấm dứt. Vì
thế chiến thắng cuối tháng Tư là nỗi ngạc nhiên lớn cho tất cả mọi người. Ai nấy
đều vui mừng. Mọi người chạy cả ra đường hò reo, hô khẩu hiệu, ca hát nhảy múa.
Lúc ấy tôi bận quá, không thể về nhà được. Tôi là Tổng Biên
tập tờ Nhân Dân nhật báo nên phải viết bài cho tờ báo ấy.
Liên hệ vào cuộc chiến này là một lầm lẫn của chính phủ Mỹ. Họ
đã không nhận thức được sức mạnh thực của những người mong muốn thống nhất và
giải phóng đất nước họ.
Chúng tôi không đặt trách nhiệm cho nhân dân Mỹ về những gì
xảy ra ở Việt Nam. Những thanh niên chiến binh Mỹ được gửi đến chiến đấu ở đây
đã bị chính phủ họ lừa dối để tham dự vào việc sai trái. Khi những người này đến
Việt Nam bắn giết, thực sự họ không rõ họ đã làm những gì.
Giờ đây chiến tranh đã qua. Giữa dân tộc của đất nước quý ông
và dân tộc đất nước chúng tôi không còn thù hận gì nữa. Không lý do gì để chúng
ta không thể làm bạn với nhau được.
Chính phủ Mỹ đã gây ra cuộc chiến, nên chính phủ Mỹ cần có
nghiã vụ đạo đức và nghiã vụ tài chánh đối với nhân dân Việt Nam. Nhưng nhân dân
Việt Nam không chạy theo xin xỏ những chuyện này. Tuy nhiên tốt hơn hết, ngay
bây giờ chính phủ Mỹ nên xúc tiến việc thiết lập quan hệ bình thường với Việt
Nam. Chúng tôi không yêu cầu gì hơn.
Trận chiến này chính là trận chiến dài nhất trong lịch sử Mỹ.
Trận chiến này cũng là trận chiến dài nhất lịch sử Việt Nam, đã đem đến ba mươi
năm đau đớn xót xa, khốn khổ cho người Việt. Tuy vậy, vào lúc kết thúc, nó cũng
đem đến được một điều tốt đẹp, đấy là cuối cùng, đất nước đã thống nhất, độc
lập. Cho nên cuộc chiến cũng đã đem lại nhiều kết quả và cảm xúc lẫn lộn. Nhân
dân chúng tôi mất mát nhiều mạng sống, nhiều của cải nhưng nhân dân chúng tôi đã
đạt độc lập, thống nhất, hòa bình, nên cuối cùng cuộc chiến cũng đáng giá cho
những mất mát ấy.
Cũng xin đừng quên đây là một đất nước nhỏ bé, nghèo nàn mà
vượt qua được một quyền lực lớn lao, giàu có. Cho nên cuộc chiến cũng đáng giá
cho những mất mát ấy.
Có lẽ chính đây là một đặc tính của dân tộc Việt Nam, ngày nay
chúng tôi không hề mang niềm cay đắng nào đối với người Mỹ. Chúng tôi đã từng
phải trải qua rất nhiều năm chinh chiến với nhiều thế lực ngoại quốc đã muốn
chiếm đóng Việt Nam. Nhưng khi cuộc chiến đã xong, không lý do gì để ôm mãi
những mối hằn học nữa.
Đối với những người Mỹ đã phản đối, đã không cộng tác với cuộc
chiến chống Việt Nam, như Jane Fonda, Tom Hayden, Harrison Salisbury, họ đã làm
những gì đúng đắn, người Mỹ cũng không nên hằn học với họ. Nếu người Mỹ vẫn duy
trì chính sách mà người Mỹ đã thiết lập từ năm 1945 với ông Archimedes Patti của
O.S.S. đối với dân tộc Việt Nam thì cuộc chiến này đã không bao giờ xảy ra. Nếu
quần chúng Mỹ được thông báo rõ về các mục tiêu và ước vọng của dân tộc Việt
Nam, thì chắc chắn họ đã phải hỗ trợ cho các nỗ lực của chúng tôi trong công
cuộc thống nhất đất nước chúng tôi.
Dù sao đi nữa, nếu chính phủ Mỹ có thể thoải mái dễ dãi hơn
trong chính sách cho tin tức được loan chuyển tự do, không có thành kiến chống
chính phủ Việt Nam, thì con người có thể hiểu rõ hơn về nhau, về các vấn đề của
đất nước này ngày hôm nay.
Tôi hiểu người Mỹ cảm thấy không thoải mái với người Nga tại
đây. Tuy nhiên quả có một vấn đề trong việc trình bày tin tức từ Việt Nam. Quần
chúng Mỹ đã được bảo rằng ngày nay Việt Nam là một thuộc địa của Nga, nhưng nếu
có những tin tức thông thạo chính xác thì quý vị sẽ thấy chúng tôi độc lập.
Chúng tôi không thuộc về ai ngoài chúng tôi.
Chính phủ Mỹ sợ người Nga hơn sợ người Tàu. Tôi không rõ tại
sao. Cả hai đều là Cộng sản. Tôi không rõ tại sao vậy.
Sẽ cần phải có thời gian để chính phủ Mỹ thoát ra được cảm
giác thù nghịch Việt Nam. Việc gì cũng cần phải có thời gian.
TƯỚNG TRẰN
BẠCH ĐẰNG
“Chúng tôi tin
vào sự tha thứ và rộng lượng bỏ qua”
Mùa xuân năm 1975 tôi ở trong ban lãnh đạo Mặt Trận Giải Phóng
Miền Nam đặt tại Tây Ninh. Tôi công tác với các chỉ huy cấp cao để hoạch định
cuộc tiến công mùa Xuân đánh chính quyền Nam Việt Nam. Tất nhiên tôi đã có liên
lạc chặt chẽ vói tướng Văn Tiến Dũng, người chỉ huy quân đội Nhân Dân Việt Nam.
Đạo Cao Đài đặt trung tâm tại Tây Ninh. Mặc dù là một tôn
giáo, nhưng đạo này vẫn có vũ trang, binh sĩ riêng. Tuy nhiên họ chia làm hai
nhóm. Một nhóm hoạt động như lực lượng phụ của chính quyền miền Nam, nhóm kia
lại hoạt động với người của Mặt Trận Giải Phóng miền Nam.
Ở Ban Mê Thuột vùng cao nguyên năm 1975, người Thượng cũng
vậy. Một số ở trong tổ chức Fulro, thiết lập bởi cơ quan Trung ương Tình báo Hoa
Kỳ. Nhưng cũng có một nhóm người Thượng khác do Ibid Aleo lãnh đạo, nhóm này
hoạt động với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam từ lâu. Và khi trận Ban Mê Thuột bắt
đầu, nhiều người Thượng đã đi theo quân đội của tướng Văn Tiến Dũng, chống lại
binh sĩ Nam Việt Nam mà tham gia lực lượng chúng tôi. Còn một nhóm khác cũng
hoạt động cho chúng tôi tại khắp vùng cao nguyên.
Chúng tôi đã trà trộn vào được hàng ngũ cao cấp của chính
quyền Nguyễn Văn Thiệu. Tổ chức chúng tôi cũng bị xâm nhập, nhưng chỉ ở những
cấp dưới thôi.
Tôi muốn làm sáng tỏ một điểm quan trọng: Tướng Dũng chỉ là môt bộ phận nhỏ của
cả tổ chức lớn lao. Ông là tư lệnh tiền phương. Ông không liên hệ gì đến các
chiến thuật và việc ấn định thời điểm cả. Ông có các nhiệm vụ khác tại tiền
tuyến. Vị Tổng tư lệnh bấy giờ là Tướng Võ Nguyên Giáp.
Mối quan tâm chính là làm sao loại bỏ được sự can thiệp của
chính quyền Mỹ tại Việt Nam. Chúng tôi đã tập trung vào Hiệp định Pa-ri để tìm
cách loại bỏ sự hiện diện của Mỹ. Chừng nào lực lượng ấy rút, kế hoạch lấy miền
Nam sẽ chỉ còn là một bước toan tính dễ dàng. Và một khi người Mỹ đi rồi, thực
là dễ, vì cuối cùng chỉ còn người Việt đánh người Việt mà thôi. Khoảng đầu năm
1975 khi lấy Phước Long, chúng tôi biết có thể tiến nhanh hơn dự liệu, vì sẽ
không còn Mỹ can thiệp. Và quân đội Nam Việt Nam cũng đã không thành tựu trong
việc phản công Phước Long. Trước kia họ luôn luôn đánh lại, nhưng nay họ không
còn hành động gì để tái chiếm tỉnh lỵ Phước Long, nên chúng tôi tin lần này
chúng tôi có thể tiến, tiến nhanh.
Sau khi Phước Long thất thủ, Tổng thống Thiệu đã gửi một phái đoàn quốc hội sang
Hoa Kỳ để xin thêm đạn dược và tiếp vận. Phái đoàn này được hướng dẫn bởi ông
Đinh Văn Đệ, Chủ tịch ủy Ban Quốc Phòng tại Quốc Hội. Ông yêu cầu Tổng thống
Ford 300 triệu Mỹ kim quân viện. Ông đã trình bày hình ảnh Nam Việt Nam với
Ford. Sau khi tổng thống Ford nghe xong những gì ông Đệ trình bày thì Ford biết
chẳng có thể nào ngăn cản sự thất trận của miền Nam được nữa. Khi phái đoàn quay
về Việt Nam, ông Đệ đã soạn một bản báo cáo gửi cho Lực lượng Cách mạng ở Hà
Nội, báo cho Hà Nội biết những gì xảy ra. Đấy, ông thấy, ông Đệ là một dân biểu
Nam Việt Nam, nhưng ông ấy cũng hoạt động cho Mặt Trận Giải Phóng. Ông đã luôn
luôn thông báo hết cho chúng tôi biết những gì xảy ra. Đó là mức độ chúng tôi đã
trà trộn vào chính quyền miền Nam Việt nam. Một mức độ rất cao. Ông Đệ đã trình
bày vấn đề bằng một cách làm chính phủ Hoa Kỳ phải từ chối, phải cho là viện trợ
không ích lợi gì nữa. Khi nhận báo cáo của ông Đệ, chúng tôi biết chẳng thế nào
chính phủ Hoa Kỳ sẽ quay lại can thiệp vào Việt Nam nữa.
Chúng tôi đã không lọt vào tòa Đại sứ Hoa Kỳ và cơ quan Trung ương Tình báo tại
Saigon ở cấp độ thấp, như thư ký chẳng hạn. Chúng tôi thực sự cài người vào
những chức vụ rất cao trong các tổ chức này. Những chức vụ tuyệt đối cao. Chúng
tôi đã gửi một Đại tá của Mặt Trận Giải Phóng miền Nam cũng là Đại tá miền Nam,
vào làm việc trong hệ thống Quân báo Hoa Kỳ. Một trong những người nằm vùng khác
của chúng tôi, ông Phạm Xuân Ẩn, là người đã viết rất nhiều cho tạp chí Time.
Một cố vấn đặc biệt của ông Thiệu cũng là người của chúng tôi, đó là ông Huỳnh
Văn Trọng. Với tư cách cố vấn của ông Thiệu, ông đã gặp gỡ nói chuyện với
Kissinger và với Nixon, thế mà suốt thời gian ấy, ông đã hoạt động cho Mặt Trận
Giải Phóng Miền Nam. Hà! Hà!
Chúng tôi không sử dụng đến đàn bà để ngủ với viên chức Mỹ hay với các sĩ quan
tình báo. Ông thấy tại sao chúng tôi không hoạt động cách đó, là bởi vì chúng
tôi đã nhìn ra được việc gài người vào tòa Đại sứ Hoa Kỳ và cơ quan Trung Ương
Tình báo không đến nỗi quan trọng, bởi vì thực ra họ chẳng biết được bao nhiêu.
Tôi đã nhiều lần nằm
vùng ở Saigon, đã vào Saigon năm 1975 mà không sợ ai phản bội. Hệ thống chúng
tôi rất chặt chẽ, ở đấy tôi đã tổ chức tất cả, nên tôi biết hệ thống an ninh
chúng tôi rất tốt. Tôi là Bí thư Đảng bộ miền Nam đầu tiên đặt trụ sở tại
Saigon, trong những năm 1960 tôi đã ở đây. Rồi đến năm 1975 tôi ở Tây Ninh cho
đến khi tôi tiến vào lại Saigon với các lực lượng Cách mạng.
Tôi vào Saigon với đơn vị chỉ huy buổi sáng ngày 30 tháng Tư.
Tôi không đến dinh Tổng Thống, đấy không phải là nhiệm vụ của tôi. Tôi đã được
ủy nhiệm giám sát việc tiếp thu tất cả các phương tiện truyền thông và báo chí
trong thành phố. Tôi lãnh nhiệm vụ coi sóc phương diện tâm lý và tư tưởng trong
thành phố.
Người miền Nam có sợ tắm máu khi quân đội miền Bắc tiến đến
không? Tôi không tin là như thế. Hãy nhớ tôi đã đến từ thành phố, trong năm 1968
tôi đã tổ chức và chỉ huy cuộc tổng công kích Saigon. Tôi biết rõ người trong
Thành phố, tôi biết họ nghĩ gì. Họ đã tràn ra đường hoan nghênh quân đội tới,
nên tôi biết họ không sợ.
Bây giờ xin kể chuyện về căn nhà của cựu Đại tá Mỹ William
Porter. Đấy là nơi cả ông Mc George Bundy cùng nhiều giới chức Mỹ cao cấp khác
đều đã đến thăm viếng. Nhưng quý ông có biết ai ở cạnh nhà ông Phó Đại sứ Mỹ hay
không? Chính là tôi! Trong lúc Porter cùng nhiều giới chức Mỹ cao cấp khác đứng
nói chuyện trong sân, tôi sống ngay sát cạnh nhà. Ngay đấy, tôi có thể nhìn thấy
họ, nghe họ nói. Không việc gì mà tôi phải sợ tại Saigon. Tôi được quần chúng
bảo vệ. Nhân dân biết tôi là ai, họ biết tôi làm gì.
Đáng lẽ, nếu Hoa Kỳ để lại một số nhân viên cấp dưới tại tòa
Đại sứ lúc ra đi vào năm 1975 thì sẽ thuận lợi cho cả đôi bên. Đại sứ Graham
Martin đáng lẽ không phải đi. Vũ Văn Mẫu đã đòi người Mỹ ra đi chỉ vì, theo ông
ta nói, là do Mặt Trận Giải Phóng đòi hỏi điều ấy. Nhưng thực ra, các chỉ thị
không nhắm tòa Đại sứ cùng các nhân viên ngoại giao, nó chỉ nhắm đến những người
bên văn phòng Tùy viên quân sự là những người chúng tôi muốn họ ra khỏi nước
thôi. Thực là một lỗi lầm lớn. Người Mỹ hiểu sai điều ấy mà rút tất cả nhân viên
tòa Đại sứ ra đi.
Trước khi tấn công Phước Long cuối năm 1974, kế hoạch chúng
tôi là chiếm miền Nam vào khoảng 1976. Thật thế. Chuyện này đã ở ngoài tầm tay
chúng tôi. Sau khi đánh Phước Long, rồi đến Ban Mê Thuột, bấy giờ chúng tôi định
lên Kontum, và Pleiku, hoặc là sang phiá Đông. Những gì xảy ra sau đó hoàn toàn
chỉ là lỗi lầm của quân đội Nam Việt Nam. Họ cứ thế tháo chạy. Vì vậy lập tức
chúng tôi phải sửa lại các kế hoạch khẩn cấp. Đột nhiên chúng tôi không còn phải
đợi đến 1976 mói hoàn tất các kế hoạch. Chúng tôi biết rõ Thiếu tướng Ted Serong
đã từng đề nghị một kế hoạch rút quân cho Tổng thống Thiệu, nhưng chúng tôi
không hề nghĩ Thiệu sẽ sử dụng đến. Ngay khi kế hoạch này vừa được trình bày với
Thiệu, cùng một lúc chúng tôi đã tức khắc biết ngay từng chi tiết kế hoạch,
chúng tôi cũng đem cả kế hoạch ra phân tích. Theo kế hoạch ấy, quân ở cao nguyên
sẽ được rút đi, miền Nam sẽ được bảo vệ. Nhưng Thiệu đã ra lệnh triệt thoái, một
cuộc triệt thoái tán loạn, thế là hết chuyện. Sau khi lấy Ban Mê Thuột, chúng
tôi có buổi họp các cán bộ cao cấp để cân nhắc việc Mỹ có thể can thiệp trở lại
hay không. Buổi họp này có đồng chí Lê Duẩn tham dự. Kết luận là chẳng cách gì
Mỹ sẽ tái can thiệp vào việc đánh cứu miền Nam nữa. Do đó chúng tôi nhất quyết
đạt thắng lợi cuối cùng vào năm 1975, sớm hơn dự định một năm.
Trong cao điểm đêm 30 tháng Tư, tôi đã ngủ ở dấy. Tôi hết sức
bận rộn trong nhiệm vụ mới để giám sát ngành truyền thông báo chí, làm việc 24
giờ một ngày nên hôm ấy chẳng có thể còn ý nghĩ riêng tư nào. Tại Saigon có đến
400 thông tín viên, vì thế nhu cầu quan hệ là phải duy trì việc cung cấp tin tức
cho các thông tín viên ngoại quốc. Trong suốt tuần lễ đầu tháng Năm, tôi rất bận
rộn trong công tác duy trì việc cung cấp tin.
Lúc ấy vẫn có nhiều thông tín viên Tây phương ở lại Không phải
tất cả đều chạy. Tôi nhớ Alan Dawson đã ở đây, tôi đã gặp ông ta.
Về việc Đại sứ Graham Martin quan tâm đến câu hỏi tạo sao
chúng tôi pháo kích đêm 29 tháng Tư, và cho rằng đấy là bởi vì Không quân Nam
Việt Nam đã được phép đưa máy bay sang Thái Lan. Thật ra đây chỉ là câu chuyện
dựng đứng. Không bao giờ có việc thoả thuận với người Nga về thời điểm Mỹ rút
đi. Người ta đã dựng lên chuyện ấy. Vào lúc này người Nga không kiểm soát gì ở
Việt Nam cả. Chúng tôi hoạch định thế nào, chuyện gì xảy ra, ngay như thế chúng
tôi cũng không thông báo gì cho người Nga biết.
Lý do thực sự tại sao chúng tôi đã pháo phi đạo Tân Sơn Nhất
không phải vì lẽ Không quân miền Nam đã rút máy bay đi. Chúng tôi pháo phi
trường giản dị chỉ vì lúc ấy đơn vị pháo binh đã vào đến tầm bắn Tân Sơn Nhất mà
thôi.
Chúng tôi không pháo người Mỹ trong lúc họ di tản, bởi đã có
một phái đoàn Nam Việt Nam tới Tân Sơn Nhất thương thuyết với người của chúng
tôi tại trại Davis. Tướng Minh nắm quyền hôm 28 đã cho người đến phi trường nói
chuyện với chúng tôi. Chính vì thế chúng tôi đã ngưng các kế hoạch tấn công
thành phố. Chúng tôi dự định bắn vào
thành phố 150,000 quả đạn, nhưng vì lời thỉnh cầu của phái đoàn từ ông Minh mà
sau đêm 28 tháng Tư, chúng tôi đã ngưng pháo kích thành phố. Đến Tân Sơn Nhất để
thương thảo với Mặt Trận Giải Phóng miền Nam là Linh mục Chân Tín và ông Trung
Ngọc Liêng.
Minh đã chỉ thị cho những người này đến nói chuyện với phiá
chúng tôi. Bấy giờ chúng tôi có một nhóm đại diện từ miền Bắc đặt tại Tân Sơn
Nhất, suốt thời gian ấy vẫn có nhiều liên lạc diễn ra.
Về sự an toàn của đường bay từ Tòa Đại sứ ra biển thì nếu muốn
bắn trực thăng, người ta phải đặt vị trí ở những chỗ có thể bắn được. Nhưng súng
của chúng tôi đặt ở các khu đầm lầy, vì thế chúng tôi không thể bắn các máy bay
ấy. Và cũng chẳng có lý do gì để làm thế, vì lẽ trên máy bay chỉ có dân sự chứ
không có nhân viên quân đội. Chúng tôi chẳng có lý do gì để bắn họ cả.
Có hai điểm nữa. Thứ nhất, bởi vì phía chúng tôi là phía chiến
thắng, chúng tôi vui mừng và không thù hận. Thứ hai, chúng tôi tin vào sự tha
thứ và rộng lượng bỏ qua. Khi hai phía là địch thù, chúng ta phải đánh, nhưng
một khi cuộc chiến đã qua, chẳng còn lý do gì để thù hận nữa. Đấy là một đặc
tính văn hoá của người Việt Nam.
Năm 1954 chúng tôi đã từng nỗ lực giải phóng toàn thể đất
nước, nhưng chỉ đạt được một nửa, ấy là lúc chúng tôi cay đắng hận thù. Nhưng
bây giờ chúng tôi đã thắng, chúng tôi không thù ghét gì nữa cả.
Tất nhiên hiện nay chính phủ Mỹ đang mắc nợ người Việt một
nghiã vụ đạo đức. Chẳng nghi ngờ gì. Nghiã vụ ấy có phải là một nghiã vụ tài
chánh hay không, điều ấy tùy cách người ta tin tưởng. Đấy là một đề tài tranh
luận, và có nhiều quan niệm khác nhau. Tuy nhiên, tôi tin chính phủ Mỹ nên góp
phần vào việc tái thiết Việt Nam, nhưng không cần phải là bồi thường chiến
tranh. Trong mấy tháng qua tôi đã gặp một số ký giả và các nhà nghiên cứu. Một
số là người Mỹ. Họ đều đã hỏi cùng một câu hỏi: Nay chiến tranh đã qua rồi,
người Mỹ nên làm gì ở Việt Nam?
Quá khứ đã trôi đi. Chúng ta có thể miêu tả quá khứ bằng bất
cứ nhãn hiệu nào chúng ta muốn: là lỗi lầm, là tai họa, là tính sai. Bất cứ cách
nào. Riêng cá nhân tôi, tôi tin chiến tranh là điều đáng tiếc. Tôi muốn dừng ở
đấy. Nhưng cái gì đã qua là qua đi. Chúng ta không làm cho những người bỏ mình
sống lại được. Và vì thế, chúng ta cần phải cùng nhau tiếp tục cuộc sống, chúng
ta đều cùng nhau chung sống trong cùng một hành tinh này, nếu cứ ôm ấp mãi hận
thù, điều ấy chẳng ích lợi gì cho ai.
NGUYỄN SƠN
(Lính Miền Bắc)
“Khi cùng thì phải cố”
Năm mười chín tuổi tôi xâm lên cánh tay mấy chữ: “Sinh Bắc Tử
Nam”. Lúc ấy tôi đang đi học. Xâm tay rồi, lại đổi ý, chẳng muốn chết ở miền Nam
nữa. Đến lúc phải nhập ngũ, tôi tìm đủ cách để lẩn trốn. Tôi kéo dài cho đến khi
chiến trận miền Nam đã xong. Đến 1977 mới phải nhập ngũ. Cuối cùng vào bộ đội là
vì bắt buộc thôi.
Khi xâm tay thì tôi ở Hà Nội, năm 1972 , đang học lớp 10. Năm
ấy chiến tranh căng thẳng hơn, nhà trường đã sơ tán ra ngoại ô Hà Nội. Tôi ở lại
Hà Nội, không đi theo nhà trường. Tôi đã ở Hà Nội suốt thời gian Hà Nội bị đánh
bom vào mùa Giáng Sinh 1972.
Cứ như tôi nhớ, tàu bay đã bỏ bom từ 15 đến 27 tháng Chạp.
Trước ngày 15 khắp chung quanh ngoại ô Hà Nội đã bị bom, rồi từ 15 đến 27, chính
Hà Nội cũng đã bị born đánh xuống.
Đầu tiên họ đánh Đài phát thanh. Sau khi Đài phát thanh trúng,
họ dội khắp nơi, cả nội lẫn ngoại thành Hà Nội. Khu An Dương là khu đầu tiên bị
nặng nhất. Trên căn bản, họ chỉ đánh bom Hà Nội ban đêm, cho nên ban đêm tôi chả
thấy gì ngoài lửa chớp. Nhưng nhớ cũng có lần vào sáng sớm, tôi đã thấy tận mắt
tàu bay dội bom. Một lần nữa vào đêm 24 tảng sáng 25, tôi thấy một chiếc B-52
đánh xuống khu Khâm Thiên. Một bệnh viện trúng bom, đấy là bệnh viện Bạch Mai.
Chúng tôi chẳng sợ nếu nhỡ bị Mỹ giết. Tôi nghĩ “Số chết thì
phải chết”, nhưng tất nhiên chúng tôi tránh xa các mục tiêu quan hệ, nhiều người
đã sơ tán khỏi thành phố. Thế mà cũng khối người đã chết.
Ông cần phải biết lúc ban đầu, trong năm 1964 dân miền Bắc rất
sợ chiến tranh, sợ tàu bay Mỹ. Nhưng chiến tranh cứ tiếp diễn mãi thì người ta
phải dầy dạn hơn. Họ hết sợ bom, họ không rụt rè nữa. Thay vì sợ sệt, ho muốn
chấm dứt bọn bỏ bom.
– Chúng tôi không hề được chính phủ giải thích gì về chuyện bỏ
bom cả.
– Tôi chả suy nghĩ sâu xa gì về chuyện bỏ bom. Tôi có thấy mấy
phi công Mỹ được điệu đi diễn hành quanh Hà Nội, nhưng đấy là năm 1967 chứ không
phải sau này. Nhà tôi gần nhà máy điện, vì nhà máy điện cung cấp điện cho cả
thành phố Hà Nội, đã hóa thành mục tiêu trọng điểm trong các vụ đánh bom, nên
tôi có thấy phi công Mỹ bị hạ, bị bắt làm tù binh, bị đưa đi diễn hành. Dân
không được phép đến gần nói chuyện với tù binh. Tôi chỉ nhìn họ từ xa. Tôi chả
biết gì về họ, nhưng tôi cũng tự hỏi tại sao lại dội bom chúng tôi.
– Lúc ấy tôi chẳng có cảm giác gì về chiến tranh, về người Mỹ,
tôi chỉ đi học, không lưu ý đến tin chính trị hoặc tin chiến sự trong Nam. Nhưng
những người khác ở miền Bắc rất quan tâm đến tin chiến tranh để theo dõi tình
hình.
Tôi còn nhớ năm 1972 ông Lê Đức Thọ và Henry Kissinger đã liên
hệ gì đấy trong việc hội họp chuẩn bị hiệp định Paris. Hà Nội đã bị bom ngay
trong lúc các buổi hoà đàm đang diễn ra.
Ở miền Bắc, nhân dân không thích gì chiến tranh. Vì thế mọi
người hết sức quan tâm đến các tiến triển của việc thương thảo, và bất cứ cái gì
liên hệ đến việc chấm dứt chiến tranh.
Nhiều người đã chết cho lý tưởng thống nhất đất nước, miền Bắc
hay miền Nam cũng đều là Việt Nam cả, nên cần họp lại thành một nước. Lúc lớn,
đọc nhiều hơn, tôi mới được hiểu đáng nhẽ vào năm 1956 hai miền phải có tổng
tuyển cử để thống nhất đất nước trong hoà bình thay vì bằng chiến trận và vũ
khí. Nhưng tôi biết là họ đã không đồng ý thực hiện những việc đáng lẽ phải xảy
ra, vì thế mới có đánh nhau.
Tôi nghĩ Hồ Chí Minh là một anh hùng. Tôi thành thực ngưỡng mộ
kính trọng vì Bác là một lãnh tụ rất tài giỏi khôn ngoan. Cũng như Hitler ở bên
Đức. Đầu tiên Bác chỉ là thường dân, nhưng Bác đã đi du lịch khắp nơi trên thế
giới để tìm đường giành độc lập cho Việt Nam từ tay chính phủ Pháp. Bác cũng đã
chiến đấu chống Nhật xâm lược. đấy, vì thế tôi hết sức kính phục Bác.
Tôi cũng kính phục đại tướng Võ Nguyên Giáp. Đây, tôi xin kể
cho ông nghe. Ông ấy là tướng. Ông ấy ở trong chính trị bộ. Ông ấy là Tổng
Trưởng Quốc Phòng. Ông ấy là người tài ba. Ông ấy có thể nói nhiều thứ tiếng.
Ông không được nể phục bằng Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là đại anh hùng cả nước.
Ngay sau 1975 cũng có nhiều người quan trọng mà tên tuổi đáng ghi nhớ trong lịch
sử nhưng người ta vẫn chẳng buồn biết đến. Người ta chỉ ghi nhớ: Thứ nhất Hồ Chí
Minh, thứ nhì Phạm Văn Đồng, thứ ba là Võ Nguyên Giáp.
Khi tôi còn 17, 18, 19, tôi nghĩ nếu hết chiến tranh thì ít
nhất cũng phải đến 1979 hay 1980. Tôi không bao giờ ngờ là sớm như vậy. Chẳng
bao giờ nghĩ đến năm 1975 đã hết. Nhưng tôi chưa hề bao giờ nghi ngờ gì, tôi
chắc chắn chúng tôi sẽ thắng.
Trừ phi ông sống trong chế độ cộng sản, không thì không thể
hiểu tại sao tôi đã đã nghĩ như thế. Đây, người miền Nam nghĩ rằng họ sẽ thắng,
còn người miền Bắc thì biết rằng sẽ thắng. Có một câu cách ngôn Việt Nam liên hệ
đến chiến thuật quân sự: “Biết mình, biết người, trăm đánh trăm thắng”. Miền Nam
không biết gì miền Bắc. Còn miền Bắc biết hết mọi chuyện miền Nam.
Dân miền Bắc chẳng hề bao giờ sợ sệt các lực lượng quân sự Mỹ.
Tại sao thế? Lâu lắm rồi, từ khi còn bé tôi đã nghe một câu tuyên bố của một ai
đấy trong chính phủ Mỹ – mấy ông tướng thì phải – họ bảo họ sẽ “Ném bom Bắc Việt
cho Bắc Việt quay lại thời đại đồ đá”. Tôi đã được nghe nói thế ở trường học. Và
tôi nhớ lại Hồ Chí Minh đã gợi lên biết bao nhiệt tình và lòng yêu nước của
người miền Bắc. Bác bảo cuộc chiến này có thể kéo dài hàng 5 năm, 10 năm hay 15
năm, do đó chúng tôi phải luôn luôn sẵn sàng. Tôi nhớ ở nhà trường, tôi đã được
yêu cầu phân tích những lời tuyên bố ấy. Chúng tôi trở nên thấu suốt và giữ vững
lập trường của chúng tôi trong cuộc chiến. Nhờ sự tin tưởng ấy, chúng tôi trở
nên không sợ hãi cuộc chiến nữa.
Ông thấy, khi người ta bị dồn chân tường thì còn cách gì khác
hơn là đứng dậy đương đầu với vấn đề trước mặt? “Cùng thì phải cố.” Vì thế chẳng
còn sợ gì, bởi vì thế chúng tôi phải xông lên. Chúng tôi bị bắt buộc phải chấp
nhận vị trí và số phận chúng tôi. Nhìn lên trời thì máy bay Mỹ dội bom, chúng
tôi lại chỉ có thể bắn trả từ dưới đất. Giả thử có thể làm giảm bớt được số
lượng bom ấy thì tốt quá, nhưng làm gì được, làm ở đâu bây giờ? Chúng tôi còn
cách nào khác hơn là chấp nhận tình thế, tốt nhất chẳng sợ gì nữa. Và nếu muốn
khỏi bị bom thì phải vào Nam đánh Mỹ ra khỏi nước, chúng tôi chỉ có cách duy
nhất ấy để tự vệ thôi.
Cuộc sống miền Bắc không ổn định vì bom đạn liên miên, chiến
tranh căng thẳng. Cái gì cần làm, người ta cố làm, việc ai nấy lo. Tình trạng
đất nước như thế, làm sao sản xuất hàng hóa có phẩm chất tốt cho được? Hoạ may
hoà bình thì mới mong có phẩm chất tốt thôi.
Khi Sài Gòn đầu hàng, mọi người mở liên hoan, ai nấy đều sung
sướng. Tôi nghĩ có bốn lý do làm chúng tôi vui mừng mà mở liên hoan.
Thứ nhất, những gia đình có thân nhân vào Nam chiến đấu, họ
sung sướng vì đất nước thống nhất, không còn đánh nhau. Những người thân sẽ về
với gia đình.
Thứ hai, nó liên hệ đến tình trạng tinh thần và cảm xúc mới
của người miền Bắc. Trước kia cuộc sống luôn luôn khó khăn, người ta đều lo
lắng, nhưng giờ đây chẳng còn phải ngay ngáy lo đạn bom, chết chóc nữa.
Lý do thứ ba liên hệ đến khả năng sum họp với những người thân
yêu. Xin nhớ vào năm 1954, đã có rất nhiều người vào Nam. Trong những năm chiến
tranh, người ta đứt liên lạc, chẳng biết ai còn ai mất. Bây giờ đất nước trở lại
làm một, người ta lại có thể liên lạc với nhau.
Thứ tư, thế hệ trẻ muốn vào thăm miền Nam để so sánh tìm hiểu
cuộc sống miền Nam thực sự ra sao.
Còn ở Hà Nội, sau 1975 cuộc sống có tốt đẹp hơn không? Có cái
có, có cái không. Đời sống vật chất có phần sút kém đi sau 1975, nhưng lại tốt
hơn nếu nói về mặt tâm lý, mặt tinh thần, về cuộc sống nội tâm. Sau 1975, trạng
thái tinh thần của chúng tôi được thoải mái hơn cho nên tôi có thể nói là tốt.
Nhưng trước 1975, chính phủ miền Bắc đã được các nước bạn ở Âu Châu, được Trung
Quốc và Liên Xô giúp đỡ. Trước khi chiến tranh chấm dứt, các nước ấy đã cho viện
trợ, nhờ đấy chúng tôi mới có thể giành lại việc kiểm soát miền Nam, thống nhất
đất nước. Nhưng với chiến thắng 1975, họ bắt đầu thôi không viện trợ, nên chúng
tôi chẳng còn gì nữa. Một chuyện khác là sau bao nhiêu năm chiến tranh, ruộng
đồng tiêu huỷ, đường sá, các ống dẫn dầu, dẫn nước đều đã bị tiêu huỷ hoặc một
phần, hoặc toàn phần. Làm sao quý ông có thể trông đợi chúng tôi phục hồi ngay
được sau chiến tranh, sau bao năm bom tàn phá?
Vì thế cuộc sống dân chúng đã khó khăn hơn bắt đầu từ 1975.
Ngay giờ đây, miền Bắc hãy còn chịu khó, chịu khổ. Trong nhiều trường hợp, còn
tệ hơn cả thời chiến. Nhưng con người ta không còn ở tình trạng thường xuyên sợ
hãi. Chính đấy là phần tốt nhất về chuyện chiến tranh chấm dứt.
Xin cho tôi được dùng một lời ví von. Ở miền Bắc, các bạn tôi
và tôi thường hay nói chuyện đời, chúng tôi ví đời mình như những cánh bèo trôi
trên sông. Đời là một dòng sông, chúng tôi là những cánh bèo lênh đênh trên mặt
nước. Chúng tôi không định được đời mình và số phận mình. Nước chảy bèo trôi,
làm sao biết bến bờ nào. Trong nhờ, đục chịu, chúng tôi chẳng lựa chọn gì được
cho đời mình. Mỗi khi nghĩ đến số phận và cuộc đời chúng tôi như thế, thì một
phần trong tôi luôn muốn phá bỏ cái loại đời ấy đi.
Cũng như các bạn tôi, tôi muốn có thể được là chính mình, được
làm những gì mình chọn chứ chẳng để cho ai khác ép buộc mình. Tôi chỉ là một con
người sống bình thường, tôi cũng chỉ muốn thế thôi.
Cuộc chiến này do những người khác hoạch định, chủ trương gây
ra. Những người dân bình thường chúng tôi không dính dáng gì. Như mọi con người
bình thường khác ở khắp nơi trên thế giới, chúng tôi hàng ngày làm lụng và cũng
chỉ cố sống một cuộc sống bình thường…
..
PHẦN THỨ BA: SAU CUỘC CHIẾN
_______________________________
CHƯƠNG 19 : BỤI ĐỜI
LILY
“Cháu đã phải chứng kiến nhiều
chuyện xảy ra trong đời”
Tên cháu là Hương, người ta vẫn quen gọi cháu là Lily. Dạ,
Lily thôi (chứ không có tên họ gì khác). Cháu mười bảy tuổi. Cháu không rõ ai là
cha cháu. Cháu cần phải đi Mỹ. Ở Việt Nam này cháu không được đi học, cháu chỉ
đến trường có ba năm rồi phải đi làm.
Ở ngoài phố ngày nào người ta cũng kêu cháu: “Hê lô, Mỹ!” Thấy
mặt cháu, người ta biết cha cháu là người Mỹ. Lúc đi học trẻ con trong trường
không ưa cháu, chúng cứ bảo: “Mỹ lai không tốt”. Nghe thế cháu buồn lắm.
Cháu nói được tiếng Anh là nhờ tập nghe những người nói tiếng
Anh đến đây, nên bây giờ cũng nói được. Cháu làm cho du khách; cháu thông dịch
cho họ, đưa họ đi xem thành phố. Cháu muốn đi Mỹ, muốn được đi học, sau này làm
họa sĩ. Bây giờ làm sao mà vẽ, cháu phải bận đi làm. Cha cháu ở Mỹ tức là theo
đạo Chúa, còn mẹ cháu là người đạo Phật. Cháu muốn vẽ các thứ tranh ảnh đạo
giáo, mấy tranh ảnh này làm cháu nghĩ đến những chuyện tốt lành, chứ cháu đã
phải chứng kiến nhiều chuyện xấu trong đời rồi. Cháu chịu khổ nhiều rồi nên cháu
không muốn nghĩ đến nữa.
Cháu thích nhạc Mỹ. Cháu nghe nhạc Mỹ, nhờ thế cũng học được
tiếng Anh.
Chuyện chiến tranh, cháu cũng biết chút ít. Cháu có đọc chuyện
ấy, nhưng cháu mong không ai nghĩ xấu cho cha cháu vì chuyện chiến tranh cả.
Cháu rất mong có một tấm ảnh cha cháu để nhìn cho biết cha cháu thế nào. Cháu
không muốn sống với cha cháu. Cháu chỉ muốn gặp cho biết vì hiện giờ cháu không
biết gì về cha cháu cả.
Tương lai, sau này cháu muốn có một vài đứa con. Nhưng cháu
mong con cái của cháu đừng phải khổ như số cháu, đừng lâm vào cảnh con không
cha.
Sau này cháu sẽ dạy cho con cháu kinh nghiệm đời cháu để hiểu
cuộc đời khó khăn mà cố làm cho nên người, đừng lâm vào hoàn cảnh cháu bây giờ.
Không, cháu không có gì vui. Cháu cười đây là vì cháu đang nói
chuyện, chứ có gì vui.
Cháu hay nghe bài “We are the World” (Chúng ta là thế giới).
Nghe bài này cháu thích lắm. Bài này nói về người trên các nước ca hát, họ chẳng
có vấn đề khó khăn gì. Cháu thích mọi người đều được như thế. Nghe người ta hát
thích hơn là chiến tranh. Những người sung sướng thường hay ca hát.
MỸ LINH
“Cuộc sống khó khăn”
Tên cha tôi là Isaac. Má tôi có cho tôi xem ảnh cha tôi. Bây
giờ tôi đã có chồng Việt Nam, sắp có con tôi, như thế ông Isaac sắp làm ông
ngoại rồi. Tôi mong có thể báo tin cho cha tôi biết như thế.
Tôi đã học lớp Sáu rồi ở nhà phụ má tôi buôn bán lặt vặt ngoài
đường thành phố Hồ chí Minh. Tôi muốn đi Mỹ vì cha tôi ở bên ấy. Tôi muốn học
nghề may. Cha tôi có viết thư bằng tiếng Mỹ, kể chuyện nước Mỹ.
Cuộc sống khó khăn lắm. “Tôn giáo” là gì vậy? Không, tôi không
có đạo nào.
Tôi hy vọng năm nay được đi Mỹ. Tôi đã xin đi từ năm tám mươi
mốt đến giờ nhưng người ta không cho tôi đi.
NGUYỄN THỊ DIỆP TRANG
“Ở đây rất khó khăn cho tôi”
“Ở đây rất khó khăn cho tôi”
Tôi mười chín tuổi. Tôi không được biết gì về cha tôi cả. Cha
tôi người Mỹ. Tin tức cha tôi thì không có, nhưng tôi có một tấm ảnh của người
bạn cha tôi. Bạn cha tôi là người mối lái cha tôi cho mẹ tôi.
Tôi đã học xong Trung học hồi năm ngoái. Hiện nay tôi đang phụ
với mẹ tôi, mẹ tôi làm nghề đở đẻ. Mẹ tôi thường may quần áo cho tôi, nhiều bộ
mẹ tôi may giống quần áo Mỹ lắm.
Tôi muốn đi Mỹ vì trông tôi không giống người ở đây, tôi nghĩ
tôi giống người Mỹ hơn, sang Mỹ tốt cho tôi hơn. Tôi cũng tự biết khổ người tôi
cao lớn hơn các bạn, tôi cảm thấy khác người ta, ở đây khó cho tôi.
Tôi biết được về người Mỹ là nhờ xem hình cha tôi, với lại nhờ
các du khách. Tôi cũng có đọc qua báo. Tôi muốn được sang Mỹ đi học Đại học ở
bên ấy, để trở thành hóa học gia.
Tôi không biết gì về chiến tranh. Không biết gì cả.
Tôi đoán cha tôi là người cao lớn, vì khổ người tôi cao lớn.
Nếu cha tôi biết được tôi ở đây, chắc cha tôi thương tôi lắm. Mẹ tôi bảo hồi xưa
cha tôi thương mẹ tôi thật tình. Nhưng họ đứt liên lạc với nhau.
Tôi mong ngày sau có con, tôi sẽ kể chuyện đời tôi, chuyện tôi
sang Mỹ như thế nào.
Một ngày kia tôi sẽ lập gia đình, có hai đứa con. Nhưng bây
giờ, trước hết tôi mong được sang Mỹ cùng với mẹ tôi và hai đứa em cùng cha khác
mẹ của tôi.
MINH
“Thằng lai”
Cháu không có tên nào khác, tên cháu là Minh thôi. Cháu mười
sáu tuổi. Cháu sống ở Tây Ninh. Cháu chăn bò cho gia đình cháu. Cháu ở với họ từ
lúc nhỏ nên cháu gọi họ là chú thím. Rồi cháu lên Saigon, bây giờ cháu làm ở một
quán cà phê.
Có người đưa cháu lên Saigon, cũng không biết người ấy là ai.
Bây giờ cháu đang ở với một gia đình mở quán cà phê, cháu ăn ở luôn tại đây.
Cháu chưa đi học bao giờ. Cháu không biết đọc.
Hồi ở nhà quê người ta đối với cháu không được tử tế. Cháu lai
Mỹ, họ gọi cháu bằng đủ thứ tên. Họ gọi cháu là : “thằng lai”. Nhưng ở quán cà
phê này người ta đối xử với cháu tử tế hơn.
Cháu không biết gì cha cháu cả. Chẳng hiểu ai là cha mẹ cháu.
Cháu chẳng biết gì hết. Cháu nghĩ cháu thương cha mẹ cháu mặc dầu cháu cũng
chẳng biết cha mẹ cháu là ai, cha mẹ cháu ở đâu. Tình thương cha mẹ, cháu nghĩ
là vẫn ở trong lòng người ta.
Bây giờ cháu cũng mong được đi Mỹ tìm cha. Cháu thấy người ta
đi Mỹ, cháu cũng muốn đi. Cháu không biết gì đất Mỹ, chỉ nghe người ta nói
chuyện thôi.
Cháu không biết gì chiến tranh cả. Khi sang Mỹ cháu sẽ làm bất
cứ nghề gì. Cháu không có đạo. Chẳng biết là gì. Cháu là người Mỹ. Ở đây người
ta bảo cháu là người Mỹ, vì thế cháu biết cháu là người Mỹ.
VÕ THỊ QUAN YÊN
“Cháu biết cháu là người Mỹ”
“Cháu biết cháu là người Mỹ”
Cháu mười lăm tuổi. Lúc đầu cháu tưởng mình là người Việt,
nhưng rồi cha cháu liên lạc được, nên bây giờ cháu mới biết cháu là người Mỹ.
Trước cháu không biết tên cha, bây giờ mới biết. Cháu học đến lớp Bảy rồi nghỉ
để bán chuối ngoài đường. Hiện nay cháu ở với chú thím. Chú thím cháu nuôi cháu.
Mẹ cháu cũng có liên lạc. Nhưng cháu không thấy gắn bó gì vì mẹ cháu đã bỏ cháu
từ năm lên sáu.
Cha cháu muốn cháu sang Mỹ, nên bây giờ cháu muốn sang bên ấy.
Cháu muốn được đi học lại. Ở đây khó sống quá. Cháu mong có ngày trở thành bác
sĩ như cha cháu. Cha cháu trước là Bác sĩ ở bệnh viện Grall, bệnh viện Pháp ở
đây. Cha cháu đi từ hồi 1973. Cháu không biết gì về chuyện chiến tranh. Nhưng có
xem chiếu bóng, cháu nghĩ chính phủ Mỹ đối xử không đúng đắn vói người Việt. Họ
đã làm nhiều chuyện khủng khiếp cho người Việt Nam.
Cháu sống thời nhỏ bình thường cho đến năm lên sáu. Nhưng bây
giờ ở với chú thím, chú thím nghèo nên cháu phải làm việc. Cháu là người Phật
giáo vì chú thím đều theo đạo Phật. Nhưng cha cháu là người đạo Chúa, khi sang
Mỹ cháu sẽ theo đạo Chúa. Từ lâu lắm cháu chẳng có thể tưởng tượng mặt mũi cha
cháu thế nào, đến khi nhận được ảnh thì bây giờ mới biết cháu giống cha.
Ngày nào cháu cũng phải làm việc. Cháu thích đánh banh và đi
bơi, nhưng không được vì cháu phải đi làm. Bây giờ cháu rất mong đến ngày gặp
cha, cháu hy vọng cuộc sống cháu sẽ khá hơn.
Cháu muốn đi mà rồi cũng buồn vì phải xa chú thím với đứa em
cùng mẹ khác cha. Còn mẹ cháu thì chẳng cần, không ăn thua gì đến cháu. Khi sang
Mỹ, cháu sẽ đưa chú thím và đứa em gái cùng mẹ khác cha của cháu sang.
NGUYỄN NGỌC LINH
“Cuộc sống sẽ khá hơn”
“Cuộc sống sẽ khá hơn”
Cha mẹ cháu bỏ cháu từ nhỏ. Năm 1972 họ có quay lại tìm, nhưng
lúc ấy cháu không muốn đi. Cha cháu tên John Small.
Cha mẹ cháu liên lạc được với cháu rồi là mất Saigon, họ lại
liên lạc được lần nữa. Cháu đi học đến lớp Sáu thì nghỉ, không thích đi học nữa.
Bây giờ cháu không làm gì. Chỉ ở nhà. Cha mẹ cháu ở Mỹ có gởi tiền sang cho.
Cháu không nói được tiếng Mỹ. Khi sang Mỹ cháu sẽ học. Cũng chẳng biết khi đến
Mỹ cháu muốn làm gì. Cháu nghĩ có lẽ cháu muốn trở thành cầu thủ bóng đá.
Cháu không biết gì về chiến tranh cả.
Cháu muốn đi Mỹ vì cha mẹ và các anh chị em đều ở bên ấy, có
lẽ đi thì sống khá hơn.
quảng cáo
CHƯƠNG 20 : NGƯỜI VIỆT
LÝ NGỌC THUÝ
“Ông có hiểu chuyện bị hãm hiếp nghĩa là thế nào không?”
Tôi sinh ngày mùng 5 tháng Năm năm 1967, đến Hoa Kỳ năm 1981.
Gia đình tôi gồm tất cả sáu anh chị em. Cha tôi lúc ở việt Nam là người buôn
bán. Nói cho ngay, dưới chế độ Cộng sản, gia đình chúng tôi ở tại một tỉnh lỵ
nhỏ gần Qui Nhơn vẫn làm ăn khá giả. Gia đình tôi bán máy thâu băng và băng
nhạc. Chúng tôi vẫn còn làm nghề ấy dưới chế độ Cộng sản, nhưng trước khi chúng
tôi đi, họ bảo vì có vài người trong gia đình tôi đã đi Mỹ, nên họ không cho
phép chúng tôi làm ăn buôn bán nữa.
Bây giờ tôi còn nhớ lúc mẹ tôi bảo tôi phải sửa soạn đi. Tôi
khóc. Tôi không muốn đi, nhưng mẹ tôi bảo mẹ tôi sẽ thu xếp đi sau. Tôi không
sung sướng gì về việc ra đi vì sẽ phải bỏ các bạn bè và mẹ tôi lại nhà. Tôi cứ
cảm thấy sợ hãi, như linh tính đã báo trước rồi sẽ có nhiều chuyện không hay xảy
ra.
Chúng tôi lên tàu lúc nửa đêm. Chuyến vượt biên đầu tiên vì
thời tiết xấu, phải quay về. Lần thứ nhì cũng không xong. Lần này vì tôi có bảo
với vài người bạn là tôi đi Mỹ, họ đi nói với các người khác, nên chúng tôi phải
hủy chuyến đi, nhiều người biết quá. Cha mẹ tôi rất giận về việc tôi nói cho
người ta biết, đáng lẽ phải giấu là đi thăm bà cô.
Chuyến tiếp theo gồm tất cả 48 người trên tàu. Ngay ngày đầu
tiên đã hết nước ngọt. Vì thế sau ngày đầu, chúng tôi đã phải uống nước biển, ai
nấy ốm la liệt. Tôi phát đau, tháo mửa.
Thế rồi bọn hải tặc Thái Lan đến chặn tàu chúng tôi. Vì hết
sạch đồ ăn nước uống, chúng tôi dùng vải trắng ra hiệu cấp cứu, không ngờ chúng
lại là hải tặc. Chúng hãm hiếp một người đàn bà trên tàu. Lần thứ nhất thì không
hề gì, chúng chỉ đòi vàng. Nhưng rồi bọn hải tặc lại chặn tàu chúng tôi vào ngày
thứ hai và ngày thứ ba. Chúng đưa tất cả chúng tôi ra khỏi tàu, chỉ chừa một
người đàn bà. Chúng lên tàu, tất cả bọn thay phiên hãm hiếp người đàn bà ấy.
Sau chúng đưa chúng tôi lên một hòn đảo. Trên đảo không người,
nước cũng không. Cả hòn đảo khô khốc. Chúng bắt chúng tôi ngồi thành vòng tròn.
Xong chúng chọn đàn bà, đưa vào bụi rậm mà hiếp. Thực khủng khiếp hết sức.
Bấy giờ tôi hãy còn là một đứa trẻ gầy gò, nhỏ bé. Tôi hãy còn
là một đứa trẻ con ngây ngô chưa biết gì, nhưng chúng vẫn đến bắt tôi ra. Tôi
ốm, thân thể trần trụi, lúc ấy hãy còn nhỏ. Chúng nắm lấy tôi, kéo tôi vào trong
bụi, làm những chuyện đau đớn hết sức. Tôi không biết mình bị hiếp, thực sự bấy
giờ tôi không hiểu gì. Tôi chỉ tưởng chúng định giết tôi. Chúng không thích tôi
vì thân hình tôi gầy ốm quá.
Những người đàn ông đi cùng tàu lúc ấy ngồi lặng yên trong
vòng tròn. Họ cúi mặt nhìn xuống đất trong lúc chúng hãm hiếp đàn bà con gái,
hãm hiếp tôi. Nhưng họ đều biết những chuyện đang xảy ra. Lúc ấy tôi khiếp hãi
quá.
Chúng không giết ai, cũng không đánh đập đàn ông. Khi xong
xuôi, chúng bỏ mọi người lại trên đảo mà đi. Sau đó, tôi chỉ còn lại một cái
quần lót. Chúng đã lấy hết quần áo của chúng tôi.
Chúng tôi phải cố kiếm ra cái ăn, mà kiếm được cái ăn để cầm
cự sống trên đảo rất khó. Vài ngày sau, có các thủy thủ trên tàu Hải quân Thái
đến. Họ đón chúng tôi lên tàu, đối đãi tử tế. Họ đưa chúng tôi đến trại ty nạn ở
Songkhla.
Chúng tôi ở tại Songkhla nhiều tháng, rồi sau đó được bảo trợ
sang Cali. Lúc đến nơi tôi khá ngạc nhiên bởi vì mọi người ở đây đều giàu có.
Tôi đã nói được đôi chút tiếng Anh khi đến Cali, vì tôi có học
Anh ngữ trong thời gian ở Songkhla. Khi đến trường, lúc đầu không được khá. Tôi
không biết cách ăn mặc, cũng không có quần áo tốt. Học sinh trong lớp thường
trêu chọc tôi. Một đứa con gái hay gây sự đánh tôi trên xe buýt vì tôi ăn mặc
xấu xí, tôi đoán thế. Tôi có nói chuyện ấy với bà tài xế, nhưng bà ta bảo không
giúp gì tôi được. Chúng xô đẩy, kéo tóc tôi vì tôi nhỏ con, tôi đoán thế. Bấy
giờ tôi chỉ cân nặng khoảng 80 cân Anh.
Sau lớp 8, tôi vào trung học, mọi thứ khá hơn. Tôi đã đạt
nhiều tiến bộ trong trường. Hiện tôi đã vào đại học. Mẹ tôi hãy còn ở Việt Nam,
tôi vẫn thường viết thư cho mẹ tôi.
Sau những chuyện xảy ra, sự thực tại đây tôi không sung sướng
gì. Mọi việc xảy ra đã quá sức tôi. Năm ngoái tôi tự tử thêm lần nữa. Tôi đã
uống thuốc để đi tìm cái chết.
Liên hệ giữa cha tôi và tôi không đuợc tốt. Sau vụ bọn Thái
Lan hãm hiếp tôi, cha tôi không còn có sự gần gũi thân thiết với tôi nữa.
Rất ít người đàn ông nào có thể hiểu được chuyện những người
đàn bà bị hãm hiếp là thế nào. Rất ít. Đã có lần tôi từng hỏi mấy người đàn ông
là: “Ông có thể hiểu chuyện bị hiếp nghiã là thế nào không?” Nhưng họ không thể
hiểu. Họ không biết. Họ chẳng thể hiểu gì.
Nếu có thể quay ngược thời gian thì tôi sẽ không bao giờ rời
Việt Nam. Sau khi tôi ra đi, đã có quá nhiều điều thê thảm xảy ra cho tôi.
Tôi hãy còn nhớ những tên hải tặc, đôi khi tôi vẫn còn nằm mơ
thấy chúng. Ngay hôm nay đây, tôi vẫn chẳng thể nào quên được. Tôi không thể
biểu lộ lòng trìu mến. Tôi không thể nắm tay ai. Tôi không thể yêu đương lãng
mạn được nữa.
Tôi mờ mịt trước tương lai. Tôi không rõ rồi đây tôi có sẽ tìm
lại cái chết nữa hay không. Có ai biết trước được tương lai.
MELISSA PHẠM
“Lúc ấy tôi chỉ là đứa bé”
“Lúc ấy tôi chỉ là đứa bé”
Rời Saigon tháng Tư năm 1975, chúng tôi đi thẳng sang Phi Luật
Tân, ở đấy một đêm rồi sang Guam. Chúng tôi chỉ ở Guam vài ngày, rồi đi Fort
Chaffee thuộc Tiểu bang Arkansas, và được một nhà thờ bảo trợ về Milwaukee, tiểu
bang Wisconsin.
Cha tôi không nói được tiếng Anh, muốn nói gì với Mỹ phải có
người thông dịch. Chỉ có chị tôi nói được tiếng Anh đôi chút.
Toàn thể gia đình tôi đến ở chen chúc trên gác thượng một căn
nhà phụ của nhà thờ, phải trải nệm lên sàn mà ngủ. Sau đó người ta kiếm được cho
chúng tôi một căn nhà ba phòng ngủ, một phòng tắm, nhưng gia đình chúng tôi
đông, nên vẫn chật chội.
Trường học ở đây khác lạ, làm tôi rất sợ. Cả bốn anh chị em
chúng tôi đều học một truờng. Người ta thuê một thầy giáo Mỹ nói được tiếng Việt
để dạy thêm chúng tôi mỗi ngày một giờ sau buổi trưa. Chỉ trừ giờ học này, còn
chúng tôi vẫn học chung với các học trò khác. Chúng tôi học Anh ngữ khá mau. Đặc
biệt chúng tôi rất giỏi toán vì môn này không đòi hỏi tiếng Anh nhiều.
Chúng tôi sống ở đấy được ba năm. Trong thời gian này tôi đã
đổi trường đến ba lần, chúng tôi luôn luôn là những người Việt Nam duy nhất tại
đây. Chỉ trong những dịp đặc biệt, người Việt trong vùng mới gặp gỡ được nhau.
Chúng tôi đã tìm đến gặp gỡ nhau trong những dịp này.
Ở Chicago có một linh mục Việt Nam thường đến giúp đỡ chúng
tôi. Cha tôi tìm được việc làm tại một hãng thợ hàn. Công việc này hơi khó cho
cha tôi vì cha tôi chưa hề làm việc ấy bao giờ.
Cô tôi di chuyển đi Los Angeles. Một cô khác đi cùng tàu với
chúng tôi đã đến Nebraska, rồi lại chuyển đi San Jose. Cô viết thư cho chúng tôi
biết ở đấy khá hơn vì đông người Việt, có thể nương tựa nhau được. Ở Wisconsin
cuộc sống chúng tôi khó khăn vì ai cũng phải có việc làm mới nuôi nổi gia đình,
bọn trẻ con cũng phải vừa học vừa làm.
Vì vậy tất cả chúng tôi bèn quyết định đi Cali. Nhưng trước
khi ra đi, chị lớn tôi lấy chồng, chị sang ở Texas, anh lớn tôi lấy vợ, ở lại
Winsconsin. Còn những người khác trong gia đình đều đến Cali.
Khi tới San Jose, tôi học lớp Sáu. Qua năm sau thì vào Trung
học Đệ Nhất Cấp. Tại đây khó hội nhập hơn. Sống ở vùng Trung Tây nước Mỹ, người
ta khác. Còn ở Cali tôi thấy người ta có nhiều thành kiến hơn. Học cùng với nhau
nhiều năm mà học sinh vẫn khó làm bạn và chia ra thành nhiều nhóm.
Đa số học sinh to lớn hơn tôi. Đôi khi chúng trêu chọc, nhái
giọng nói, tiếng nói của tôi vì tôi là ngưòi Việt. Có lẽ chuyện ấy không đáng
chi, nhưng lúc ít tuổi, trẻ con rất dễ tổn thương.
Các anh chị em tôi học ở những trường khác cũng để ý thấy như
vậy. Đôi khi những người đi đường cũng hay nói những câu độc ác và nhái giọng
nói chúng tôi.
Sau đó tôi lên trung học đệ nhất cấp. Các giáo sư đối xử với
tôi rất tốt, tôi cũng đạt được nhiều kết quả tốt. Tôi trở thành thủ khoa của
lớp. Trong những năm trung học đệ nhất cấp, tôi đã là học sinh đầu lớp. Hiện nay
tôi đang theo học đại học, ngành kỹ sư điện toán.
Tôi mong ước một ngày kia sẽ lập gia đình, có hai đứa con. Tôi
không muốn có một gia đình như cha mẹ tôi. Ở Mỹ này mà đông con thì tốn kém lắm.
Có lẽ tôi sẽ thành hôn vói một người Việt. Tôi thích thế vì có chung một văn hóa
vẫn dễ thuận thảo với nhau hơn.
Hiện nay, tôi đang đứng giữa hai thế giới mà không dám chắc
mình thuộc bên nào. Vấn đề là sự thông cảm và sự suy nghĩ. Đôi khi tôi thấy mình
là kẻ lạ trong đám người Việt, và khi đứng trong đám người Mỹ, tôi cũng vẫn là
kẻ lạ.
Tôi không có thể nói tiếng Việt thông thạo nữa. Nhưng vì các
kinh nghiệm đã trải qua, tôi cũng không thực sự là người Mỹ. Các bạn tôi cũng
cảm thấy như thế. Ngay trong giấc ngủ, tôi cũng đã mơ bằng cả hai thứ ngôn ngữ.
Thế có lạ không?
Thỉnh thoảng tôi vẫn mơ về Việt Nam, vẫn nhớ đến các bạn hữu
của tôi ở đấy. Tôi nhớ cảm giác trong những dịp đặc biệt: những ngày lễ Tết,
những ngọn đèn, những cuộc thăm viếng nhà nhau. Tôi nhớ tất cả những thứ ấy.
Bấy giờ tôi hãy còn nhỏ lắm. Rất nhỏ. Khi ngắm nhìn tấm ảnh
lúc tôi còn ở Việt Nam, gần như tôi không nhận ra được chính mình. Khi đến Mỹ,
gần như tôi đã đến một thế giới khác, đã bỏ thế giới cũ lại đàng sau. Điều ấy
thực khó khăn cho tôi bởi vì lúc ấy tôi chỉ là một đứa bé.
NGUYỄN MỘNG THẢO
“Lúc nào tôi cũng yêu mến Abraham Lincoln”
Rời Saigon, chúng tôi qua Guam, ở đấy vài tuần rồi sang Fort
Chaffee. Cha tôi rời đây trước, có một nhà thờ bên Connecticut nhận bảo trợ cho
chúng tôi. Cha tôi đi trước, kiếm được việc làm, những người bảo trợ cũng kiếm
được cho chúng tôi một chỗ ở.
Các thày giáo ở Connecticut cứ lầm lẫn mãi về việc gọi tôi
bằng tên chị tôi, gọi chị tôi bằng tên tôi. Họ sắp nhầm cả lớp cho tôi. Chúng
tôi ở đây một năm. Trong trường, học trò đứa nào cũng tranh nhau làm bạn với
chúng tôi. Chúng cãi cọ để được ngồi cùng bàn chúng tôi. Bọn nó thường đem cho
tôi quà, các thứ đồ trang điểm, đủ thứ. Còn con bé tên là Tiffany thường hay vẽ
hình mấy con ngựa tặng tôi.
Tôi có đến hai ngày sinh nhật, vì chúng tôi dùng cả âm lịch,
chuyện ấy làm bọn trẻ Mỹ rối rắm chả hiểu gì. Tôi báo cho bọn trẻ trong trường
biết cả hai ngày sinh nhật của tôi. Tôi thấy thực khó giảng cho chúng hiểu
chuyện ấy.
Trong lớp, tôi luôn luôn dẫn đầu môn toán, thày giáo bắt tôi
phải tiến chậm lại. Lúc ấy tôi không nói được tiếng Anh, nhưng có nói được tiếng
Pháp, làm bọn trẻ trong lớp thán phục. Tiếng Anh hoàn toàn mù mịt. Nói chung,
bấy giờ tôi phải dùng thủ hiệu, chỉ trỏ để thông cảm nhau.
Cô tôi đã dọn sang tiểu bang Washington. Tôi còn nhớ một buổi
sáng kia cô chợt điện thoại cho chúng tôi, bảo con gái cô nghịch súng trong nhà,
đã nổ cò trúng đạn. Bấy giờ, cô nói, mọi người đang ở trên lầu, bọn trẻ chơi đùa
dưới nhà. Mấy con bé tìm được một khẩu súng vác ra chơi. Súng cướp cò, đạn bắn
ngay đầu. Vào nhà thương nó hãy còn kêu khóc: “Má ơi, má ơi”, nhưng em họ tôi
chết trong nhà thương. Cô tôi điện thoại báo cho biết, và tôi nhớ là tôi đã kể
cho cả lớp hay. Nhưng tôi phải dùng dấu tay, dùng cả tiếng Pháp lẫn tiếng Việt
để kể câu chuyện cho bọn bạn học. Và tôi đã khóc.
Tôi rất gần gũi với em họ tôi. Thực kỳ lạ là lúc điện thoại
reo vào ba giờ sáng, khi mẹ tôi bốc máy trả lời thì tôi tỉnh dậy đi vào phòng
mẹ.
Sau khi cô tôi điện thoại xong, mẹ tôi và tôi bước ra ngoài.
Đêm ấy trời có tuyết. Đây là lần đầu tiên trong đời tôi thấy
tuyết. Ngoài trời đêm rất sáng, vạn vật phủ mầu trắng trong đêm khuya. Lúc ấy
trước lễ Giáng Sinh. Cái chết của em họ tôi đã làm tôi xúc động sâu xa.
Tôi nhớ đêm hôm ấy tôi đã khóc. Mẹ tôi cũng vậy. Vài tháng
sau, vào mùa hè, chúng tôi dọn sang tiểu bang Washington. Từ Connecticut, chúng
tôi lái một chiếc xe cũ kỹ mà cha tôi đã mua với giá năm chục Mỹ kim để đi băng
nước Mỹ đến tiểu bang Washington. Cha tôi là thợ máy giỏi, ông đã bảo trì chiếc
xe chạy khá tốt. Chúng tôi đi băng qua nước Mỹ với chiếc xe Oldsmobile này, ba
người ngồi hàng ghế trước, tất cả số còn lại ngồi sau.
Trong chuyến đi, chúng tôi đã thấy biết bao công viên và những
đài kỷ niệm danh tiếng của nước Mỹ. Chúng tôi đã được nhìn thấy núi Rushmore với
tượng Abraham Lincoln trên ấy. Lúc nào tôi cũng yêu mến Abraham Lincoln.
Phải mất cả tháng trường, chúng tôi mới đi băng hết nước Mỹ,
chúng tôi cũng học hỏi được nhiều. Trong chuyến đi này, chúng tôi ghé lại nhà
bạn quen, ngụ tại các nhà trọ hoặc những trạm nghỉ chân dọc theo xa lộ. Chuyến
đi này cũng là một cuộc phiêu lưu lớn, chúng tôi đều thích thú.
Sau đó chúng tôi đến viếng mộ em họ tôi ở tiểu bang
Washington. Tôi còn nhớ cảm giác của tôi là tức giận bực bội. Tại sao để súng
trong nhà làm gì? Tại sao em tôi lại chết tức tưởi ở đất Mỹ sau tất cả những gì
chúng tôi phải trải qua tại Việt Nam? Nhưng tôi cũng không để cho mình vương vấn
mãi chuyện ấy, bởi lẽ, nếu thế thì lòng tôi cũng tan nát. Tôi biết, nên tôi
không dám luẩn quẩn mãi với cái chết của em họ tôi.
Trong nghĩa địa có trồng một hàng cây với cành lá phủ đầy
những hạt nhỏ. Tôi nhặt một hạt cây rồi giữ lấy. Tôi không biết tại sao tôi lại
giữ cái hạt ấy.
Chúng tôi dọn đi Seattle. Một người dì tôi đã kết hôn với
người Mỹ, một người Mỹ da trắng. Cha tôi cho rằng việc ấy có thể gây ra ảnh
hưởng xấu. Cha tôi làm việc với Mỹ, nói tiếng Mỹ, sinh hoạt với họ cũng suông
sẻ, nhưng cha tôi lại không muốn ai trong gia đình tôi lấy Mỹ cả. Tôi nghĩ
chuyện ấy thực kỳ cục.
Ở Seattle có nhiều người Á Châu hơn ở Connecticut. Lúc ấy tôi
vẫn còn phải học E.S.L. (1) Nhưng rồi tôi bắt đầu học khá hơn. Tôi vẫn cứ phải
đóng vai học trò đầu lớp, từ khi ở Việt Nam, tôi vẫn đã như thế.
Tôi ở tiểu bang Washington từ khi học lớp Ba cho đến lớp Bảy.
Sau đó vì cha tôi có nhiều bạn ở dưới vùng Cali này, và vì ông đã tìm được việc
ở đây, chúng tôi bèn dọn cả xuống. Nói thế này thì tôi cảm thấy không tốt, nhưng
ở đây đông người Việt quá. Tôi cảm thấy có lẽ không nên nói như thế, nhưng tôi
tự hỏi họ là ai. Họ là những kẻ phản bội hay họ là ai? Đông người Việt Nam
quá.(2)
Tôi mong có dịp trở về thăm Việt Nam. Tôi có vấn đề dằng co về
nhân thân. Đôi khi, tôi quên bẵng mình là người Việt Nam. Đến khi soi gương, mới
nghĩ: “Ô! Ô! Ngươi là người Việt mà, Thảo ơi. Đừng quên thế nhé”. Chuyện ấy thực
là gay. Vào những kỳ Thế Vận Hội hoặc vào những dịp mùng 4 tháng Bẩy (3), tôi
hoàn toàn cảm thấy mình là người Mỹ. Tôi đâm ra thắc mắc. Nếu Việt Nam có tham
dự Thế Vận Hội thì tôi vẫn ủng hộ Hoa Kỳ. Xứ sở này, đất nước này giờ đây chính
là xứ sở tôi, đất nước tôi. Tôi nghĩ có lẽ chính vì thế mà tôi không muốn quanh
quẩn trong đám người Việt Nam đông đảo nữa. Tôi không nằm mơ thấy Việt Nam. Nhìn
hình ảnh Việt Nam, tôi không thể nhớ gì. Tôi có nhớ đôi điều, nhưng ít lắm,
không thực rõ các chi tiết. Những anh chị lớn nhớ nhiều hơn.
Tôi vẫn bực bội về việc người ta dán nhãn hiệu liệt tôi vào
loại nguời nào. Với Mỹ trắng, tôi chẳng hợp gì, mà với Việt Nam cũng không. Ở
Tiểu bang Washington, bạn tôi đều là Mỹ trắng. Khi thông thạo tiếng Anh rồi là
tôi ăn khớp vào với các bạn một cách rất tốt đẹp. Nếu người ta nghe chúng tôi
nói nhưng không nhìn thấy chúng tôi, người ta đều tưởng chúng tôi là Mỹ trắng.
Nhưng người ta vẫn khó chấp nhận rằng bây giờ thực sự chúng tôi chính là người
Mỹ.
Chị lớn tôi hiện sống ở San Francisco. Chị là một nghệ sĩ. Chị
rất có tinh thần sáng tạo. Hiện chị đang viết một quyển sách. Tuy nhiên, tôi
phải tránh nói chuyện với chị. Ông hiểu không, chị ấy đang sống chung với người
bạn trai của chị. Cha tôi đã từ chị, không nhắc đến tên chị nữa.
Đôi khi tôi lâm vào tình trạng ưu uất tinh thần. Chuyện ấy bắt
nguồn từ gia đình. Tôi không khá trong việc đương đầu với các áp lực khủng
hoảng. Chị tôi đã đặt cha mẹ tôi vào những nỗi khó khăn, tôi bực bội với chuyện
ấy. Tôi thường bỏ đi chơi, tôi có nhiều bạn trai hơn là bạn gái. Đủ mọi quốc
tịch.
Tôi thích trẻ con, nhưng chỉ muốn có con sau khi đã thành tựu
sự nghiệp của tôi. Sau đó mới tính chuyện mình muốn gì.
Tôi đang phải theo học đại học, nhưng tôi tự trả lấy học phí
bằng nghề thư ký. Ở nhà, cũng như những đứa con khác trong gia đình, tôi không
phải trả tiền thuê nhà hay tiền ăn. Nhưng tôi có trách nhiệm phải coi sóc mấy
đứa em trai, em gái.
Tôi luôn luôn mơ ước có một căn nhà bếp thật rộng để nấu ăn.
Nhưng tôi cũng luôn luôn e ngại cha tôi không thích những món ăn tôi nấu . Tôi
yêu cha tôi bằng tất cả tim tôi. Nhưng tôi ghét cay ghét đắng những quan điểm
của ông. Cái ghét này cũng gần ngang với lòng yêu thương ông. Tôi hiểu về phía
ông, quá khứ của ông. Nhưng cùng một lúc tôi tin rằng cha tôi cũng cần phải hiểu
về phía của tôi và của chị tôi. Phía của chúng tôi, của cuộc đời chúng tôi.
Chúng tôi không còn sống ở Việt Nam nữa, nhưng hình như cha tôi không nhận thức
được những điều như thế.
Trong nhà, chúng tôi thường không nói năng gì. Tôi là người
duy nhất hay nói chuyện trong gia đình. Tôi nói, nhưng cha tôi thì không. Khi
ông cáu kỉnh, bẳn gắt, ông kêu tôi đi vào trong buồng. Mỗi khi có vấn đề, hoặc
mỗi khi các anh chị em tôi muốn gì, thì cuối cùng chính tôi là nguời phải hỏi
cha mẹ tôi và phải lãnh chịu hết mọi lời trách móc.
Gần đây, tôi muốn dọn ra ở riêng. Cha tôi bảo: “ Nếu mày mà
lấy Mỹ trắng thì tao từ mày”. Và mẹ tôi lên tiếng: “Đấy, tất cả tụi bay nghe rõ
chưa?” Tôi hiểu lý do tại sao cha tôi nói thế, nhưng điều ấy vẫn làm cho tôi
thương tổn. Tất nhiên, nếu bọn tôi đứa nào cũng lấy Mỹ thì chúng tôi sẽ mất mát
một cái gì.
Tuy nhiên có những chuyện cha tôi chẳng bao giờ hiểu được.
(1) Tiếng Anh dành cho ngôn ngữ thứ hai: Anh văn, sinh ngữ thứ
hai.
(2) Nguyên văn đoạn This is “Tôi cảm thấy không hay khi nói
điều đó, nhưng có quá nhiều người Việt Nam ở đây. Tôi cảm thấy như tôi không nên
nói ra. Nhưng tôi tự hỏi họ là ai. Họ có những kẻ phản bội, hoặc là những người
mà họ? Hiện có rất nhiều trong số họ”.
(3) Lễ Độc Lập Hoa Kỳ.
MẠC THÚY VÂN
“Nửa Mỹ nửa ta”
Tôi sinh năm 1967 ở Saigon. Cha tôi là người Mỹ. Em gái tôi
mười lăm tuổi, khác cha. Mẹ tôi không bao giờ kết hôn với cha tôi cả. Mẹ tôi
giúp ông bà ngoại tôi mở một tiệm ăn ở Saigon. Còn ông bà ngoại tôi mở một tiệm
ăn nhỏ dưới miệt vườn. Cha tôi rời Việt Nam năm 1973 rồi ông trở lại yêu cầu mẹ
tôi sang Mỹ với ông, nhưng mẹ tôi không chịu. Năm 1975 cha tôi viết thư một lần
nữa yêu cầu mẹ tôi sang Mỹ. Bà vẫn từ chối, do đó cha tôi lại viết thư sang bảo
như thế ông sẽ lập gia đình với người khác. Hiện nay ông đã có gia đình khác.
Tôi sống ở Saigon cho đến 1975 thì dọn xuống miệt vườn. Tôi ở
tại một làng giữa Mỹ Tho, Bến Tre, đi học ở đấy. Nhiều người hay nhìn tôi vì
trông tôi khác lạ. Tôi lai Mỹ. Người ta không có cảm tình chuyện đó.
Tôi sống ở đấy đến năm 1979 thì rời Việt Nam. Lúc bấy giờ cô
chú tôi với hai người con trai muốn ra khỏi nước, chúng tôi đến thăm trước khi
gia đình cô chú tôi đi. Hôm ấy ông bà ngoại tôi khuyên là nên cho tôi đi, vì ở
Mỹ tôi sẽ có tương lai hơn. Vì thế mẹ tôi quyết định gửi tôi đi.
Chúng tôi vượt biên bằng một chuyến tàu lớn tại Mỹ Tho, lênh
đênh trên tàu tám ngày đêm. Đến được Mã Lai thì họ bắn, không cho vào. Vài người
trên tàu bị thương, vì thế chủ tàu năn nỉ là chỉ cần xin nước uống thôi. Họ cho
chúng tôi nước, và chúng tôi đến được Nam Dương.
Tôi đổ bệnh suốt chuyến đi. Lúc ấy tôi quá nhỏ để ý thức những
việc đang xảy ra. Ở Việt Nam tôi được sung sướng nhưng tôi không nghĩ rằng tôi
sẽ có một tương lai khả quan. Cuối tuần nào ở trường chúng tôi cũng phải đi lao
động. Tôi chẳng học được bao nhiêu. Một vài số điểm trong lớp là tùy thuộc vào
việc có lao động tích cực hay không.
Ở Nam Dương tôi đã đổi chỗ đến ba lần. Chỗ đầu tiên là một
vùng hoang địa, không bóng người nào khác ngoài chúng tôi. Chúng tôi phải dùng
thuyền đi lấy nước. Vài người giàu có đem theo vàng lúc rời Việt Nam, họ dùng
tiền để mua đồ ăn quanh vùng trong lúc ở Nam Dương. Còn chúng tôi phải thuê
thuyền sang đảo khác mua đồ ăn.
Rồi chúng tôi lại đến một trại khác, nơi đây có người Mỹ giúp.
Họ chuyển chúng tôi đến đây. Chúng tôi ở trong trại thứ hai này một năm, nhiều
người đã bỏ mạng tại đây. Gần như mỗi ngày đều có người chết vì nước bẩn. Muỗi
mòng cũng làm người ta phát bệnh.
Tôi có hai nguời anh chị họ ở Mỹ. Tôi viết thư nhờ, nên họ đã
bảo trợ cho chúng tôi sang Mỹ. Tôi không có ai khác bảo trợ cả. Tôi đến San
Francisco năm 1981. Lúc ấy không nói được tiếng Anh. Tôi vui mừng, nhưng rất sợ
hãi vì chung quanh toàn người da trắng. Tôi không biết rồi đây sẽ làm gì ở Mỹ.
Tôi sống với những người bà con trong một căn nhà. Tôi bắt đầu
học lớp Bảy, nhưng vì không nói được tiếng Anh nên phải theo học chương trình
E.S.L, chương trình Anh ngữ dành cho người không nói tiếng Anh. Trong năm ấy tôi
gắng học, bắt đầu có tiến bộ. Sau một năm, tôi có thể nói chuyện kha khá bằng
tiếng Anh.
Tôi học Trung học Đệ Nhất Cấp, rồi vào trường Trung học
Independence ở San Jose. Tại đây tôi được điểm trung bình 3.3. Hiện nay tôi đang
theo học kế toán Thương Mại tại Đại học San Jose. Tôi muốn vào ngành Thương mại
ở Hoa Kỳ. Hiện tôi làm việc tại một cửa tiệm để lấy tiền trả học phí cho xong
chương trình đại học.
Tôi là một người Việt Nam.
Tôi là người Việt, bởi vì tôi đã lớn lên như một người Việt.
Về phương diện văn hoá, văn hóa Việt Nam là văn hoá của tôi. Khi mới gặp nhau,
người ta thường hỏi có phải tôi “nửa Mỹ nửa ta” không! Họ biết tôi lai.
Sẽ có ngày tôi lấy chồng, có hai đứa con. Ở Mỹ này mà có nhiều
con hơn số đó thì tốn kém hết sức.
Khi còn nhỏ đã có lần tôi mong mỏi được gặp cha tôi. Nhưng nay
tôi không còn tò mò gì về cha tôi nữa. Tôi biết ông đã có gia đình khác.
Nếu tôi đến gặp ông là chỉ đem phiền phức đến cho ông. Tốt hơn
hết đừng gặp. Vì thế tôi nghĩ tôi sẽ mãi mãi không bao giờ tìm cha tôi cả.
NGUYỄN THỊ KIM ANH
“Cố quên những đau thương”
“Cố quên những đau thương”
Vào hôm sau ngày Saigon mất, em gái tôi và tôi ra Vũng Tàu cố
tìm đường vượt biên. Chúng tôi ăn mặc như nông dân: bà ba đen, đội nón lá, trả
mỗi người 15,000 đồng để lên một chiếc tàu nhỏ ra đi. Nhưng chỉ mới chừng một
cây số thì tàu tuần bắt được, mang chúng tôi về lại. Họ nhốt chúng tôi vào khu
đất trống cạnh một trường học một đêm. Chúng tôi cười cợt vì lẽ chúng tôi nói
láo với họ, bảo chúng tôi đi lánh nạn trong lúc đánh nhau, bây giờ đang muốn trở
về làng để bắt đầu một cuộc sống mới, vân vân. Lúc ấy mới một hôm sau ngày họ
chiếm, do đó họ chưa có chính sách đối xử với những người vượt biên, vì vậy họ
chỉ nhốt chúng tôi có một đêm. Suốt đêm ấy, chúng tôi chuyện trò, chẳng sợ hãi
gì. Hôm sau họ cho ít bắp rồi thả chúng tôi ra.
Chúng tôi kiếm xe đò về lại Saigon, tiền nong hết sạch, mà vẫn
còn kẹt lại Việt Nam. Đó là chuyến đầu. Mãi đến chuyến thứ sáu tôi mới đi nổi.
Chuyến ấy tôi phải giả dạng làm người Hoa, đi vào tháng Bẩy năm 1979.
Trở về lại Saigon, mọi người đang chạy nhốn nháo. Đường phố
đầy người. Từ hôm ấy, chúng tôi bắt đầu thấy rất nhiều lính Bắc Việt đi trên
đường phố.
Các trường học mở lại. Họ yêu cầu tất cả giáo sư đến một
trường để học tập chính sách mới, lề lối mới, giáo trình mới. Chúng tôi phải học
hết hai mươi ngày. Sau đó họ cho một giấy chứng nhận chúng tôi đã hoàn tất khóa
học. Ngày nào cũng phải viết những bài về các đề tài, ví dụ “Tại sao chúng tôi
yêu bác Hồ”, toàn những thứ láo toét như vậy. Thuyết trình viên gồm cả người Bắc
lẫn người Nam. Họ nói về chủ nghiã Cộng sản, về việc làm thế nào họ đã thắng
cuộc chiến. Họ kết án chính quyền Mỹ tàn phá đất nước. Chúng tôi cứ thế chép,
trình bày ngay ngắn, đẹp đẽ, rồi nạp bài. Nếu cứ viết y những gì họ nói, đồng ý
trăm phần trăm là có điểm tối đa.
Chúng tôi đã tham dự khóa đầu tiên với khoảng năm sáu trăm
giáo sư trong vùng. Và khi chỉ có bạn bè với nhau, chúng tôi thường nói chuyện
thành thật. Cho nên mỗi khi thấy người ta chuyện trò thành từng nhóm, họ cho
người ngồi xen vào, các cuộc bàn bạc lại phải đổi hướng, hoặc ngưng ngay lại. Họ
cố kiểm soát tất cả, đặc biệt những cuộc bàn bạc riêng tư. Họ cho như thế là
nguy hiểm, bởi vì họ không biết người ta nói gì.
Nhà trường bắt đầu niên học mới vào tháng Bảy 1975. Vì không
có người thay thế, họ phải cho lưu dụng các nhân viên hành chánh cũ, nhưng tại
mỗi trường, họ đều đưa các đảng viên đến làm trưởng nhóm. Họ chia nhà trường
thành các nhóm nghiên cứu xã hội, nhóm sinh ngữ và nhóm khoa học. Trưởng nhóm
đều phải là đảng viên. Tại một số trường, có khi họ chọn những người mà họ cho
rằng có khả năng làm Thủ trưởng tốt của đảng. Tôi là người được chọn làm trưởng
nhóm ngoại ngữ. Vì họ không có ai khác, và vì tôi đã viết những bài học tập đúng
ý họ nên họ đã chọn tôi.
Nhóm tôi có chín người, ba người dạy Pháp văn, Anh văn, mấy
người kia dạy Văn chương và khoa học xã hội. Chúng tôi đã quen nhau từ hai, ba
năm. Mỗi tuần chúng tôi họp một lần. Một trưởng nhóm khác cũng tới tham dự thảo
luận, nhưng cứ mỗi lần anh ta ra khỏi phòng, tức khắc chúng tôi bàn chuyện vượt
biên, tìm cách ra đi.
Chúng tôi còn thuyết phục được cả một đảng viên trẻ tuổi rằng
đảng Cộng sản không tốt đẹp gì, cô ta cũng muốn đi. Sau này, khi tôi đã đi khỏi
nước, cô ấy vẫn còn viết thư sang cho tôi. Cô ấy đã đến nhà tôi, hỏi em tôi địa
chỉ để viết thư cho tôi. Cô cho biết vì cha cô là một đảng viên kỳ cựu nhiều
tuổi đảng nên cô đã gia nhập đảng. Nhờ cha mà cô được đãi ngộ tử tế, có mức sống
khá ở ngoài Bắc, nhưng khi vào Nam làm việc với chúng tôi, cô rất có cảm tình
vói chúng tôi. Cô biết gia đình tôi đã rời Saigon đi năm 1975, cô biết chúng tôi
cũng sửa soạn đi, nhưng cô vẫn bảo vệ cho chúng tôi, kể cả phải nói dối để che
chở chúng tôi.
Ngày tôi đi không thoát, tôi đã bảo cô ấy là tôi đi thăm cha
mẹ tôi. Nếu có ai hỏi thì cô sẽ chống đỡ hộ, bởi vì cô thừa biết cha mẹ tôi đã
ra đi rồi. Ông có thấy không, rất nhiều người tưởng tôi sẽ trở thành đảng viên.
Tôi đã cố làm bạn với cô ấy, bởi vì cô có thể bao bọc cho tôi nếu có chuyện xảy
ra.
Vào tháng mười một 1975, tôi đi lần nữa. Tôi viết cho cô một
miếng giấy bảo là tôi đi thăm cha mẹ. Sau mười ngày nghỉ dậy, nếu tôi không trở
lại thì nhờ cô tìm cớ nói hộ tôi. Nhờ thế, cô ấy đã bảo là tôi đi thăm cha mẹ.
Nhưng sau ba, bốn ngày, đi không được, tôi trở lại, cô chỉ nhoẻn cười. Cô luôn
luôn che chở cho tôi, cô ấy tốt hết sức.
Lần nào ra đi, tôi cũng mất hết tiền bạc. Lần thứ hai ra Nha
Trang tới một người bạn, người ta bảo năm giờ thì đến một điểm hẹn để ra đi.
Chúng tôi tụ tập đến chỗ chờ xe lam. Cứ thế đợi. Năm giờ. Năm giờ rưỡi. Sáu giờ.
Sáu giờ rưỡi. Rồi bảy giờ. Bảy giờ rưỡi. Chẳng một bóng ma nào đến đón. Họ ẵm
hết tiền nong, bỏ chúng tôi lại.
Cuối năm 1975, cô tôi từ Bắc vào. Bà ở lại ngoài Bắc từ khi
chúng tôi di cư vào Nam, lúc ấy tôi hãy còn nhỏ quá nên chẳng nhớ gì về cô tôi
cả. Cô tôi lễ mễ mang vào Nam nào là… gạo, vài quả trứng, mấy món lặt vặt, vì cô
tôi nghe nói người trong Saigon nghèo lắm, cô muốn giúp đỡ chúng tôi. Chú tôi
cũng vào cùng với cô. Chú kể rằng chú nghe nói miền Nam nghèo đói lắm nên miền
Bắc cần phải chống Mỹ để cứu miền Nam. Đấy chính vì sao mà người miền Bắc đã có
một niềm tin rất mãnh liệt để nỗ lực cứu nguy cho anh chị em miền Nam.
Trong những ngày ấy Cộng sản liên tục đổi tiền, tôi cũng chẳng
biết vì sao. Sau hai lần đổi tiền, khối người tự tử vì không đủ tiền mà
sống-trong đó có một vài người giàu có, đặc biệt là người Hoa. Lúc ấy nếu có
vàng thì còn giấu được, đó là lý do tại sao mọi người đều muốn giữ vàng. Tiền
thì tiếp tục trở thành đống giấy lộn.
Đối với người Hoa, Cộng sản cho đi rất dễ, trước hết là vì
tiền, thứ hai để tránh các vấn đề với Trung Quốc. Họ không muốn có người Hoa ở
Việt Nam.
Vì vậy tôi đi học tiếng Hoa, kiếm vài bộ quần áo Tàu, em gái
tôi cũng thế. Sau đó chúng tôi trả tiền kiếm đường xuống dưới miệt đồng bằng tìm
tàu đi Mã Lai. Chuyến đi hết ba ngày bốn đêm.
Trên đường sang Mã Lai chúng tôi bị hải tặc Thái Lan chặn cướp
tất cả sáu lần. Đến được Mã Lai chúng tôi mất hết, chỉ còn lại mạng sống thôi.
Lần đầu tiên thấy cướp Thái Lan, chúng tôi cứ ngỡ tàu ngoại
quốc giải cứu, ai nấy đều nhảy lên la mừng, tưởng bình yên thoát nạn, nhưng đến
khi chiếu ống nhòm nhìn thấy cờ, chúng tôi mới biết là có chuyện.
Vài người trên tàu đã có kinh nghiệm với bọn hải tặc vội bảo
đàn bà thay quần áo, lấy than bôi nhọ mặt mày, thân hình, làm cho xấu xí đi.
Chúng tôi vội làm ngay, lấy quần áo đàn ông mặc vào, bôi nhem nhuốc thân hình.
Chúng tôi có đủ thì giờ bởi vì chiếc tàu chúng tôi nhìn thấy hãy còn xa lắm.
Trong chuyến đầu bị chặn, tài công bị hải tặc Thái Lan đánh
gần chết. Khi chúng tới hỏi vàng đâu, thay vì cứ nói “chúng tôi không có vàng”,
anh ta lại bảo chúng tôi phải dùng vàng để mua xăng, mua dầu. Chúng bèn đổ hết
xăng dầu ra cho cạn đáy mà tìm. Không thấy vàng, chúng đánh tài công thậm tệ,
chúng định giết anh ta. Chúng đè anh nằm sấp mặt lên sàn tàu, rồi trước mặt
chúng tôi, bọn chúng đứng trên người anh, nhảy dọng lên dọng xuống lên lưng, lên
chân, lên đầu anh.
Lần thứ sáu bị chận thì không có chuyện gì tệ hại lắm, vì lẽ
khi chúng đến thì tất cả chúng tôi đã mất sạch hết rồi, manh áo cũng không còn.
Những bọn trước đã lấy hết, rồi để lại cho ít gạo, nước mắm. Bọn cuối cùng đến,
thấy chẳng còn gì lấy được, bèn cho chúng tôi ít cá, ít sữa cho trẻ con rồi kéo
cả tàu chúng tôi sang Mã Lai. Bọn cướp tử tế, tôi nghĩ thế.
Ngay từ sau khi gặp bọn hải tặc thứ nhất, chúng tôi đã hết
xăng nhớt, tài công thì bất tỉnh, tàu chúng tôi cứ thế nổi trôi. Chúng tôi kinh
hoàng vì lúc ấy ban đêm, không có chút ánh sáng. Bọn chúng đã vứt cả hải bàn của
chúng tôi xuống biển. Ai nấy đều chắc mẩm sẽ không thoát khỏi tử thần.
Một hôm, thấy có mấy chiếc tàu chạy qua, chúng tôi vội giương
cờ lên, phất nữa, nhưng không tàu nào dừng. Sáng hôm sau, lại thấy một tàu nữa
chạy lại. Tàu hải tặc, chúng lại cướp nữa. Bọn này rất trẻ, tôi đoán chỉ chừng
16, 17 tuổi. Bọn chúng cạo đầu nhẵn thín, mặt bôi trắng. Bọn chúng đều vác một
con dao dài, chúng dí dao vào cổ từng người để hỏi tiền. Bọn chúng chỉ biết vài
ba chữ Việt như: Tiền, đô la, vàng, đồng hồ. Chừng ấy chữ. Ai nấy sợ thất thần.
Không ai có thể biết chúng sẽ làm gì.
Khi tới Mã Lai, chúng tôi thấy một chiếc tàu nhỏ, vài người
Việt Nam đang đánh cá. Nhưng họ mặc những chiếc áo sặc sỡ do hội Hồng Thập Tự
phát cho, vài người đã ở đây đến hai, ba năm, nên nước da đen thẫm. Khi thấy hai
chiếc tàu đánh cá ấy tất cả chúng tôi cứ đinh ninh là người Mã, sợ họ cũng làm
như bọn Thái, nên vội bảo tài công ra sức chạy. Mấy người Việt đuổi theo, la
lên: “Lại đây nè! Lại đây nè!”. Cuối cùng mới nghe ra người Việt mà ngừng lại.
Họ chỉ cho chúng tôi đi thẳng vào khu tỵ nạn. Nhưng họ dặn khi
đến thì phải tự đánh chìm tàu, kẻo người Mã cũng bắt chúng tôi đi nữa.
Chúng tôi làm đúng lời dặn, rồi nhảy cả xuống biển, Vài người
nhảy xuống dùng búa phá thủng đáy cho chìm tàu, còn chúng tôi chạy băng qua bãi
biển, vào trong trại mà núp.
Một nhóm người Đức tiến tới, hỏi xuất xứ của chúng tôi. Họ yêu
cầu chúng tôi leo lên lại cái tàu thủng đáy, rồi nhảy xuống để cho họ quay phim.
Chúng tôi cười. Không tin nổi. Họ muốn chúng tôi lại bơi ra
tàu rồi nhảy xuống bơi vào bờ để họ làm phim. Thật lạ quá, nhưng chúng tôi vẫn
làm, chúng tôi phải ở lại cho được.
Thế đấy. Giây phút đầu tiên của tự do là làm tài tử đóng phim.
Và đúng vào lúc chúng tôi cố quên tất cả những chuyện đau thương đã xảy ra cho
chúng tôi, bởi vì chúng tôi biết giờ đây chúng tôi đã được tự do.
NGUYỄN SƠN
“Ra đi và
quên lãng”
Tôi nảy ý tưởng đi Mỹ từ năm mới mười hai tuổi. Ngay từ những
năm chiến tranh, tôi đã tò mò muốn đi Mỹ. Nhiều người bạn của tôi cũng thế .
Nhưng lúc ấy tôi hãy còn ít tuổi quá, làm sao đạt được mục đích. Trong thời
chiến, các bạn tôi và tôi cũng đã bàn nhau về chuyện sang Mỹ, mong ngay cả đến
chuyện bỏ miền Bắc vào Nam. Ở miền Bắc lúc nào cũng phải lo bom đạn, lúc nào
cũng phải lo giữ cho mạng sống an toàn.
Lúc ấy chúng tôi còn trẻ, chẳng có kế hoạch, chẳng có phương
hướng, cũng không rõ nếu khi vào Nam thì sẽ bị đối xử ra sao. Chúng tôi không
biết nếu vượt tuyến vào Nam có bị kết án hay không. Chúng tôi không muốn bị bỏ
tù trong Nam, chỉ vì đã vào từ miền Bắc. Nhưng tất nhiên trong lúc chiến tranh,
việc ấy chẳng thể nào thực hiện được.
Tôi bị gọi nhập ngũ đánh Trung Quốc và Campuchia. Sau bảy
tháng trong bộ đội, tôi đào ngũ trở về Hà Nội. Lúc ấy mẹ tôi bảo bây giờ tốt
nhất tôi nên học lái tàu. Vì thế tôi theo học một khoá điều khiển tàu chạy sông
ở miền Bắc. Khi theo học lớp này, các bạn tôi hỏi có phải tôi đang tính đi trốn
không? Tôi bảo phải. Sau đấy chúng tôi chung nhau tiền mua một chiếc tàu.
Rồi vào khoảng từ 1979 đến 1980, chính phủ trục xuất người
Việt gốc Hoa. Nghe trên đài, chúng tôi hiểu bây giờ Liên Hiệp Quốc đã chú ý đến
vấn đề tỵ nạn rồi.
Tôi đi với em trai và em gái tôi. Sau khi bị chặn xét tại Cảng
Hải Phòng, tôi lái tàu đi đường sông ra biển, cũng nhiều người khác nữa đi theo.
Lúc ấy trên tàu có tất cả năm mươi người.
Như thế chúng tôi đã đưa tàu đi từ Hà Nội đến Hồng Kông. Quyết
định của chúng tôi là ra đi và quên lãng, chúng tôi sẽ không bao giờ quay trở về
Hà Nội nữa. Bằng hành động ra đi, chúng tôi đã bày tỏ thái độ từ chối cái xã hội
mà chúng tôi đã sống, để làm lại cuộc đời của chính chúng tôi, tại một nơi nào
khác. Chúng tôi cũng chấp nhận luôn cái sống lẫn cái chết. Nếu sống sót được thì
cũng chẳng bao giờ quay về Hà Nội, vì quay về có nghiã là tù đày hoặc chỉ sống
một cuộc đời u ám. Người ta sẽ không bao giờ quên, không bao giờ tha thứ việc
chúng tôi trốn chạy.
Vì nghĩ chuyện đi biển vẫn chẳng nguy hiểm bằng chuyện xảy ra
nếu không thoát, nên chúng tôi đều có tư tưởng hết sức tích cực. Chúng tôi nghĩ
chúng tôi sẽ sống. Và rồi sẽ có thể xây dựng được một tương lai tốt đẹp hơn cho
bản thân chúng tôi, cho con cái chúng tôi tại một đất nước tự do.
Khi đến Hồng Kông, chúng tôi được đối xử rất tử tế. Chúng tôi
được phép lựa chọn quốc gia định cư mà chúng tôi mong muốn.
Nhiều người ở miền Bắc có cùng một cảm giác như tôi, đều muốn
làm những chuyện như tôi thực hiện. Trong suốt những năm chiến tranh, chúng tôi
đều đã chịu chung những điều kiện của cuộc sống kéo lê. Lúc ấy đi ngược dòng
chắc chắn chỉ có chết. Cho nên tôi phải đợi đến khi cuộc chiến đã xong.
Nếu tôi ở lại Hà Nội, cuộc đời tôi hẳn sẽ khác cuộc đời bây
giờ ở Mỹ. Thứ nhất, có lẽ tôi đã lấy vợ đẻ con. Bây giờ tôi vẫn một thân một
mình. Thứ hai, chắc tóc tôi không đến nỗi bạc như bây giờ, vì ở đất Mỹ này tôi
phải lo âu nhiều quá. Ở lại Việt Nam có lẽ cuộc đời tôi ổn định hơn.
Hiện nay tôi lo lắng quá. Tôi mất việc, thất nghiệp, phải ở
nhờ bạn bè và em gái tôi. Đôi khi, tôi nghĩ có lẽ tôi nên trở về Việt Nam. Nhưng
không. Không. Đùa thế thôi. Thỉnh thoảng chúng tôi lại đùa. Đúng ra, đêm hôm
nghĩ ngợi, tôi vẫn thường cân nhắc chuyện này. Tôi vẫn luôn luôn có cùng một câu
trả lời cho câu hỏi này: Rời khỏi nước ra đi, ấy là một quyết định đúng. Tôi
luôn luôn tự nhủ, ngẫm cho cùng, tôi đã hành động đúng. Tôi không có gì phải
tiếc cả, thật đấy.
Ở đây đầu óc tôi mở mang, tôi luôn luôn học hỏi. Tôi cảm thấy
tôi phát triển về phương diện trí thức, tôi vui thích về điều này. Tôi được gặp
gỡ trao đổi với đủ hạng người với những tư tưởng khác nhau. Ở đây không ai sợ
hãi ghê gớm gì. Tôi cũng lấy làm vui thích về điều này.
Tôi đã làm một quyết định đúng khi bỏ nước ra đi, những gì tôi
đã phải chọn là những gì tôi đã muốn. Đến đây thì sự lựa chọn ấy cũng xứng đáng.
Ngày đi khỏi Việt Nam, tôi đã ra đi với tư tưởng dứt khoát.
Tôi muốn đi càng nhanh càng tốt.
Nhưng khi tàu vừa ra hải phận quốc tế, khi những cơn sóng mạnh
vỗ mạn tàu thì chúng tôi đã bắt đầu thấy lòng bứt rứt không yên. Chỉ mới đi bảy,
tám tiếng đồng hồ, đã thấy thôi thúc, muốn quay tàu về. Chúng tôi nhớ đất nước,
nhớ cửa, nhớ nhà. Ý thức được những gì đã làm, chúng tôi bắt đầu bật khóc. Tất
cả chúng tôi đều quay nhìn lại Việt Nam mà khóc.
Tôi ra đi chỉ một bộ quần áo trên người. Tôi biết cuộc đời rồi
sẽ không dễ dàng, rồi sẽ đầy khó khăn trở ngại, phải đổi máu, mồ hôi, nước mắt
lấy sự sống, nhưng chúng tôi vẫn muốn hướng tới mà đi. Và khi đã ra tới hải phận
an toàn, lại muốn quay về. Chúng tôi ai cũng khóc.
Giờ đây không ngày nào, đêm nào trôi qua mà tôi không nhớ nghĩ
về Việt Nam. Trong trí nhớ, tôi nhìn thấy người trong gia đình, các họ hàng thân
thích, hàng xóm láng giềng, cha mẹ đẻ ra tôi. Tôi khắc khoải nhớ đến mọi thứ, từ
cái cây đến những góc nhà. Đất nước Việt Nam ở trọn vẹn trong tôi, trong ý nghĩ
tôi. Nhưng xin ông phải hiểu cho, tôi đã sống hai mươi lăm năm trong cuộc đời ở
đất nước Việt Nam. Đấy là nơi tôi lớn lên, nơi chứa đựng biết bao ngọt bùi thời
thơ ấu, đấy là nơi tôi trưởng thành. Tôi đã sống ở nơi ấy một phần tư thế kỷ, đã
tràn ngập biết bao ký ức. Tôi không thể ném bỏ tất cả. Những ký ức và dĩ vãng ấy
lúc nào cũng ở trong tôi.
Quay về với thực tế đất Mỹ này, tôi quả muốn được học hành.
Nhưng trí óc nhớ nhung và đầy hình ảnh Việt Nam, tôi không học nổi, tôi không
học thêm được nữa. Những điều thầy giảng chui vào tai này lọt sang tai kia. Tôi
chỉ nhớ được đôi điều thông thường người ta cần biết để sinh sống ở đây, còn
ngoại giả những điều khác, chẳng có gì lưu lại được vì trí óc tôi đầy ắp Việt
Nam.
Ngày đầu tiên đến định cư tại Mỹ tôi đã quyết định phải hội
nhập, phải thích nghi, phải chấp nhận cuộc sống này. Nhưng rồi cũng lại lan man
nghĩ ngợi về Việt Nam. Mỗi ngày tám giờ làm việc thì chỉ nghĩ đến việc làm,
nhưng sau giờ làm, lại nghĩ đến gia đình, đất nước. Xong bữa cơm, bật cái truyền
hình lên xem thì không hiểu hết vì tôi không giỏi sinh ngữ lắm. Thế là mỗi đêm
trí óc lại trôi giạt về Việt Nam. Cuối tuần, tụ họp với bạn bè, lại nói chuyện
quê hương đất nước Việt Nam. Đề tài ấy lúc nào cũng quanh quẩn bên tôi. Nếu
không có người Việt mà chỉ giao thiệp với Mỹ thì có lẽ cũng bớt cảm giác Việt
Nam. Nhưng ở đây, chung quanh tôi rất đông người Việt. Chúng tôi lại nhớ. Nỗi
nhớ nằm trong xương tủy chúng tôi.
Tôi nghĩ ngay cả một ngày kia khi các lãnh tụ già ở Việt Nam
đã chết, người trẻ có nắm quyền thì họ cũng đã quen đường lối thế hệ già, cũng
lại rập cùng một khuôn mẫu. Tôi không thấy tương lai hạnh phúc nào cho đất nước
Việt Nam, có lẽ ít nhất cũng phải đến sau năm 2000.
Ngày nay người ta vẫn không giác ngộ. Có một số du học sinh
sang các nước Đông Âu, nhưng khi trở về họ cũng không làm gì được vì đất nước
nghèo đói, ít người học thức, người ta không được phép thực sự chứng kiến những
gì xảy ra trên thế giới. Trong chiều hướng này, người ta chẳng có thể mong đợi
gì việc cải thiện mức sống cả.
Muốn đất nước tiến bộ, giới lãnh đạo phải thay đổi cách thức
làm việc. Họ phải làm theo nhu cầu của dân, làm theo ước nguyện của dân. Nếu dân
muốn làm việc 8 giờ một ngày, thì họ phải để cho dân làm việc 8 giờ một ngày.
Nếu dân không muốn tệ nạn tham nhũng hối lộ, họ phải giải quyết tệ nạn tham
nhũng hối lộ. Muốn cải thiện đất nước, lãnh đạo phải đi sát với nhân dân, tìm
hiểu nhân dân. Hiện nay họ không làm như thế. Lãnh đạo ra chỉ thị bắt buộc nhân
dân làm những gì họ muốn. Còn nhân dân cứ hành động những gì họ đòi. Dân thì
nghèo khó, khổ sở. Con người phải làm việc vất vả, mà càng làm vất vả thì cuộc
đời càng thấy khốn khổ thêm.
VŨ THỊ KIM VINH
“Một bức
tranh chúng tôi có thể ngắm nhìn và mơ mộng”
Sau ngày 30 tháng Tư, sau khi Saigon sụp đổ, người ta bị bắt
buộc phải công khai tự phê, tự kiểm, phải tố giác cha mẹ, con cái, bạn hữu.
Người ta đã buộc lòng phải làm như thế, không ai đếm xỉa đến chuyện phải nói cái
gì nữa. Ai nấy đều giản dị chỉ lo tạo ấn tượng tốt để sinh tồn. Người ta nói
những chuyện như thế để mong chế độ mới đối xử tử tế. Phần tôi cũng phải nói là
căm ghét những người như cha mẹ tôi, chỉ vì tôi cần sinh tồn, tôi không đếm xỉa
những gì tôi nói nữa.
Mỗi sáng sớm bảnh mắt mới 6 giờ họ đã dùng hai loa phóng thanh
to tướng đánh thức chúng tôi dậy. Chúng tôi phải ra cả ngoài đường cho cái mà
tôi gọi là “giờ Jane Fonda”. Đứng ngoài đường nghe họ hô tập thể dục. Bất kể
tuổi tác già nua, tình trạng nào cũng mặc, ra tập thể dục. Họ cho phát thanh một
thứ âm nhạc buồn cười, một giọng la “một, hai, ba” y hệt như người ta mô tả
trong cuốn sách “1984″. Thật lố bịch. Nhìn bao nhiêu bà già phải làm trò này,
tôi tự nghĩ “Thứ xã hội mới gì đây, thứ chế độ không trọng nể cả những người già
cả như thế?”.
Sau đó chúng tôi bắt buộc phải tình nguyện lên đồng rừng dựng
nhà cửa, sửa mái nhà ở những vùng kinh tế mới. Họ bảo chúng tôi là những người
tình nguyện, thực ra nào có ai tình nguyện. Không chịu đi, họ cắt thức ăn, cắt
hộ khẩu. Mẹ tôi vẫn có thể mua hàng chợ đen nếu họ cắt hộ khẩu, nhưng họ cũng
không để cho yên. Họ bảo nếu trong nhà không có một đứa con tình nguyện công tác
lao động ở khu kinh tế mới thì toàn thể gia đình sẽ phải đi kinh tế mới. Vì thế
tôi phải tình nguyện cho xong.
Họ thực đủ mánh khoé gạt gẫm chúng tôi. Lúc đó, chỉ có mẹ tôi
ở nhà. Cha đã phải đi tù. Và cả chuyện ấy nữa cũng là mánh khóe gạt gẫm của họ.
Đầu tiên họ thông báo các Hạ sĩ quan, các cấp dưới trong quân đội chỉ phải đi
học tập hai ngày nên các sĩ quan cấp trên đã chứng kiến, nghĩ rằng Cộng sản giữ
đúng lời hứa. Chính vì thế cha tôi và anh rể tôi đã tự ý đến đăng ký để đi “cải
tạo với thời hạn 6 tuần”. Cha và anh rể tôi rời Saigon cùng với nhiều người
khác. Khi thời hạn đã mãn, chúng tôi đều mong ngóng cha và anh rể trở về, nhưng
họ không về. Tôi nhớ thật rõ ngày đáng lẽ cha anh tôi đi cải tạo trở về. Tôi nhớ
thật rõ khuôn mặt những người chị, người vợ, người con trông ngóng chồng, cha,
anh trở về.
Mặc dầu chính tôi là người có quan điểm tự do và rất trung
lập, nhưng tôi cũng không thể nào tha thứ cho Cộng sản được về những gì họ đã
làm lúc đó, khi nhìn thấy cặp mắt của những người đợi chờ trông ngóng, những
người đã tin lời Cộng sản nói. Ngày hôm ấy vạn vật tưng bừng, mọi người đều mặc
những bộ quần áo tươi sáng, họ tin đó là ngày cha anh họ, những người yêu dấu
trở về với gia đình. Ai nấy rộn rã kể với nhau những ký ức tốt đẹp. Rồi nấu ăn.
Rồi trang hoàng dọn dẹp nhà cửa. Tất cả đều thất vọng buồn bực, cha anh của họ
không bao giờ trở về cả.
Nhiều người đàn bà kéo nhau lên tận các cơ quan để hỏi các thủ
trưởng Cộng sản xem khi nào cha anh họ được về. Tất nhiên lãnh tụ Cộng sản đời
nào ló mặt ra tiếp họ. Ngay dưới thời Nguyễn Văn Thiệu, người ta vẫn còn có thể
giao tiếp được với các lãnh tụ qua trung gian báo chí, hoặc qua các viên chức
chính quyền. Dưới chế độ Cộng sản, đừng hòng. Người ta chẳng có quyền gì làm như
thế. Lính bên ngoài không cho phép họ vào.
Các bạn tôi và mẹ tôi hỏi một cán bộ Cộng sản: “Tại sao cán bộ
bảo đến hôm nay, tức là sau sáu tuần, chồng chúng tôi về”? Gã Cán bộ đáp: “Sáu
tuần đấy là sáu tuần di chuyển, chứ không phải là sáu tuần ở trong trại. Mấy ông
có nợ máu với nhân dân, làm sao được về nhà dễ dàng quá thế?” Chúng không hề cho
ai biết chúng giữ người ta ở đâu.
Năm 1984, cuối cùng cha tôi được thả ra khỏi trại tập trung.
Sáu tuần lễ, trở thành chín năm trường!
Trong suốt những ngày ấy chúng tôi đã sống trong cảm giác
khủng khiếp, vì chúng tôi không bao giờ biết được chuyện gì sẽ xảy ra. Vào đêm
trước ngày đáng lẽ cha tôi được thả về, tức là khoảng sáu tuần sau khi cha tôi
đi, một đám lính đông đảo kéo đến đòi xét nhà. Lúc ấy 2 giờ sáng. Chúng bấm
chuông tới tấp. Chúng tôi khiếp đảm vì cha tôi đã đi khỏi. Khi chúng tôi hỏi ai
kêu cửa, chúng cao giọng đáp: “Giải phóng! Mặt Trận Giải Phóng!” Chúng trả lời
một cách nghiêm trọng. Mở cửa ra thì đây là một thằng trẻ ranh. Nó gọi mẹ tôi
bằng “chị” và bảo: “chồng chị đi học tập phải không?” Mẹ tôi đáp: “Dạ, phải,”
nhưng chúng vẫn lục soát thẳng tay. Lý do thực sự của việc lục soát chính là
tiền, là vàng.
Lúc ấy chúng tôi hãy còn một tấm lịch treo tường, tấm hình cô
gái Nhật rất dễ thương, khoẻ mạnh, hấp dẫn. Cô ta mặc cái áo sơ mi, trùm qua
quần tắm, nhìn ra biển vói một vẻ mặt hạnh phúc.
Thằng ranh con nói: “Chị phải tháo cái lịch này xuống. Tục tĩu
hết sức! Tàn tích chế độ trước! Tệ hại quá! Tháo nó xuống ngay!” Chúng tôi muốn
ứa nước mắt. Tấm hình ấy là một chút gì còn lại để chúng tôi nhìn ngắm mơ mộng,
để thấy biển trời xanh ngất, để thấy khuôn mặt hạnh phúc của một người đàn bà.
Những gì chúng tôi biết chúng tôi sẽ không còn bao giờ được như cô gái trong tấm
hình nữa, và bây giờ, hắn muốn chúng tôi xé trước mặt hắn ngay tức khắc.
Về tháng Sáu trời Sài Gòn rất nóng. Anh tôi chỉ mặc trên người
một cái quần đùi. Thấy thế thằng lính chỉ bằng tuổi anh tôi bảo: “ăn mặc vô lễ!”
Hắn la lối như thế lúc hai giờ sáng. Anh tôi bảo không mặc áo vì trời nóng quá.
Thằng lính thét lên: “Đừng cãi. Đừng cãi lại với tôi, nghe chưa! ” Mẹ tôi vội
vàng xin lỗi, anh tôi cũng phải xin lỗi. Thế rồi thằng lính nhìn sang mấy đứa em
gái, có lẽ hắn muốn ra oai với các em tôi. Lúc ấy vào giờ đi ngủ, mấy đứa em
đang ăn mặc quần áo ngủ mỏng. Hắn nhìn mấy đứa em gái tôi bảo: “Nhà này thật
thối tha. Lối ăn mặc của các cô và cái thứ lịch treo tường ở đây! Các cô sẽ phải
thành khẩn học tập rất nhiều trong đời sống mới. Đời chúng tôi trong sáng, còn
các cô dơ dáy quá!” Rồi bọn lính bỏ đi.
Có một lý do làm tôi không bao giờ quên được đêm hôm ấy, vì
tôi nhìn vào khuôn mặt anh tôi. Ông cũng biết, sau này anh tôi đã chết. Anh tôi
tốt nghiệp trung học xong, thi vào trường Y Khoa và trường Kỹ sư. Anh là một
thanh niên thông minh, rất thông minh, hiền lành, tử tế. Anh tôi biết là không
vào trường Y khoa được chỉ vì có liên hệ với cha tôi.
Chúng tôi là người Công giáo, không nghèo, cha tôi từng là Đại
tá trong Quân đội miền Nam Việt Nam. Anh tôi được điểm thi rất cao. Chúng tôi
biết chuyện ấy vì có nhiều họ hàng làm trong các cơ quan. Chú tôi đã một thời
coi trường Y khoa, ông là người coi các kỳ thi. Các giáo sư và bác sĩ cho điểm
trong các kỳ thi lúc ấy vẫn còn là những người cũ, họ cho anh tôi điểm cao nhất
trong kỳ thi vào trường Y Khoa. Nhưng khi nhìn lý lịch anh tôi, họ giản dị ném
số điểm ấy vào thùng rác. Chúng tôi đều biết anh tôi làm bài rất khá, điểm rất
cao. Anh tôi bị tổn thương sâu đậm vì không được nhận vào trường Y khoa. Anh đã
được điểm cao nhất tại Saigon. Sau đó anh phải tìm việc làm, lúc ấy không có
việc làm là phải đi kinh tế mới. Mẹ tôi không muốn anh tôi uổng phí cuộc đời ở
các khu kinh tế mới, nên đã cố tìm cách cho anh tôi đi khỏi nước. Lúc ấy họ bắt
anh tôi gia nhập Thanh niên Xung phong để đi làm đường, đi lao động trong rừng
và anh đã phải ký giấy nói rằng anh “tình nguyện”.
Cuối cùng chúng tôi cũng có mánh. Sống trong một xã hội mà
chính quyền dùng đủ mọi thủ đoạn lường gạt thì chúng tôi cũng phải có những mánh
khóe lường gạt. Chúng tôi đã học được luật chơi. Mẹ tôi hối lộ cho một y tá để
bà này chứng nhận anh tôi bị tai nạn gẫy tay, do đó phải bó bột vài tháng. Bà y
tá ký giấy nói là anh tôi bị gãy tay, đổi lại mẹ tôi phải trả cho bà ấy một cái
xe Honda hai bánh. Chúng tôi cũng thuê tiền một người đến nhà tôi la lối ầm ĩ
cho cả xóm nghe rằng anh tôi bị xe đụng, cái xe chạy mất. Thế rồi chúng tôi đưa
anh tôi về nhà với cái tay bó bột, hàng xóm chạy đến, có cả an ninh khu vực và
ông Trưởng Khóm. Trưởng Khóm trước đây vẫn làm cho mẹ tôi. Gia đình ông ta rất
nghèo, nguyên là thợ nề, bây giờ là Trưởng Khóm. Mẹ tôi từng luôn luôn đối đãi
với ông rất tử tế. Bây giờ ông lại là nhân vật quan trọng. Ông ta hỏi chuyện gì
thế. Chúng tôi khóc lóc mếu máo. Mẹ tôi bảo ngày mai là ngày anh tôi sẽ đi lên
kinh tế mới, nó muốn góp phần xây dựng đất nước mà trời ơi, bây giờ làm sao đi
được nữa, thiệt thất vọng quá chừng đỗi! Ông Trưởng Khóm bảo: được rồi, khi nào
tay nó lành thì nó đi! Cứ ba tháng họ lại gửi người đi, nên anh tôi bây giờ có
thể tạm yên ba tháng.
Căn phòng khách nhà tôi bây giờ trở thành chỗ người ta làm
việc. Mẹ tôi đan áo khéo, lại có sáng kiến, ít ai đan đẹp bằng. Vì thế họ đặt bà
làm Giám Đốc cơ sở đan áo ngay nhà chúng tôi. Ngày nào cũng có mấy người đàn bà
đến đan. Họ nhận len từ Đông Đức, đan mỗi cái kiếm được 50 xu. Mấy bà có chồng
đi học tập thường đến nhà tôi làm việc này. Rồi buổi tối, khi mọi người ra về,
chúng tôi đóng kín cửa nẻo lại, anh tôi mới tháo băng bột ra.
Sau sáu tháng, chúng tôi kiếm được đường dây cho anh tôi đi.
Anh bảo nếu hên thì được tự do, nếu xui bỏ mạng là cùng, ở lại Việt Nam cũng
chết.
Chúng tôi kiếm được tàu đưa anh sang Mã Lai. Trong chuyến đi,
anh bị đau bụng. Họ đưa anh đến bệnh viện, tìm ra chứng sưng ruột. Bệnh trạng
mỗi ngày một nghiêm trọng. Họ bảo chỉ ở thêm một ngày nữa trên mặt biển là anh
tôi chết. Như thế, người ta đã một lần cứu được mạng anh tôi lúc ở Mã Lai.
Chúng tôi nghĩ sang đến Mỹ, anh sẽ học Y khoa, trở thành Bác
sĩ. Nhưng cuối cùng sang đến Mỹ anh phải làm việc. Rồi học Anh ngữ, chuẩn bị xin
vào trường Y. Nhưng anh tôi đau trở lại, chết trước khi vào được trường Y.
Phần tôi, mẹ tôi mua cho cái tên giả ở Việt Nam, nhờ đó mới
được đi học lại ở một lớp thấp hơn một cấp. Tốt nghiệp với lý lịch như tôi,
chẳng cách gì kiếm được việc làm hoặc vào Đại học được cả. Vì thế tôi đã ở lại
trung học với một mớ giấy tờ hợp thức, tôi ở lại lớp mười một đến hai năm.
Tôi trở thành thuyền nhân, rời khỏi nước năm 1979 trên một con
tàu đi Tân Gia Ba. Nhưng tại đây họ không muốn nhận. Họ dùng tàu lớn kéo ra rồi
đâm tàu chúng tôi đến gần chìm.
Mọi người trên tàu la khóc, cầu nguyện, van vái. Riêng tôi chỉ
cười. Chỉ có các bạn tôi và tôi cười. Chúng tôi bảo “có gì mà phải khóc”. Tôi
cũng không rõ tại sao tôi có thái độ như thế. Có lẽ vì tôi hãy còn độc thân, đi
một mình, không mục tiêu, không tiền bạc, chẳng có gì trơn trụi, tôi đã phải
ngồi bệt dưới hầm tàu sáu ngày ròng rã. Tôi không còn là con người nữa. Dưới ấy
người ta đi tiểu ngay trên đầu tôi. Ngồi ẹp bên dưới những người khác cả sáu
ngày ròng rã như thế, chân không ruỗi ra được. Cặp chân tôi tê dại. Lúc ấy người
chẳng còn ra người, người ta có thể giết nhau thực dễ dàng. Nếu người ta làm tôi
nổi điên và nếu tôi khoẻ hơn thì chính tôi cũng đến giết người vì cuộc sống
chẳng còn có ý nghiã gì nữa cả. Cuối cùng tôi thực chán nản. Mỗi lần người ta đi
tiểu trên đầu, tôi chỉ bảo: “Ôi! Trà nóng! Đến giờ uống trà đây!”
Tôi ốm liệt vì không đủ nước uống. Tôi bị chứng ráo nước nhưng
vẫn còn lịch sự như thế. Người ta dùng bọc ny lông đi tiểu, chuyên nhau lên trên
mặt khoang rồi đổ xuống biển. Nhưng nếu có ai chuyền không cẩn thận, nước tiểu
sẽ văng ra tung toé chảy từ trên khoang, chảy xuống chúng tôi ở dưới tàu.
Tuy nhiên cũng may mắn chúng tôi không gặp hải tặc Thái. Người
tài công đã chọn đường đi Tân Gia Ba để tránh hải tặc. ở Tân Gia Ba họ cho chúng
tôi nước và những đồ ăn của quân đội Mỹ, khẩu phần “C- Ration” mà chúng tôi cứ
gọi ra là “Carnation”, hoa cẩm chướng.
Chúng tôi gọi như thế vì khi lính Mỹ đến Việt Nam, lúc còn nhỏ
tôi vẫn réo gọi lính Mỹ: “Carnation”, hoa cẩm chướng, thứ hoa Mỹ duy nhất mà
chúng tôi có. Thứ hoa này làm cho tôi buồn bã nhớ đến cha tôi, vì khi còn ở với
cha, ông cũng ăn cả hoa cẩm chướng Mỹ.
Chúng tôi rời Tân Gia Ba sang Mã Lai. Tôi ở Mã Lai gần một
năm. Tôi đã gặp xui khi ở Mã Lai, nhưng đến nay nghĩ lại, tôi vẫn cho mình hãy
còn may mắn. Khi đến Mã, dân làng ở gần nơi chúng tôi đổ bộ đã dùng súng M-16
bắn đuổi chúng tôi đi. Họ bắn vào nước, bắn qua đầu chúng tôi.
Nhưng tài công quyết định đánh đắm tàu, phá máy. Vì thế chúng
tôi phải đổ bộ, mọi người nhảy ra cố thoát vào bờ. Thôi mạnh người nào nhặt được
cái gì nổi lên thì bám vào, bềnh bồng trên biển như thế hai tiếng đồng hồ cho
đến khi họ chán trò ấy, họ bèn cho chúng tôi bước lên bờ.
Anh tôi bảo trợ tôi sang San Francisco. Sau một năm sống ở Mã
Lai không tiếp xúc với cuộc sống tân tiến, cái gì cũng có vẻ mới lạ nên đã khó
cho tôi thích nghi cuộc sống. Tôi bị nhiều xúc động, gần như kiệt quệ khi đến
Mỹ. Tôi đã suýt chết nhiều lần quá. Ở Mã Lai, tôi phải sống trong một sân banh,
ngủ trên mặt đất. Ba ngàn người ngủ trong một sân banh. Biết bao điều phải chứng
kiến trong những ngày ấy, những điều người ta không thể tin được, mà cũng chẳng
nên biết đến làm gì.
Khi tới Mỹ, tôi tha thiết hy vọng một ngày nào tôi sẽ phục hồi
lại được phẩm giá của mình. Lấy lại được phẩm giá qua thời gian, ấy là những gì
tôi hy vọng. Đa số người ta nói rằng họ yêu Tự do, tôi biết. Nhưng đối với tôi,
Tự do không đủ. Tôi cần có cả phẩm giá của tôi, giá trị tinh thần của tôi, linh
hồn tôi nữa. Tôi không thể thực sự kể cho ông nghe hết cái cảm giác của tôi lúc
đang còn là một thuyền nhân lênh đênh trên mặt biển như thế nào, bởi vì tôi đã
mất hết tinh thần, tôi không tìm được ra tôi, tôi không còn biết tôi là ai. Tôi
chỉ có cảm giác tê liệt. Bây giờ đây, không biết rồi mọi chuyện sẽ ra sao. Tôi
đã phải trải qua nhiều chuyện. Tôi không thể dối trá bảo rằng tôi rất hạnh phúc,
rằng tôi đã tìm được tự do. Ông thấy chứ, tôi đã cảm thấy tự do khi tôi ở trên
mặt biển, khi tôi ở Mã Lai, khi tôi ở Tân Gia Ba! Tự do đấy! Nhưng Tự do của con
người còn phải đi với Phẩm giá con người. Tôi đã sống trong cuộc chiến, đã phải
rời bỏ đất nước mà đi… Tôi là một nạn nhân chiến tranh. Chúng tôi đã không thực
có Tự do. So sánh với những dân tộc khác trên thế giới, thì có. Tuy nhiên cái tự
do thực sự của con người thì chúng tôi chưa từng bao giờ có được.
Tại nước Mỹ này, có người thương kẻ ghét. Tôi biết là tôi phải
biết ơn dân tộc Mỹ và đất nước Mỹ, bởi vì ít ra tôi vẫn còn cơ hội tìm lại tinh
thần tôi, giấc mơ của tôi, và được tự do.
Tôi luôn luôn nhớ đến câu này của Martin Luther King Jr.: “Tôi
có một giấc mơ”. Giấc mơ của tôi có thể không giống giấc mơ của ông, hoặc của
các ông. Giấc mơ của tôi có thể chỉ rất đơn giản. Nhưng tại đất nước này, tôi có
thể thực hiện được, nếu tôi cố gắng. Tôi có cơ hội để thực hiện các giấc mơ, mặc
dầu có thể tôi chỉ mơ ước hão huyền thôi.
Tôi muốn trở thành một nhà văn, nói như thế một cách lý tưởng.
Tôi cũng muốn trở thành một nhà giáo dục, được sử dụng những kiến thức về khoa
học, về cuộc sống, hoặc bất cứ về lãnh vực nào để giúp đỡ con người, bởi vì tôi
thấy con người là một cứu cánh chứ không phải là một phương tiện. Tôi luôn luôn
thấy con người là một cứu cánh, là mục đích cuối cùng. Tất cả những gì tôi làm
cho tôi, đó cũng là cho con người vậy. Nếu tôi thương yêu và tôi săn sóc được
cho tôi trước thì tôi mới có thể thương yêu những người khác. Khi nói “những
người khác”, không có nghiã chỉ là người Việt Nam. Tôi muốn nói tất cả mọi
người. Người Việt, tất nhiên là những người đã chịu nhiều đau thương nhất, tôi
sẽ phục vụ họ, bởi vì họ là những con người khốn khổ. Tôi chống Cộng sản, nhưng
tôi cũng chống tất cả những con người chủ trương kỳ thị chủng tộc, tôi chống mọi
chính quyền áp bức và tiêu diệt con người, tiêu diệt tinh thần con người. Những
kẻ ấy chỉ xem con người như những sản phẩm, như những phương tiện để sử dụng.
Bất hạnh thay, chính những người Cộng sản đã đối xử với con người như thế.
Chúng ta sinh ra trong thế giới để làm cho thế giới trở thành
một nơi tốt đẹp hơn, không phải để tàn phá nó. Tôi tin vạn vật cái gì cũng có
Trời. Tôi tin Thượng Đế sinh ra con người. Tôi không hề và chưa từng bao giờ tin
vào các Chủ nghiã. Tôi tin ở tinh thần nhân bản.
TRẦN TRÂM
“Ta sẽ cứ vui”
Sau khi đến trại tỵ nạn Pendleton, gia đình tôi được một nhà
thờ bảo trợ về San Jose, thuộc tiểu bang California.
Tôi dần dần mất hết niềm tin sau khi đến Mỹ. Tôi bắt đầu nảy
sinh nhiều nghi hoặc, tinh thần mỗi lúc một suy nhược, mối ưu uất lớn gần như
tràn ngập cả tâm hồn. Có nhiều nguyên nhân gây ra tình trạng ấy: Sự va chạm khác
biệt văn hóa, ký ức về Việt Nam và sự kiện chúng tôi sẽ không bao giờ trở về
Việt Nam nữa. Ngoài ra tôi cũng mang nhiều thù ghét đối với người Mỹ vì tôi
không hiểu chính sách đối ngoại và chính trị của người Mỹ ra sao. Cho nên tôi
lâm vào tình trạng là cùng một lúc tôi rất sung sướng, mà cùng một lúc tôi cũng
đầy mặc cảm phạm tội khi ở đây.
Khi còn ở Việt Nam, mỗi lúc nói về thời hòa bình yên ổn, tôi
đều thấy cỏ xanh mơn mởn khắp nơi – cỏ xanh là hình ảnh mà tôi mường tượng ra
mỗi khi nghĩ đến hòa bình. Ngày xưa, khi cha con cùng ngồi bên bờ biển, cha tôi
đã bảo bên kia bờ đại dương là nước Mỹ. Tôi nghe nói bên ấy có hòa bình, tôi đã
mơ đến nước Mỹ, một miền cỏ mọc khắp nơi. Tại tiểu bang Cali này khắp nơi cỏ
mọc, do đó tôi cũng đã nghĩ quả đây là lúc hòa bình yên ổn. Nhưng sao trong tôi
tất cả đều náo động. Cái hình ảnh mà tôi thấy và những cảm xúc trong nội tâm tôi
sao chẳng tương quan đến nhau.
Sự yên bình trong tâm hồn và sự bình yên ngoại giới đã gây cho
tôi nhiều vấn đề phải mất hàng chục năm tôi mới giải quyết xong. Tôi đã trải qua
một thời kỳ dài, một thời kỳ liên tiếp tôi cứ muốn tự tử, cứ muốn hủy hoại thân
mình. Trong thời kỳ này có lúc tôi đã chui vào tủ quần áo, vào buồng tấm, tay
cầm con dao, đầu óc chờn vờn ý tưởng đi tìm cái chết. Cũng có lúc tôi nghĩ đến
việc đâm đầu vào xe lửa, như thế đỡ cho gia đình tôi khỏi bối rối. Đâm đầu vào
xe lửa có lẽ là cách tốt nhất, như một tai nạn xảy ra, còn lưỡi dao, có lẽ chỉ
là biện pháp hãn hữu mới phải dùng đến.
Cuối cùng tôi đã cố xoay chuyển để vượt qua ý muốn tự hủy và
suy tưởng cho đúng đắn. Đang là một sinh viên được điểm cao, tôi suýt nữa rớt
khỏi trường. Những năm ấy, tôi không cho phép mình được vui vẻ. Mỗi khi chợt
nhận ra mình vui vẻ, tôi lại có cảm giác phạm tội, áy náy, rồi lại lâm tình
trạng tinh thần ưu uất buồn rầu suốt mấy ngày. Tôi lẩn tránh hạnh phúc. Các vấn
đề chồng chất lên nhau càng lúc càng tệ hại trong suốt những năm này.
Cuối cùng tôi quyết định phải sống, vì nếu tự tử thì gia đình
tôi sẽ lúng túng hổ thẹn, nhất là em gái út tôi. Tôi cũng sợ nếu tôi hủy mình
thì không chừng một ngày kia em tôi cũng làm như thế. Tôi không muốn chuyện ấy
xảy ra. Vì thế khi nhận thức được rõ là tôi đã cận kề việc tự tử, tôi tìm đến sự
giúp đỡ của những người chuyên nghiệp. Đầu tiên, tôi đến một vị linh mục, rồi
sau đến một chuyên gia tâm lý trị liệu. Tôi cũng đọc khá nhiều các tôn giáo và
triết học Đông phương. Từ điều này dẫn sang điều khác, cuối cùng tôi được thuyết
phục rằng không làm gì có Thượng Đế, Thượng đế không có mặt, chính tôi và tự tôi
phải quyết định hạnh phúc mình, bất kể cái mặc cảm phạm tội của mình. Bằng ngôn
từ, tôi vẫn thường nói tôi không muốn tự tử, nhưng thỉnh thoảng tôi vẫn nghĩ về
sự tự tử như một hành vi lãng mạn. Nhưng bây giờ tôi tin sự sống có tính lãng
mạn hơn cái chết, nhất là từ khi tôi tin rằng sau cái chết, chẳng làm gì còn đời
sống nào khác nữa.
Sau khi đến Mỹ, tôi đã nhìn vào trái tim mình để kiếm tìm
Thượng đế mà không tìm ra Thượng đế. Bấy giờ tôi ở một giai đoạn đầy xúc cảm.
Tôi đã trở lại với Thượng đế một cách nồng nhiệt hơn trước, trong một thời gian.
Nhưng tuy vậy đôi lúc tôi vẫn nghĩ đấy chỉ đơn thuần là xúc cảm thôi. Cuối cùng,
tôi trở nên hợp lý hơn, tôi tin rằng chẳng Thượng đế nào hiện hữu cả.
Tôi đã từng đi vào một giai đoạn oán ghét Thượng đế vì những
gì Thượng đế đã để xảy ra cho quê hương tôi và gia đình tôi. Nhưng bây giờ tôi
lãnh đạm với Thượng đế. Tôi không còn hận thù oán ghét gì. Người ta không thể
sống với quá nhiều oán ghét, cho nên sau chót, tôi không còn ghét bản thân tôi,
tôi không ghét Thượng đế, tôi cũng không ghét người Mỹ nữa.
Tôi rất yêu dân tộc Việt Nam. Tôi yêu họ cả trong hành động
lẫn lý tưởng. Tôi đã tham dự những công tác cộng đồng. Nói riêng, tôi yêu rất
nhiều người ở Mỹ, nhưng nói chung, tôi không cảm thấy đây là quê hương tôi. Tôi
vẫn không cảm thấy đây là đất nước tôi. Bây giờ tôi chẳng còn biết quê hương tôi
là đâu, nhưng câu hỏi ấy đối với tôi không còn quan trọng như trước nữa.
Ở Việt Nam, tinh thần ái quốc được đề cao. Trong bất cứ dự
định nào về nghề nghiệp, tôi cũng muốn dành cho quê hương tôi. Tôi từng muốn trở
thành người dạy học để phục vụ quê hương. Nhưng khi sang đây tôi mất hết nguyện
vọng ấy vì lẽ nếu tôi trở nên thành công, thì đấy chỉ là cho bản thân tôi, chứ
chẳng còn cho quê hương tôi nữa. Cuộc đời đã mất hẳn những ý nghiã thiêng liêng
cao thượng như trước. Tôi trở thành Mỹ hoá, bây giờ tôi đeo đuổi nghề nghiệp chỉ
vì sự sung sướng vị kỷ, chứ ở đây, người ta ít nhắm đến mục tiêu gì khác.
Tôi có một ý tưởng mơ mộng sẽ một ngày kia trở lại Việt Nam,
thực hiện những điều tốt đẹp cho đất nước – đem lại cho quê hương dân tộc những
kiến thức mà tôi học hỏi được về thế giới. Đó chỉ là một ý tưởng mơ mộng, nó
không mạnh mẽ như niềm tin mà tôi đã có từ một thời xa xưa, khi hãy còn một viễn
tượng khác biệt về tương lai.
Tôi bắt đầu cảm nhận được người Mỹ từ bốn năm nay. Tôi bắt đầu
cảm nhận được việc nói chuyện với “ông” đó là nói với một con người.
Tôi bắt đầu cảm nhận được người khác. Trước đây tôi nói chuyện
với người Mỹ chỉ là nói với những cái khuôn. Ông thấy, suốt một thời, nhìn người
Mỹ tôi không thể cảm nhận được họ. Bây giờ tôi đã trở nên là một con người hem
là một người Việt Nam, và các cảm giác của tôi cũng trở nên nhân bản hơn.
Tôi cảm thấy thương xót cho người Việt Nam sống trên đất Mỹ
hiện nay. Tôi đã phải cố gắng nhiều để thay đổi, nhưng tôi biết rất nhỉều người
Việt hiện vẫn không muốn thay đổi. Họ muốn tự trừng phạt mình. Họ vẫn còn mặc
cảm phạm tội về việc lìa bỏ quê hương đất nước mà đi.
Quê hương đất nước vẫn còn đó và chỉ một chính quyền khác cai
trị mà thôi. Chúng tôi không mất nước. Việt Nam đâu có xoá tên trên bản đồ.
Người ta nên tự hỏi tại sao lại tự xóa đất nước mình trên bản đồ? Trong khi nó
nào có bị xoá bỏ đâu? Ấy chỉ là do cái nỗi hổ thẹn vì đã xa rời quê hương đất
nước đó thôi.
Người Việt chúng tôi đang cần phải tiến lên để bắt kịp bao
nhiêu điều trong những lãnh vực tinh thần, trí thức và văn hoá, nhưng người Việt
chúng tôi đã để cho các cảm xúc về Việt Nam dằng kéo trì trệ lại, chúng tôi
thường sai hướng. Chúng tôi đã đối đầu biết bao vấn đề và phiền lụy, chỉ vì
chúng tôi mải miết nhìn lui dĩ vãng. Cảm xúc đó, tôi tin nó không lành mạnh. Nếu
cứ để những cảm xúc ấy kiểm soát cuộc đời thì người ta sẽ chẳng bao giờ giải
quyết được gì. Tôi hy vọng sẽ không ai hiểu nhầm những gì tôi nói đây. Tôi rất
yêu người Việt. Nhưng rất nhiều người Việt đã không có can đảm để hưởng hạnh
phúc. Tôi biết rõ chuyện ấy. Suốt thời gian dài tôi đã tự hành hạ, tự trừng phạt
mình mỗi khi cảm thấy mình vui vẻ. Người ta cần phải lấy can đảm để xác định
rằng: Ta sẽ cứ vui vẻ. Bất kể ai đang kiểm soát đất nước tôi, tôi vẫn cứ yên
vui.
TRẦN THỊ MỸ
NGỌC
“Hãy để tôi
chết trong ánh mặt trời”
Ngày 25 tháng Chạp 1979, tôi phải rời Saigon xuống Cần Thơ. Do
đó, vào ngày 24, mẹ tôi mua đồ ăn Giáng Sinh, theo thông lệ hàng năm. Người Việt
Nam ưa mừng mọi sự. Và gia đình tôi theo đường lối Âu Tây nhiều hơn. Vì thế, vào
dịp Giáng Sinh, chúng tôi có cây Noel, dự tiệc tùng, trở về nhà ăn khuya. Chúng
tôi không đi dự tiệc sau 1975 nữa vì sống với Cộng Sản. Kỳ đó mẹ tôi làm bữa ăn
Giáng sinh sớm, vì tôi phải ra đi ngày 25. Bữa ăn đó có bánh ngọt, thịt nguội,
thịt gà đủ thứ. Những loại thức ăn thường có vào dịp lễ.
Tôi không được vui với mẹ tôi. Thật ra việc ra đi là một việc
làm tôi đau lòng vô cùng mà không biết cách nào diễn tả tâm trạng mình. Buổi ăn
Giáng Sinh to lớn này càng làm tôi buồn hơn. Vì tôi mà mẹ tôi tổ chức buổi này,
nhưng tôi không làm sao nuốt trôi một miếng, trong gia đình ai cũng thế. Ai cũng
biết một khi tôi đi thì sẽ không trở về, đây có thể là lần cuối cùng tôi thấy họ
và họ thấy tôi. Bữa ăn Giáng Sinh đó giống như bữa đưa ma hơn là một tiệc mừng.
Để chuẩn bị cho sự ra đi của tôi, mẹ tôi đưa tôi một tờ giấy
một trăm đô và một mớ nữ trang. Chúng tôi biết là ở trại tỵ nạn nữ trang có giá.
Trong gia đình tôi, mỗi đứa nhỏ đều có nữ trang riêng, tôi lấy đi theo ba chiếc
nhẫn, trong đó có một chiếc nhẫn vàng. Tờ một trăm đô thì để khi cần dùng lúc
đến Mỹ.
Mẹ tôi may tiền và nhẫn trong mép áo quần. Sau đó tôi cải
trang một chút. Cần Thơ là một tỉnh lỵ, không phải là thành phố. Người dân ở đó
khác người dân Saigon. Tôi phải giả dạng làm một người lao động, mặc bộ đồ đen,
đội nón lá.
Ngày hôm sau, tôi rán giữ nước mắt, nhưng người ta vẫn có thể
biểu lộ sự thương tâm mặc dù nước mắt không rơi. Mẹ tôi khóc. Bà núp sau cánh
cửa. Mẹ tôi ôm tôi, chị em tôi ôm tôi, họ phải hành động một cách bình thường vì
bọn nằm vùng dòm ngó. Sau đó, tôi bước chân ra cửa, đi không nhìn lại.
Tôi đi xe đò xuống Cần Thơ. Tôi được dặn là phải chờ tại bến
xe đò Cần Thơ để có người đến dắt tôi đi. Đêm đến mà vẫn không thấy ai.
Tôi phải ngủ trên giấy báo trải dưới đất tại bến xe. Đêm sao
mà dài quá. Cuối cùng, với những người cùng xuống Cần Thơ để ra tàu, người ta
dắt chúng tôi đến căn nhà của một người đàn ông có tàu. Họ cho chúng tôi ăn ở đó
chờ đến tối.
Đêm đó, chúng tôi đến bến tàu, nơi có những chiếc ghe nhỏ.
Chúng tôi lên ghe nhỏ. Đây là lần đầu tiên trong đời tôi đi ghe. Tôi sợ rơi
xuống nước. Ở mỗi chiếc ghe nhỏ có mười người. Những chiếc ghe này đưa chúng tôi
ra một chiếc ghe lớn hơn trên đó có khoảng hai mươi người. Chúng tôi ngồi chật
ních như mắm. Và chúng tôi chờ trong đêm tối. Không biết ông có bao giờ ông ở
trên sông ban đêm không? Đây là lần đầu tiên của tôi. Mặt trăng chiếu sáng.
Chúng tôi giữ im lặng tối đa. Một em bé trong ghe khóc, tiếng khóc vọng ra cả
vùng sông. Ai nấy kinh sợ vô cùng vì họ ngại tiếng khóc sẽ mang bọn Cộng sản
tuần canh đến. Bọn này chuyên đi tìm người như chúng tôi, những kẻ muốn bỏ trốn.
Do đó, trên ghe có tiếng xì xào: “Làm ơn làm cái gì đó. Cho nó
cái gì đi”. Đứa bé thật may mắn là không bị giết chết lúc đó. Cuối cùng, họ cho
đứa trẻ uống thuốc ho để say ngủ.
Chiếc ghe này lại đưa chúng tôi đến một chiếc ghe to hơn. Trên
chiếc ghe này có khoảng tổng cộng năm mươi người giống như ép cá mòi. Họ chất
dừa trái và dưa hấu ở hai đầu cho giống như dân buôn. Chúng tôi kẹt vào chính
giữa. Không có nước uống. Chúng tôi chờ cả ngày. Ngày thì nóng. Chúng tôi không
có gì ăn và cũng không có cách gì đi vệ sinh.
Cuối cùng, vào đêm 29 thuyền đã sẵn sàng, chúng tôi xuôi dòng.
Tôi nói ông nghe nha, thật kinh khủng khi ngồi trong chiếc thuyền đó. Nó vừa
nóng, vừa chật chội, tôi lại vừa đói bụng, rất là khó chịu.
Chúng tôi chuyển thuyền, lại sang một chiếc khác. Sự tình càng
khó khăn. Con sông chia ra nhiều nhánh. Đêm đó, chúng tôi thật im tiếng vì đã
sẵn sàng ra đi. Lúc đó, có một chiếc tuần canh cập đến hỏi “Ai trong thuyền?”
Hai người đàn ông giả như ngư dân nói: “Không có ai cả! Chỉ có chúng tôi chờ
trời sáng”. Bọn tuần canh lại hỏi: “Có chắc không? Chỉ có hai người thôi sao?”
Họ chiếu đèn nhìn. Sau cùng họ bỏ đi. Chiếc thuyền bắt đầu di chuyển dần ra cửa
sông cái, hướng về biển.
Lúc đó tim tôi đập nhanh quá. Cuối cùng chúng tôi đến gần cửa
sông, qua một chiếc thuyền lớn. Chúng tôi lên thuyền đó mà đi. Người tài công
của chiếc thuyền này không biết gì về lái tàu cả. Cả thuyền chỉ có một người hải
quân khi xưa từng đi biển. Anh là người duy nhất biết sử dụng hải bàn, người duy
nhất biết về biển, thiệt tình! Những người tài công kia thật ra không biết gì.
Chúng tôi không hay cho đến khi chúng tôi mắc nạn kinh khủng sau này. Nếu mẹ tôi
biết trước như thế thì không bao giờ bà để cho tôi đi cả.
Tiếng máy thuyền nổ lớn quá, trong một đêm sao mà tĩnh mịch
quá. Tiếng máy lớn có thể kêu gọi sự chú ý của bọn tuần cảnh. Cuối cùng, chiếc
thuyền cũng hướng ra ngoài khơi được an toàn.
Tôi ở dưới khoang thuyền . Có nhiều người trên mui. Tôi bị say
sóng quá sức. Những người trên mui nhìn lại phía sau bỗng thấy xuất hiện một
chiếc tàu tuần cảnh tiến về phía chúng tôi. Trên thuyền, chúng tôi bàn nhau:
“Trời ơi, tụi Công an biên phòng rượt theo kìa. Chắc phải ngừng lại không tụi nó
bắn”. Do đó, chúng tôi ngừng lại. Họ qua thuyền chúng tôi nói: “Mấy người vượt
biên phải không?” Không còn cách gì chối cãi, chúng tôi đành trả lời: “Phải
rồi”. Một tên trong bọn Công an lại nói: “Sao, mấy người có cái gì đem theo?”
Tôi hỏi họ: “Mấy ông có muốn lấy tiền không?” Họ nói: “Hên cho mấy người là chỉ
có hai chúng tôi trên chiếc tàu này đó”. Chúng tôi gom góp vàng, đưa họ một mớ
tiền. Trên thuyền có một cái máy thu thanh họ cũng lấy luôn. Sau đó, họ để chúng
tôi đi. Tôi nghĩ đây là lời chào từ biệt Việt Nam của tôi, hối lộ các viên chức
Cộng sản một lần cuối cùng.
Bây giờ đã ra đến ngoài khơi, thì nhóm tài công dởm của chúng
tôi lại không biết đường hướng gì. Họ không biết hải phận quốc tế bắt đầu ở đâu.
Mã Lai hướng nào. Biển cao, sóng động, tôi lại càng say sóng.
Lúc đó lại thấy một chiếc tàu thật to, mấy người tài công nói:
“Hải phận quốc tế rồi, bây giờ mình đã an toàn. Có chiếc tàu này đây. Kêu cứu
đi”. Họ thảy trái sáng. Lúc ấy tôi đã chuyển sang ngồi đàng mũi thuyền vì mấy
chỗ kia làm tôi khó chịu quá. Họ thảy trái sáng để kêu chiếc tàu kia chú ý
chuyển hướng lại gần hơn. Cuối cùng hiện hình ra là một chiếc tàu Việt Nam đi về
hướng Việt Nam. Tôi thiệt hết tin nổi việc này. Ai nấy đều muốn chết. Đây là một
chiếc tàu to vô cùng, với người gác từ đầu tới đuôi, lại có mang súng. Chúng tôi
thiệt giận mấy người tài công vì họ đã thảy trái sáng để thu hút sự chú ý của
tàu này.
Đây là tàu đánh cá quốc doanh của chính phủ Việt Nam. Họ vừa
xong một cuộc hải hành đánh cá, đang trên đường về Việt Nam. Qua chiếc loa phóng
thanh, họ biểu chúng tôi tắt máy tàu chờ đó. Họ tới gần hơn, nói: “Rồi, mấy
người đi trốn phải không?” Chúng tôi lại nói: “Phải”, chớ còn nói được gì nữa.
Tôi nói: “Xin làm ơn cho chúng tôi đi, vì chỉ có năm chục người thôi. Chúng tôi
có cả con nít nữa”. Họ nói: “Đưa tiền và vàng thì cho mấy người đi”. Chúng tôi
nói với họ: “Nhưng mà vừa rồi, tụi tôi mới bị cướp xong”.
Thế rồi, một người kia thiệt lạ lùng vì ông ta có mang theo
một mớ tiền Việt Nam. Không hiểu để làm chi? Chúng tôi bèn đưa hết số tiền Việt
Nam của người này cho họ. Tiếp theo là vẫn còn vàng trên thuyền nên chúng tôi
lại hùn nhau đưa cho họ. Họ không tin chỉ có thế cho nên họ đưa một đứa con trai
nhỏ khoảng mười tuổi qua thuyền chúng tôi kiểm soát coi ai còn giấu vàng không.
Tôi mệt và say sóng nên cứ nằm đó. Nhẫn của tôi đã đi hết rồi
nên tôi đưa chiếc lắc ra nói: “Nè, đưa cho họ để cho mình đi”. Còn tờ một trăm
đô, tôi đưa cho anh ngồi bên cạnh giấu đi.
Tôi lại còn phải đóng kịch. Tôi nghĩ một ngày nào đây tôi sẽ
trở thành lão luyện trong việc này, chỉ vì đã phải sống trong một nước Cộng sản.
Đứa nhỏ đi sờ mó từng người để tìm vàng. Nó tiến đến gần tôi, nếu nó tìm, nó sẽ
thấy sợi dây chuyền vàng mà tôi giấu. Vì thế, tôi giả bộ bịnh. Thiệt tình thì
tôi cũng mệt nhưng không đến nỗi như thế nhưng tôi giả bộ thiệt là bịnh rất
nặng. Mấy người trên thuyền nói giùm cho tôi là: “Thôi, để cho cổ nằm yên đi, cổ
mệt, bịnh quá rồi”. Đứa bé trai đi đến gần tôi -cho đến lúc này thì tôi đã không
ăn uống gì, chỉ vài giọt chanh cho đỡ khát, do đó, nhìn tôi cũng eo xèo lắm. Nó
ngó tôi. Nó để tôi yên, không đụng đến. Nếu nó lục soát, nó sẽ tìm thấy sợi dây
chuyền vàng này chắc mẽm.
Cuối cùng, họ cảm thấy thoả mãn. Họ nói: “Mấy người chỉ gặp có
một chiếc tàu của tụi tôi. Vậy là hên lắm đó. Nếu mấy người đi về hướng Nam chút
nữa là sẽ đụng mười sáu chiếc tàu trên đường về, mấy người không có đủ tiền hối
lộ đâu, họ sẽ giải tất cả về. Chúng tôi chỉ một chiếc thôi nên chúng tôi để cho
mấy người đi đó”. Và nhóm tài công dởm của chiếc thuyền chúng tôi thiệt là hết
nói nổi, họ lại hỏi: “Mấy ông làm ơn chỉ giùm hướng đi Mã Lai?” Những người kia
nói: “Mấy anh không biết đi hướng nào để tới Mã Lai?” Tụi tôi nói: “Dạ không”.
Thấy vậy họ chỉ hướng đi bằng cách chỉnh hải bàn và họ cho chúng tôi hai con cá
lớn để ăn.
Khi họ tách ra đi, họ kêu chào: “Goodbye” và nói: “Đừng có rầu
là bị cướp hai lần. Vậy là hên lắm, chỉ có hai lần thôi đó”.
Bấy giờ, tôi chỉ có một ý nghĩ trong đầu là: Vì sao mà tôi lại
kẹt trong tình trạng này? Như chưa đủ là tôi sợ muốn chết. Thêm nữa tôi đã phải
trả vàng cho chuyến đi. Và bây giờ lòi ra việc nhóm tài công không biết gì cả.
Bây giờ thì thiệt rõ ràng là những người lái thuyền không biết con khỉ gì cả về
việc làm sao đi đến nơi.
Thiệt tình, đằng nào thì chiếc tàu kia đã chỉnh hải bàn cho
cho chúng tôi, nên chúng tôi cũng theo hướng đó. Tôi nghĩ là bọn kia cũng được.
Chỉ có một điều là họ cướp của chúng tôi, ngoài ra cũng không đến nỗi nào.
Chúng tôi hướng thuyền về lối họ chỉ. Khi ra đến biển sâu thì
tôi không còn bị say sóng nữa. Tôi quen đi. Thêm nữa, tôi đã không ăn gì cả.
Hiện giờ còn một giỏ xách nhỏ trong đó có một quần Jean, một áo thun, và vài bộ
đồ lót. Tôi đã lạc mất cái nón lá và cả đôi giày. Đi chân không, tôi cũng không
màng. Tôi chỉ muốn thoát khỏi Việt Nam lúc đó thôi. Cuối cùng cũng ra đến hải
phận quốc tế. Như vậy nghiã là không còn phải sợ tàu bè Việt Nam nữa rồi. Chúng
tôi tiến trên đường đi, đi về đâu ai biết, và đêm mùng 1 tháng Giêng tây, chúng
tôi vào hải phận Mã Lai.
Có nhiều con cá mập chờn vờn xung quanh thuyền. Tôi lại nghĩ
miên man: Với nhóm tài công này, mình chắc là chết thiệt. Tôi cảm thấy buồn rầu
cho mẹ tôi đã phải tốn hao tiền bạc cho tôi nếu tôi chết. Tôi cũng không màng sự
chết vì đã chọn con đường ra đi, nhưng nếu tôi chết ở biển, mẹ tôi sẽ không bao
giờ biết. Ý nghĩ này cứ luẩn quẩn mãi trong đầu tôi.
Chúng tôi không thấy đất liền đã lâu rồi. Đã hết nước, hết
thực phẩm. Tôi nhấp nước từ quả chanh ra. Tôi cũng không được ăn lâu rồi. Có
nhiều chiếc tàu đi ngang chúng tôi, nhưng họ không đến cứu dầu cho chúng tôi đã
hết sức cố gắng kêu họ. Chiều đó, khoảng sáu giờ, chúng tôi kêu được sự chú ý
của một chiếc tàu. Nó hướng về chúng tôi, ông thử đoán xem là kỳ này ngoắc được
tàu gì? Cướp Thái Lan! Ông có thể tưởng tượng nổi không? Nhóm tài công dởm lại
thành công lần này trong việc kêu cứu dởm.
Lúc ấy tôi không còn say sóng nữa và đang ở trên boong thuyền
thở gió biển. Nhìn chiếc tàu tiến về phía chúng tôi, thấy họ đeo dao và súng,
tôi nghĩ ngay đây là bọn cướp biển.
Chúng ra lệnh chúng tôi phải cập sát thuyền vào tàu chúng,
chúng thảy dây thừng qua thuyền chúng tôi để quân bằng nó. Chúng bắt chúng tôi
nhảy từ thuyền qua tàu. Đêm đó, biển lại động. Sóng thật cao, hai chiếc tàu và
thuyền đánh vào nhau và bị đưa ra. Ba người bên chúng nhảy qua thuyền lùa chúng
tôi nhảy qua tàu họ. Một trong ba tên còn trẻ khoảng mười bảy tuổi nhìn tôi
cười. Hắn kéo tôi lại. Tôi quá sợ hãi.
Thật ra chúng tôi chưa nghĩ là sẽ bị cướp. Chúng không có hành
động gì khả nghi. Chúng tôi nghĩ chắc là chúng sẽ cứu mình. Chúng tôi bèn nhảy
qua tàu. Không hiểu vì sao tôi cứ luôn tâm cầu nguyện, do đó tôi thật tình không
hiểu là tên này nhìn tôi cười và đang rán trì tôi lại. Tôi quá lo. Lúc đó tôi
mười chín tuổi, tôi rất là ngây thơ.
Lúc đó ai cũng nhảy qua tàu nên tôi cũng nhảy. Tôi nhảy trúng
một vật gì, ngón chân cái bật máu. Tôi không cảm thấy đau, chỉ thấy vết cắt sâu.
Cái giỏ nhỏ đựng quần áo, tôi đã thảy qua tàu họ trước. Một cô gái nhảy qua tàu
bị hụt, rơi xuống biển. Hai chiếc tàu và thuyên lại bị sóng tạt gần nhau. Nếu
không kéo cô lên kịp thì chắc sẽ bị nghiền nát. Chúng tôi kéo được cô ấy lên,
còn tôi không hiểu sao lúc đó có thể nhảy xa đến thế. Không có cách gì tính toán
được. Chỉ hên xui may rủi thôi. Tôi thấy cô ấy hụt, rơi xuống nước, tôi la lên
“Trời ơi”. Bấy giờ đêm đã xuống, chỉ có ánh sáng duy nhất toả ra từ chiếc tàu
lớn. Nhưng chúng tôi kéo cô ta lên kịp, cô ấy ướt như chuột lột.
Không phải ai trong chúng tôi cũng may mắn như thế. Một người
đàn ông trong nhóm lại nhảy thì hai chiếc tàu và thuyền tách ra, anh rớt xuống
biển. Hai chiếc thuyền và tàu ập vào nhau mau quá, chúng tôi không làm sao vớt
anh ấy lên được, anh ấy bị ép mà chết. Chúng tôi buồn bực quá.
Bọn Thái bắt chúng tôi xếp hàng, ngồi xuống vùng mũi tàu. Sau
đó bắt đầu cướp bóc. Chúng đi chung quanh rờ mó áo quần, tìm kiếm tiền và vàng.
Ba tên trong bọn chúng còn ở trên thuyền chúng tôi. Một cô gái nhỏ còn kẹt ở
trên thuyền vì quá mệt. Cô ấy nằm trong khoang thuyền, chúng đã hãm hiếp cô bé
ấy. Cả ba tên. Chiếc thuyền bị sóng đưa đẩy khi gần khi xa, chúng tôi vẫn nghe
tiếng sóng vỗ, tiếng thuyền rên rỉ, tiếng cô bé khóc, kêu gọi cầu cứu. Chúng tôi
không thể làm gì được. Chúng tôi khóc cho cô bé đó và cho cả bản thân mình.
Trên tàu cũng có đàn bà con gái, chúng vẫn có thể hãm hiếp tôi
bất cứ lúc nào. Thật kinh khủng. Đây là lần đầu tiên trong đời tôi chứng kiến
những hành động như vậy. Tôi ngồi gần vài người trai trẻ. Họ bàn tán việc phản
công. Tôi nói: “Tính vậy không xong. Mình không có súng ống gì cả. Mình sẽ bị
giết sạch nếu chống cự lại. Tụi nó có ba người dưới thuyền, năm đứa ở đây nhưng
lại không biết còn bao nhiêu đứa dưới khoang tàu. Đừng hành động gì”.
Chúng tôi đưa tất cả cho chúng những gì chúng tôi có. Bọn này
là ngư phủ biến thành cướp biển nên chúng cho chúng tôi ăn. Ở trên tàu, chúng
cho chúng tôi cơm, cá khô và cả dầu nóng trong khi ba tên đi cưỡng dâm cô gái
trên thuyền. Bọn dã man, hành động man ri mọi rợ. Bọn chúng để mình trần, hôi
hám, dơ dáy và rất nhẫn tâm.
Tôi tự nghĩ: “Thế là hết. Không hiểu việc gì sẽ xảy ra, nhưng
nếu nó mà đụng mình, mình sẽ tự vận cho xong”. Tôi thật sợ nhưng lại bình tĩnh.
Nếu bọn chúng tính việc hãm hiếp tôi, tôi sẽ nhảy xuống biển tự tử. Tôi đã quyết
định thế.
Bất thình lình nhìn xuống, thấy bên chân phải chảy máu. Tôi
không cảm thấy đau. Bình thường thì tôi biết đau. Nhưng khi đó tôi đang trong
tình trạng kinh sợ, lo sự sống còn nên không cảm giác được cái đau nữa. Tôi ngó
xuống, ngón chân cái đang chảy máu. Có một cái bóp nhỏ tôi vẫn giữ bên mình. Mẹ
tôi có để vài viên thuốc trụ sinh cho tôi đem theo phòng xa lúc đến trại tỵ nạn.
Tôi đã giữ cái bóp nhỏ này và tôi nghĩ những viên thuốc trụ sinh đó đã giúp cho
tôi sống còn.
Sau khi đã xong việc cướp bóc chúng tôi và hãm hiếp cô gái ấy,
bọn chúng lùa chúng tôi về thuyền trở lại. Chúng lại bắt chúng tôi nhảy tàu nữa.
Chúng phá thuyền, đục lỗ, đập đồ, lấy hải bàn, bản đồ, đèn pin, hầu như tất cả.
Chúng tôi thì vẫn cảm thấy mừng được trở về thuyền vì có nghĩa là sẽ không bị họ
giết ngay lúc đó.
Khi chúng tôi về thuyền thì nước trào vào, thuyền muốn chìm.
Đêm tối, trời mưa, biển động. Chúng nó để chúng tôi tự chết đi.
Trên thuyền có nhiều cây tre dài và to. Chúng tôi tìm kiếm
người rơi xuống biển lúc đầu. Có lẽ khoảng cả một tiếng đồng hồ, nhưng đối với
tôi thì dài như thiên thu. Chúng tôi gọi tên anh ấy và bỏ những cây tre này
xuống biển để không chừng anh ấy cần dùng. Trong đáy lòng, chúng tôi đều biết
anh đã chết, nhưng chúng tôi vẫn cố gọi tên anh ấy và thả những cây tre này vì
nó nổi để lỡ khi anh ấy có trồi lên được thì có phao mà nương tựa.
Thuyền thì cứ tiếp tục vô nước cho nên chúng tôi chia làm hai
bên để đứng cho cân bằng thuyền lại. Nghĩ cũng lạ vì lúc đó ai nấy đều kinh hãi
mà vẫn có sự sáng suốt để làm như vậy. Đúng là bản năng sinh tồn của con người
thật tuyệt diệu. Thuyền nghiêng một bên và nước vô, thì một người nói: “Quân
bình lại”, tức thì chúng tôi chia nhau chạy ra hai bên vách thuyên cho đều. Đàn
ông thì tát nước. Hên cho chúng tôi, bọn cướp không lấy đồ trám lỗ hổng nên nhóm
tài công ít nhất cũng có được một lần làm việc giỏi khi tìm ra những vật liệu
này.
Sau khi xong việc tạt nước, lại không có đèn. Một người dùng
diêm quẹt soi tìm xem mấy cái lỗ hổng bọn cướp đục ở đâu. Chúng tôi làm thiệt
lẹ, phối hợp rất mau mắn. Không tưởng tượng nổi. Cho tới ngày hôm nay, tôi vẫn
không thể tin nổi những việc chúng tôi làm đêm hôm đó.
Chúng tôi vẫn còn sống nhưng vẫn chưa thấy đất liền. Chúng tôi
cũng không biết mình ở đâu? Hải phận Thái Lan hay Mã Lai? Chúng tôi bảo nhau đến
khi trời sáng mà không gặp đất liền thì có lẽ sẽ phải chết vì không nước uống
hay thực phẩm. Phần chiếc thuyền đã bắt đầu bục nát lắm. Nó không có chống chỏi
được lâu hơn. Chắc sẽ tan rã, tất cả cũng sẽ chết. Trời thì mưa, chúng tôi lạc
giữa biển mà lại không có người lèo lái. Người hải quân duy nhất biết đường đi
thì đã chết rồi – anh chính là người rớt xuống biển mà chết. Nhóm tài công nói:
“Tụi tui cũng không biết đi đâu bây giờ. Làm sao đi?” Trời ơi, tôi nghĩ là tôi
đã chết tiếp mười lần hơn nữa rồi.
Cuối cùng, ai nấy đều mệt mỏi và đều nói thôi mặc, thuyền cứ
trôi, chúng tôi đành chờ chết. Máy thuyền thì đã hư luôn vì nước vô. Hên là biển
không có bão, chỉ mưa lớn.
Chúng tôi cứ để thuyền trôi đi theo các hướng chung chung mà
mấy người hải quân đã chỉ. Còn tài công bây giờ chỉ đoán chừng. Thuyền chúng tôi
cứ trôi trong đêm, suốt đêm, cái đêm đó dài vô tận trong đời tôi. Tôi không ngủ.
Ông có bao giờ cảm thấy đêm sao mà thật là dài, mình thì quá
sợ hãi và quá cô thân, cho đến nỗi cái ước ao duy nhất là chỉ muốn thấy chút ánh
sáng hay không? Ánh sáng gì cũng được? Bóng tối bao trùm thật nghẹt thở. Đêm đó
tôi thật nóng lòng muốn được nhìn thấy một tia sáng. Tôi nói: “Xin để cho tôi
được chết trong ánh sáng mặt trời cũng được!”
Và cuối cùng, buổi sáng cũng đến.
Được nhìn thấy mặt trời mọc quả là một cảm giác ấm cúng vô
cùng.
Sau hết, chúng tôi nhìn thấy một cái gì xám xám nơi phía xa –
đất. Chỉ là một vùng núi non, nhưng chúng tôi đã ở biển năm ngày rồi. Một hòn
đảo? Thì có sao? Nhóm tài công cuối cùng đã sửa cho máy nổ được. Máy chạy như đã
chết một nửa, nhưng vẫn chạy được.
Có hai tàu Hải quân Mã Lai nơi đó, họ đang nhìn chúng tôi.
Chúng tôi cảm thấy dễ thở vì chúng tôi sẽ được cứu. Đúng lúc quá vì chúng tôi đã
hết đồ ăn nước uống. Ai cũng cười. Tôi nói: “Nằm xuống. Mình phải làm ra vẻ bệnh
hoạn khốn khổ để họ giúp. Mình không thể có vẻ vui tươi được. Vậy ai mà chịu
giúp mình”.
Hải quân Mã Lai thấy chúng tôi. Họ bảo là dừng xa tàu của họ,
họ sẽ cho người qua. Họ nói là đừng đến gần. Một người của họ qua xem xét chúng
tôi. Tôi là người chịu đứng ra nói chuyện. Tôi biết tiếng Anh, tiếp theo đó là
một anh cũng biết chút Anh văn. Tôi kể cho họ nghe mọi việc đã xảy ra cho chiếc
thuyền của chúng tôi, bị cướp bóc, bây giờ thì hết nước uống, trên thuyền có trẻ
nhỏ mà không có thức ăn, thêm nữa máy tàu không chạy được. Chúng tôi yêu cầu họ
giúp đỡ. Người đó về tàu nói chuyện với ông chỉ huy. Tôi được mời qua tàu họ và
đi cùng với anh biết chút tiếng Anh kia. Tôi đến gặp ông Thuyền trưởng, giải
thích cho ông ấy rõ ràng những gì đã xảy ra. Ông này từng đến Saigon. Ông ấy hỏi
tôi về những chốn như khách sạn Caravelle, vài chỗ có tiếng tăm. Tôi nói với ông
ấy rằng tôi biết vì tôi là người ở Saigon. Họ đang kiểm tra tôi, tôi nghĩ vậy.
Khi tôi ở trên tàu thì Hải quân bắt đầu cho mấy người trên
thuyền ăn. Tôi đi chân đất và đã không tắm từ hôm 27, tôi cũng không có dịp để
chải tóc. Tôi dòm thiệt bê bối. Tôi cũng có sự tự ái, bởi vì là con gái, do đó
sau khi nói chuyện với ông thuyền trưởng xong, tôi xin đến nhà tắm.
Tôi nhìn thấy tôi trong gương, trông mình giống như người ngủ
đường. Tôi nói: “Trời ơi! Tôi đây sao?” Hình dáng tôi quả đã biến thành một
người đầu đường xó chợ.
Ông thuyền trưởng muốn chúng tôi tiến về hướng Singapore bởi
vì Mã Lai đã tuyên bố không nhận thêm người tỵ nạn, như vậy có nghiã là họ sẽ
cho thuyền ra khơi, thả chúng tôi trôi nổi, chúng tôi có thể sẽ chết. Họ không
thể đem chúng tôi đến trại tỵ nạn. Ông ấy cố gắng giải thích cho tôi nỗi khó
khăn của ông vì ông ấy có lệnh phải thi hành. Tôi tiếp tục van cầu ông ấy.
Tôi nhớ rõ những gì tôi đã nói với ông ấy: “Đây là một chiếc
thuyền nhỏ. Chúng tôi có tất cả năm mươi người. Một người đã chết, chúng tôi có
trẻ nhỏ. Máy tàu đã hư. Chúng tôi không thể đi đến Singapore được. Đi được thì
tôi cũng đi. Nhưng mà chúng tôi không thể làm được. Xin hãy giúp chúng tôi.”
Ông ấy nói để ông ấy suy nghĩ lại. Trong lúc này thì, trước
khi tôi về thuyền trở lại, vì đây là ngày Tết Tây 1/1, ông ấy cho tôi một phong
bánh ngọt, nói phần này là của tôi mà thôi. Rồi ông ấy cho tôi thêm trái cây,
các món ăn vặt khác, chỉ cho mình tôi. Mọi người trên thuyền đã được uống đầy
đủ, và tôi cũng được ăn khi về thuyền. Những món ông ấy cho là của riêng tôi.
Như là một giấc mơ, thật bất ngờ.
Giờ đây là buổi trưa, họ để chúng tôi nghỉ ngơi một chút.
Chiều đến, họ đưa dây thừng qua thuyền chúng tôi, kéo chúng tôi ra biển trở lại,
bởi vì họ không thể nhận chúng tôi. Ông thuyền trưởng đã quyết như thế và tôi
thì không biết nói sao hơn nữa.
Họ kéo chúng tôi đến một hoang đảo. Họ ngừng tàu lại. Đêm đã
xuống, biển lại động, chúng tôi ở hoàn cảnh giống như con voi và con chuột, con
voi kéo con chuột. Tàu họ thật to, thuyền chúng tôi thì quá mỏng manh. Họ và
chúng tôi dừng lại hòn đảo hoang. Họ nói đàn bà con nít được lên trên tàu, còn
đàn ông con trai ở lại thuyền. Ông thuyền trưởng xuất hiện, chúng tôi lại nói
chuyện chút ít nữa. Họ lại cho đồ ăn, và chúng tôi ngủ trên boong tàu.
Đêm đó chúng tôi lo lắng không hiểu việc gì sẽ xảy ra. Ông
thuyền trưởng thì tốt, nhưng thủy thủ đoàn thì sao? Một người trong thủy thủ
đoàn đã say, đòi một người đàn bà đi ngủ với y. Hắn làm ồn lên, cuối cùng những
thủy thủ khác đến kéo y đi.
Buổi sáng, ông thuyền trưởng lại ra, nói rằng ông ấy đã nói
chuyện với tổng hành dinh, chúng tôi sẽ được họ đưa đến một trại tỵ nạn.
Bây giờ thì đàn ông đàn bà gì cũng đều lên tàu, họ kéo chiếc
thuyền đến trại Pulau Bidong.
Tôi nói ông nghe, tôi thật mừng rỡ vì đã ở ngoài biển một thời
gian khá lâu. Khi chúng tôi đến được đảo với ngôi trại tỵ nạn thì lúc ấy khoảng
mười hai giờ trưa, bãi cát mênh mông đầy những người. Đông quá sức cho đến nỗi
tôi không tin ở mắt mình. Tôi không hiểu đây sẽ là điều tốt hay không tốt. Tôi
chưa từng biết trại tỵ nạn ra sao. Nhưng hiện giờ chúng tôi đã bằng an.
Tôi là người nói chuyện tía lia trên tàu, nói nhiều quá, và họ
nói với tôi rằng: “Cô sẽ được rời trại tỵ nạn sớm lắm đó vì cô biết tiếng Anh”.
Tôi nhớ điều họ nói. Lúc đó thì tôi đâu cần biết là biết tiếng Anh có lợi. Tại
sao biết tiếng Anh thì sẽ giúp cho tôi?
Trước khi họ từ biệt chúng tôi, chúng tôi hát cho họ nghe.
Chúng tôi đứng trên boong tàu ca một bản nhạc Việt Nam cho họ nghe. Đây là cách
báo đáp duy nhất lúc này. Chúng tôi chỉ còn có cách này thôi, một bài ca. Đây là
bài ca quen thuộc cho tất cả những người Việt Nam nên ai trong chúng tôi cũng
biết. Đó là bài ca của một nước Việt Nam tự do. Một bài ca hào hùng.
Rồi họ chào từ biệt, chúng tôi cũng chào họ và cảm ơn họ giúp
đỡ.
Họ cho chúng tôi xuống thuyền nhỏ bởi tàu không thể vào sâu
được với san hô đầy rẫy trong đó. Lúc ấy thì tôi dính da chỉ còn có một cái quần
đen và một áo sơ mi. Áo quần không còn gì hơn. Túi xách kia đã mất theo bọn cướp
biển.
Những người tỵ nạn đến trước có thói quen xuống bãi mỗi khi có
người đến để tìm kiếm người thân. Tôi lội nước vào bờ, đụng phải san hô rất bén.
Chúng tôi cũng không có giày dép gì cả. Chiếc thuyền chúng tôi được kéo đến gần
bờ, đưa lên bãi để đập nát bởi vì họ không muốn chúng tôi có thuyền để đi trong
biển Mã Lai. Họ muốn cô lập chúng tôi nơi hòn đảo này.
Tôi lội nước vào bờ. Một biển người chờ đợi. Nom thật là khổ
sở. Tôi đứng trên bãi không biết việc gì và đang tìm hiểu việc gì xảy ra nơi
đây. Trong biển người này có một em trai kế tôi đã ra đi từ trước. Nó cũng xuống
bãi để xem coi có ai quen biết. Nó đứng đó, mặc độc một cái quần xà lỏn. Và tôi
cũng không hơn gì.
Nơi hải đảo này có khoảng 46,000 người tỵ nạn. Rất ít nước và
đồ ăn. Đời sống rất khó khăn, tôi thì bận rộn đi làm suốt ngày. Tôi không có
quần áo khác để thay đổi. Người ta sống như súc vật không có vệ sinh, không có
nhà cầu. Phải đào hố để làm cầu. Những chỗ đi cầu kinh tởm hết nói nổi.
Người Mã Lai thì tìm cách ngăn người tỵ nạn cập bến. Họ kéo
thuyền tỵ nạn ra khơi. Thuyền tỵ nạn chìm, người ta chết đuối. Buổi sáng đến
chúng tôi xuống bãi cát thì thấy thây người, đàn ông, đàn bà, con nít. Toàn là
người Việt Nam. Chúng tôi chôn cất họ. Họ là những người bất hạnh.
Tôi vì thiếu dinh dưỡng nên bị bệnh thũng. Mặt tôi bủng ra.
Tôi ở trại này 3 tháng rưỡi. Chính nơi đây tôi hiểu về con người và hành động
con người trong cảnh tuyệt cùng. Họ có thể giết người vì thức ăn hay chút tiền.
Bạn bè trở thành kẻ thù trong phút chốc. Tôi ưa khóc và không ngủ được. Tôi ngủ
hai hoặc ba tiếng mỗi đêm. Tôi thường ngồi nhìn trời vào lúc ban khuya. Tôi thấy
tội nghiệp cho tôi, cho tất cả, cho mọi người.
Tất cả sức lực tôi dồn vào việc cố sống và cố thoát khỏi nơi
này. Tôi không cần biết là sẽ đi đến đâu, tôi chỉ muốn đi khỏi khu trại tỵ nạn
này. Tôi cần phải sống.
Đài truyền hình CBS có đến đảo quay cảnh ở đây. Tôi nghĩ Ed
Bradley có đến đảo. Và ông có biết việc gì xảy ra sau khi cảnh sống được quay
phim? Tôi nghĩ là chính phủ Mã Lai đã bị chỉ trích về những việc diễn ra trên
đảo. Nhờ nhóm truyền hình này, phần ăn chúng tôi khá hơn. Họ cho thế giới biết
trại tỵ nạn như thế nào, việc gì xảy ra cho người tỵ nạn. Chúng tôi có đủ đồ ăn
sau việc này. Đồ ăn đến trong từng bịch: gạo, trà, đồ ăn của Liên Hiệp Quốc. Cầu
Trời phù hộ cho Liên Hiệp Quốc. Mỗi người có một bao khẩu phần mỗi ba ngày. Đồ
ăn đến nhanh hơn sức chúng tôi có thể tiêu thụ bởi vì chúng tôi đã quen đói khát
lâu rồi.
Em trai tôi và tôi có người bảo trợ, được chấp thuận cho đi
Mỹ. Chúng tôi được ấn định ra đi ngày 19 tháng Tư. Rốt cuộc thì tôi cũng lên
đường ra đi. Tôi không biết mình sẽ đi đâu. Chỉ biết sẽ qua đến Mỹ, nhưng không
biết nơi nào ở Mỹ. Khi tôi ở trại chuyển tiếp, tôi được báo cho biết là tôi sẽ
đến Iowa. Tôi không biết Iowa ở đâu. Họ lấy bản đồ ra, chỉ cho tôi một chỗ và
nói: “Đây là Iowa, miền Trung Tây”. Tôi thực sự không lãnh hội được, nhưng tôi
nói: “Được, Iowa cũng tốt lắm”.
Tôi được bảo trợ bởi một nhà thờ. Tôi đến Des Moines với
khoảng ba trăm người Việt khác. Thống Đốc tiểu bang đến đón mừng chúng tôi. Sau
đó họ sắp xếp theo thứ tự, đưa chúng tôi đến những chỗ mà chúng tôi sẽ về. Họ
chở chúng tôi đến nhà mới của chúng tôi. Họ chở chúng tôi đi xuyên qua Iowa. Tôi
nhớ đi vào một tỉnh nhỏ ngày Chủ Nhật, buổi chiều, không có một bóng người trên
đường phố. Thật là đẹp. Nhưng lạnh và xám xịt. Tôi tự hỏi là chúng tôi đi đâu và
tại sao ở Iowa không có một bóng người.
Họ đưa tôi vào căn chung cư đêm đó. Tôi không ngủ được. Tôi bị
nhiều cơn ác mộng. Mỗi khi có tiếng động bên ngoài là tôi kinh sợ.
Tiếng động làm tôi sợ. Tôi nhớ đến tiếng máy tàu của bọn hải
tặc Thái ở biển, lập tức tôi thức giấc, toàn thân bất động, sợ hãi toát mồ hôi.
Việc này diễn ra gần ba tháng mới dứt.
Bây giờ đến lúc kết cuộc vui vẻ đây. Cô gái bị hãm hiếp đã
định cư ở Canada. Cô ấy đã lập gia đình và có hạnh phúc. Cô ấy là một người rất
dễ thương. Tôi rất vui là mọi sự trở nên tốt đẹp.
Em trai tôi tốt nghiệp Đại học, hiện làm kỹ sư. Tôi cũng đã ra
Đại học, có bằng Cao học về công tác xã hội ở California. Tôi trở về làm việc
tại trại Palau Bidong với người tỵ nạn sau khi ra trường.
Nhìn lại mọi việc như một giấc mơ. Bởi vậy, tôi phải trở về
làm việc tại trại tỵ nạn. Đây không những chỉ là giúp đỡ người tỵ nạn mà còn là
mang cho họ một niềm hy vọng tương lai khi đi định cư ở một xứ sở tự do.Ngoài
ra, tôi cũng phải trở về trại tỵ nạn để tự xoa dịu tâm hồn mình. Tôi đã sống như
một người đã chết. Tôi đã sống mà không có cảm giác. Sau khi đã sống còn, tôi
cần phải tìm sự bình an tinh thần. Giúp người đi qua đoạn đường mà tôi đã bước
qua chính là phương cách đáp ứng nhu cầu bình an tinh thần ấy.
Vì thế, bây giờ tôi không phải chỉ là một con người đã sống
sót. Tôi là một con người đang sống.
( TRẦN THỊ MỸ NGỌC )
DƯƠNG QUANG
SƠN
“Bố tôi”
Một hôm vào năm 1979, tôi ở nhà xem truyền hình. Tôi xem
chương trình “Sáu Mươi Phút” vì đang có một phim về các thuyền nhân từ Việt nam
đổ đến Mã Lai. Thông tín viên Ed Bradley đang phỏng vấn một vài người. Họ bảo họ
đi từ Việt Nam sang bằng tàu, nhưng chính phủ Mã Lai không chịu cho vào bờ. Tàu
đắm, rất nhiều người chết đuối. Tất cả những người sống sót đang khóc.
Tôi nhận ra một người lúc Ed Bradley phỏng vấn. Chính là người
bạn thân nhất của anh tôi ở Việt Nam, tên Đặng Hồng Phước. Vì thế tức khắc tôi
điện thoại cho anh tôi, tôi hỏi: “Anh có xem chương trình Sáu Mươi Phút đấy
không?” Anh tôi nói: “Có, có thấy Đặng Hồng Phước không?” Tôi đáp: “Có”. Thế là
chúng tôi quyết định tìm mọi cách cố liên lạc với Phước và bảo trợ Phước sang
Mỹ. Chúng tôi viết thư cho Hội Hồng Thập Tự để liên lạc.
Sau khi liên lạc được, anh ấy viết thư cho chúng tôi. Anh ấy
bảo trong số những người chết đuối có bố tôi. Anh ấy bảo bố tôi đã trả tiền cho
chủ tàu để ra khỏi Việt Nam. Nhưng tàu đắm ngoài khơi Mã Lai, cha tôi chết mất
tích.
Tự do là tất cả những gì bố tôi luôn luôn mong muốn. Bố tôi
chỉ muốn được làm một con người tự do. Thế thôi. Bố tôi đã gửi anh tôi và tôi
sang Mỹ để chúng tôi được tự do. Và bố tôi cũng cố chạy thoát Cộng sản. Nhưng
đối với bố tôi, đã quá muộn. Quá muộn rồi.
LỜI CẢM TẠ CỦA TÁC GIẢ
LARRY ENGELMANN
Sau Lễ Tạ ơn năm 1984 không lâu, tôi bắt đầu viết một bài về
sự sụp đổ của Saigon. Bài này thoạt đầu chỉ giản dị để mô tả chuyện một người Mỹ
đã đi trên chuyến hàng không mẫu hạm Midway trong mùa Xuân năm 1975, và chuyện
một người tỵ nạn Việt Nam từ phi trường Tân Sơn Nhất đáp xuống chiếc Hàng không
mẫu hạm này. Hai đối tượng của bài viết: Một người là Nhiếp ảnh gia John Degler,
một người nữa là cô Nguyễn Nhật.
Nhưng sau khi kể cho tôi nghe câu chuyện di tản của anh,
Degler lại đề nghị tôi nên tìm gặp thêm những người Mỹ tham dự chiến dịch, cô
Nhật cũng giới thiệu cho tôi một số bạn hữu với nhiều câu chuyện đáng kể khác.
Tôi nghe theo. Tôi bắt đầu tìm kiếm thêm những người với những câu chuyện mà tôi
nghĩ là nên được kể ra.
– Helen Hicks giới thiệu tôi với thân phụ của cô, ông Henry
Hicks là người đã liên lạc với một số bạn hữu phục vụ tại văn phòng Tùy viên
Quân sự ở Saigon, và sắp đặt cho tôi phỏng vấn họ. Tướng John Murray và tướng
Homer Smith, hai tùy viên Quân sự Hoa Kỳ đã cho phép tôi phỏng vấn, rồi lại thu
xếp cho tôi được phỏng vấn thêm một số bạn hữu của các ông. Chính nhờ thế, bài
viết của tôi đã trở thành quyển sách.
– Tại California, tôi gặp Trần Thị Mỹ Ngọc là người trở thành
phụ tá nghiên cứu, cũng là thông dịch viên của tôi. Mỹ Ngọc đã tháp tùng tôi đi
Bangkok để thực hiện công tác phỏng vấn, cũng đã kể cho tôi nghe câu chuyện bi
thảm của chính đời cô dưới chế độ Cộng sản Việt Nam và câu chuyện cô vượt biên
sang Mã Lai bằng tàu. Mỹ Ngọc làm việc không biết mệt, là một người phụ nữ thông
minh, nhạy cảm, đầy sinh lực, cô đã tin tưởng vào quyển sách này ngay từ lúc mới
nghe nói về nó, chính cô đã giúp hình thành nội dung cuốn sách này.
– Nguyễn Thị Lạc, Nguyễn Thị Kim Anh, Nguyễn Thị Hoa và Bùi Lệ
Hà đều làm việc với tôi với tư cách thông dịch và phỏng vấn viên, họ đã tỏ ra
tuyệt vời trong việc xác định các đề tài của cuốn sách.
– Peggy Adams đã giới thiệu tôi với anh rể của bà, Đại úy
Alien Broussard là người đã cho tôi một số hình ảnh mà ông chụp trong chiến dịch
“Frequent Wind”. Allen cũng giới thiệu tôi với Đại tá George Slade là người đã
mời tôi đến tư gia tại Virginia để gặp và phỏng vấn hơn một chục Thủy quân Lục
chiến tham dự chiến dịch di tản tại toà Đại sứ Hoa Kỳ và tại phi trường Tân Sơn
Nhất.
– Fox Butterfield không những đã cho tôi một dịp phỏng vấn
dài, lại còn sắp xếp việc phỏng vấn một số thông tín viên Việt Nam khác.
– Peter Kama cũng giúp tôi phần phiên dịch, cũng đã giới thiệu
tôi với rất nhiều người Việt ở California. Ông đã thuyết phục được họ rằng: bằng
cách kể cho tôi nghe những câu chuyện của họ, ấy là đóng góp vào việc cấu tạo sự
hiểu biết về những sự thực xảy ra tại Đông Dương trong mùa Xuân năm 1975.
Cuối cùng tôi đã phỏng vấn hơn 300 cá nhân đã liên hệ bằng
cách này hay cách khác với sự sụp đổ của Saigon năm 1975. Song le, sau rốt vì
giới hạn của kích thước cuốn sách mà rất nhiều câu chuyện do tôi và Mỹ Ngọc lượm
lặt đã không thể sử dụng hết trong cuốn sách này. Tôi muốn được cảm tạ tất cả
những người mà tôi đã phỏng vấn về sự rộng lượng, sự tin cậy và sự giúp đỡ của
họ.
– Những lời cảm ơn sau đây dành cho những người mà tôi đã
phỏng vấn tại Hoa Kỳ: Tướng William Westmoreland, Đại tá William E. Le Gro,
Tướng Richard Baughn, Trung tá Dennis Traynor, Tướng Cao Văn Viên, Tiến sĩ
Nguyễn Văn Canh, Linda Nguyễn, Tướng Bùi Đình Đạm, Nghị sĩ Trần Ngọc Nhuận, Ngô
Đình Chương, Y Klong Adrong, Đại tá Vũ Văn Lộc, Đại tá Trần Tiến, Đại tá Ngô Thế
Linh, Lê văn Hải, Trần Minh Lợi, Calvin Mehlert, Edward G. Lansdale, Kenneth
Moorefield, Anthony Hicks, James Baker, Trung tá Jim Bolton, Nguyễn Ngọc Nhạ, Lê
Mạnh Dương, Trần Thạch Thủy, Lina Lim, Thiro Lim, Rathnary Eng, Vilay Lim, Bùi
Diễm, Trần Thị Liên Hương, Trần Thị Kiệt, Hà Ngọc Kim Loan, Huệ Vũ, Nguyễn Minh,
Nguyễn Quan Bình, Josiah Bennett, Marvin Gaưet, Bạch Diệu Hoa, Moncrieff Spear,
cha Joseph Nguyễn Văn Tịnh, cha Joe Devlin, tướng Nguyễn Văn Toàn, Thai Tan
Tran, Melisa Phạm, Nguyễn Thảo, Alphonse Trần Đức Phương, Nguyễn Văn Mạnh,
Charles Patterson, Trung tá Ngô Lê Tịnh, Trung tá Nguyễn Vinh, Đại úy Quân Đào,
Phạm Vinh, Sam Chu Linh, Charles Stewart, Ken Healy, Don Bemey, Đại úy Edwin
Herring, Charlotte Daly, Mai Văn Đức, Bruce Dunning, tướng Nguyễn Cao Kỳ, Daniel
Gamelin, Bill Plante, Tom Sailer, Jennifer Bissett, Oliver Stone, Phil Caputo,
Nguyễn Xuân Phác, Morley Safer, Rose Trần, Mimi Trần, Daniel Ellsberg, Tom
Hayden, Alexander Haig, Tướng Charles Timmes, Tommy Rowe, Gene Hasenfus, Bruce
Bums, Uk Siphan, Kamchong Luangpaseut, Malcolm Browne, Jim Markham, Anne
Mariano, Jim Bennett, Trần Văn Ân, Sengthong Ta Keophanh, Phạm Quang Trình, Bác
sĩ Bruce Branson, Liên Mai, Đạt Trần, Nguyễn Thị Tuyết Mai, Huệ Dương, Hạ Thảo,
Trịnh Trần Huyền, Debbie Huỳnh, Tiffany Chiao, Nguyễn Trung Hiếu, Phạm Hồng,
Trần Kim Loan, Phạm Anh, Phan Hạnh Bích, Đại tá John Madison, Bill Johnson,
Frank Snepp, Hạ Lý, Shep Lowman, Phil McCombs, Lucien Conien, George McArthur,
Jean Sauvageot, Julia Taft, Bill Laurie, Doug Dearth, George Jacobson, Lucy
Parsons, A1 Santoli, Norman Lloyd, Tướng Vĩnh Lộc, David c. Simmons, Đại úy
Edward Flink, Phạm Hạnh, Richard Armitage, Denny Ellerman, Arnold Issacs, Nguyễn
Đạt Thịnh, Paul Horton, Steve Stewart, Đại tá Harry Summers, Đại úy William R.
Melton, Thiếu tá Thomas Ochala, Thiếu tá Mike Clough, Trung úy Thomas Linn,
Trung úy Bruce Duderstadt, Trung úy Thomas O’hara, Hà Cẩm Tâm, Nguyễn Thụy Nhu,
Sichan Siv, Lacy Wright, Tướng Richard Carey, Đại úy Nguyễn Phú Lâm, Đại úy
Gerry Berry, Philip Habib, Millicent Fenwick, Donald Fraser, Phạm Thị Kim Hoàng,
Trần Kim Phượng, Brent Scowcroft, Nguyễn Gia Hiến, Joe Welsch, Tướng Ngô Quang
Trưởng, Thiếu tá Trương Quang Sĩ, Huệ Thu, Vũ Công Dương, Phạm Huệ, Eugene
McCarthy, Phạm Duy, Douglas Pike, Yvette Đỗ, Anh Đỗ, Mary Nelle Gage, Đại úy Ray
lacobacci, Tướng Ralph Maglione, và Neal O’Leary.
– Tại Hồng Kông: Helen Trần, Nữ tu sĩ Christine Trương Mỹ
Hạnh, Nguyễn Diệu Hương, Yukari Sawada và Arthur Kobler.
– Tại Thái Lan: Bill Bell và Suphan Sathorn
– Tại Việt Nam: Tướng Lý Tòng Bá, Tướng Trần Công Mẫn, Đại tá
Nguyễn Phương Nam, Nguyễn Thanh Long, Bùi Hữu Nhân, Đại tá Bùi Tín, Vũ Tuất
Việt, Nguyễn Xuân Oánh, Đặng thị Ngọc Hiệp, Lê Thùy Dương, Akira Suwa, và
“Raymond” cùng những em bé “bụi đời”, bạn của anh.
– Tại Anh Quốc: Robert Elegant
– Tại Úc Đại Lợi: Ted Serong.
– Cũng xin cảm tạ các bạn hữu và sinh viên tại Nam Kinh, Trung
Quốc đã lắng nghe một số phần bản thảo trong niên học 1988-1989, đã đề nghị thêm
nhiều câu hỏi và đề mục cho cuộc nghiên cứu này. Những người ấy là: Charlotte
Ku, Richard Pomfret, Rosemary Pomfret, Sam Crane, Hall Gardner, Isabel Gardner,
Denise Carolan, Ruth Kling, Dick Gaulton, Doug Reed, Jeffrey Reed, Eddie Ou,
Eric Tippett, Guo Haini, Xiao Ling, Thao Xiaoying, Li Yuanchao, Ha Fayu, Fang Wa
Feng Weinian, và Liu Liyan.
- Cũng xin cảm tạ:. Kathy Briggs, Barbara Briggs, John
Snetsinger, Paul Campbell, Jim Darby, Jean Hamm, Diana Killian, Qi-Wei Li, Jia
Li, Kasie Cheung, June Yee, Vincent Leung, Daisy Ng, Emillie Chim , Sonia Chim,
Peter Lau, Micheal Malone, Bill Bellows, Kathy Rebello, Robert Bemell, and Ge
Bemell.
– Khoa trưởng Khoa học Xã Hội tại Đại học San Jose, James
Walsh đã khích lệ và hỗ trợ tôi trong khi viết cuốn sách này. Nhân viên của tôi,
Emillie Jacobson cũng vậy. Joan Block đã ghi chép hầu hết những phần phỏng vấn
bằng tiếng Anh của cuốn sách, và đã một lần nữa chứng tỏ là một người bạn và một
đồng sự có khiếu khôi hài tinh tế và là một người rất đáng tin cậy.
– Các con gái của tôi, Marya và Erika, trong suốt năm năm vừa
qua, đã phải sống với những câu chuyện đau lòng của cuốn sách, và đã đi theo tôi
trong một vài cuộc phỏng vấn. Việc tháp tùng của các con tôi với những lời bình
luận của các con tôi đã là một nguồn vui không dứt và là một niềm khích lệ đối
với tôi.
– Cuốn sách này chắc chấn không thể ra đời nếu không có sự
cộng tác của các sinh viên Việt Nam, Cam Bốt và Lào tại Đại học San Jose của
tôi. Tôi đã được mời đến nhà, được gặp gỡ, phỏng vấn cha mẹ, thân quyến của họ,
và trên hết, họ đã tín nhiệm tôi mà kể ra những sự thực. Tôi hy vọng cuốn sách
này sẽ đáp ứng được lòng mong đợi của họ.
– Sau cùng, cám ơn Xu Meihong, người đã giúp tôi xếp đặt, ghi
chép rất nhiều tài liệu của cuốn sách trong thời gian tôi ở tại Trung Quốc.
Những cuộc trò chuyện dài giữa chúng tôi liên hệ đến các câu chuyện trong cuốn
sách này, đến bản chất chế độ Cộng sản ở Á Châu, đến chính sách đối ngoại của
Hoa Kỳ, đến vai trò Trung Quốc ở Đông Nam Á, đến tương lai của vùng này… đã cho
tôi những giờ khắc đầy tò mò thú vị.
Sau cùng Meihong đã phải trả một giá đắt cho tình bạn của
chúng tôi. Những ước mơ, những nỗi sợ hãi và số phận của cô đã giúp cho tôi hiểu
một phần nào cái cay đắng và thái độ của những người đã thắng, bại tại Việt Nam,
và vì sao mà họ chiến đấu.
-------
Ghi chú của người dịch: Xu Meihong, phiên âm sang tiếng Hán
Việt “Từ Mỹ Hồng”, là một nữ Thiếu úy tình báo thuộc quân đội Trung Quốc đã gặp
tác giả Larry Engelmann trong lúc Larry dạy học tại Nam Kinh năm 1988-1989. Sự
liên hệ giữa hai người đưa đến kết quả là chính quyền Cộng sản Trung Quốc đã bắt
Xu Meihong ngày 3 tháng 12 năm 1988, và trục xuất Larry sang Hồng Kông vào tháng
Ba, 1988.
Tuy nhiên câu chuyện có một kết quả tốt đẹp. Xu Meihong được
phóng thích và Larry đã đáp máy bay sang Trung Quốc thành hôn vói Meihong tại
một ngôi làng nhỏ ở miền Trung bộ nước Tàu vào tháng Giêng 1990. Tác giả Larry
Engelmann hiện vẫn đang dạy học tại Đại học San Jose. Xu Meihong dạy Anh ngữ cho
một số người Việt tỵ nạn tại trường Đại học Cộng đồng De Anza, San Jose – Câu
chuyện này đã được viết trên một số tạp chí Anh ngữ xuất bản tại Hoa Kỳ. (Nguyễn
Bá Trạc 30 tháng 8/1993).
HẬU TỪ
Vài lời ghi chú cuối cùng của người dịch vào tháng 4-1995
(1)
Về bối cảnh quyển sách
Tác giả quyển sách này bắt đầu các cuộc phỏng vấn từ mùa Xuân
1985. Nguyên tác Anh ngữ xuất bản năm 1990. Bản dịch Việt ngữ xúc tiến từ tháng
2/1993, nhằm xuất bản vào tháng Tư 1995: Đúng 20 năm sau biến cố miền Nam sụp
đổ. Trong thời gian qua, thế giới đã đứng trước một bối cảnh hoàn toàn khác
biệt.
Các nước Cộng sản Đông Âu sụp đổ. Liên bang Sô Viết tan rã.
Một số nước hậu Cộng sản lâm vòng rối loạn, phân ly. Tại Trung quốc, đảng Cộng
sản vẫn độc quyền lãnh đạo, nhưng cơ cấu kinh tế biến đổi, lại đang tiếp tục
hưởng quy chế nâng đỡ mậu dịch của Hoa Kỳ.
Riêng trường hợp Việt Nam, nhà cầm quyền Cộng sản đưa ra các
biện pháp đổi mới, manh nha từ 1986, rõ nét hơn vào năm 1987, đến nay vẫn đang
tiếp tục dồn cố gắng trong việc phục hồi kinh tế. Mặt khác, Hoa Kỳ tháo bỏ cấm
vận từ tháng 2/1994 sau mười chín năm phong tỏa. Trong tháng Giêng 1995, hai văn
phòng liên lạc ngoại giao vừa được thiết lập tại Hà Nội và Hoa Thịnh Đốn. Các
nước Tây phương, Úc Đại Lợi, kể cả Hoa Kỳ, nhưng nhiều nhất là Đài Loan, Tân Gia
Ba, Nam Hàn, Nhật đang tiếp tục đầu tư vào Việt nam. Đó là một số sự kiện tính
đến khi bản dịch Việt ngữ này chuẩn bị ra đời.
Sau một cuộc chiến dài, hai miền đất nước đã bị tiêu hủy về
nhiều mặt. Việc thi hành chế độ kinh tế theo mô thức Cộng sản sau gần bốn thập
niên tại miền Bắc, hai thập niên tại miền Nam, cộng mười chín năm phong tỏa kinh
tế, làm cho Việt Nam lâm phải tình trạng đói nghèo.
Mức nghèo đói ấy dường như có phần giảm thiểu trong các điều
kiện sinh hoạt mới.
Tuy vậy, nhiều vấn đề khác đang được đặt ra: Sự xác định chỗ
đứng của Việt Nam trên thế giới, trong khung cảnh chính trị địa lý vùng, giữa
các khối, các nước lân bang. Dự phóng về đối giá phải trả cho đầu tư ngoại quốc.
Thể chế và cơ cấu chính quyền Việt Nam thay đổi gì trước các đòi hỏi Dân chủ Tự
do hiện nay và tương lai. Có thể nào có một phương thức dung hóa giữa nền kinh
tế thị trường và tổ chức guồng máy chính quyền theo tư tưởng Mác xít-Lê Nin Nít?
Nhu cầu cấp thời phục hồi kinh tế mâu thuẫn với nhu cầu công bằng xã hội? Chế độ
bao cấp, hệ thống phân phối kiểu Cộng sản đang được bãi bỏ, nhưng một hệ thống
an sinh xã hội kiểu Tây phương chưa thành hình. Sự phát triển kinh tế thị trường
đang tạo ra những cách biệt lớn lao giữa các tầng lớp dân chúng, tại các khu vực
khác nhau. Và trên hết, là sự tha hóa con người.
Một cuộc chiến đã chấm dứt, nhưng các cuộc thảo luận mới đang
mở ra.
(2)
Về quyển sách này
Sử liệu khẩu vấn “Nước Mắt Trước Cơn Mưa” gồm 71 câu chuyện do
65 người kể. Có sáu người trình bày hai đoạn chuyện, trong đó gồm năm người cuối
của chương hai mươi, chương kết thúc. Những người phát biểu trong sách đã được
tác giả phỏng vấn rồi ghi ra. Trong phần cảm tạ đáng lưu ý, tác giả liệt kê một
danh sách những người đã được phỏng vấn, cho biết trên 300 người.
Xem danh sách ấy, người ta thấy một số khá đông các yếu nhân
đã được phỏng vấn, nhưng ý kiến phát biểu hoặc bài viết của các nhân vật này
không xuất hiện trong cuốn sách. Có thể tạm kể: Các tướng lãnh Mỹ như William
Westmoreland, Richard Baughn, Charles Timmes… Các tướng lãnh Nam Việt Nam như
Cao Văn Viên, Nguyễn Văn Toàn, Nguyễn Cao Kỳ, Ngô Quang Trưởng… Chưa kể nhiều
yếu nhân Mỹ Việt trong những lãnh vực khác, như học giả về Đông Nam Á Douglas
Pike, dân biểu Tom Hayden, các ông nguyên Tổng trưởng Nguyễn Xuân Oánh, đại sứ
Bùi Diễm, đại sứ Trần Kim Phượng v…v… Họ đều được phỏng vấn, chuyện kể của họ
được góp nhặt nhưng không sử dụng trong cuốn sách với lý do tác giả cho biết vì
“giới hạn của kích thước cuốn sách”.
Độc giả có thể hỏi: Nhưng trong giới hạn ấy, tại sao tác giả
lại loại bỏ những người này, mà không phải là những người khác trong tổng số hơn
300 người đã được phỏng vấn? Vì nhu cầu bố cục? Vì tính lý thú của các câu
chuyện? Vì quan điểm người được phỏng vấn? Vì quan điểm tác giả?
Phương pháp khẩu vấn có thể khách quan, nhưng việc lựa chọn là
chủ quan hay khách quan? Nếu có vấn đề quan điểm tác giả – quan điểm nào? Tả?
Hữu? Quan điểm người Hoa Kỳ? Quan điểm Sử học? Quan điểm của nhà văn nhìn đời
sống theo chiều rộng, nhìn lịch sử theo chiều dài? Quan điểm như lời trích dẫn
Abraham Lincoln, Graham Greene, những câu thơ Walt Whitman ghi ở đầu chương thứ
nhất?
Mỗi độc giả Việt Nam nếu cần kết luận, đều đã tự có một kết
luận sau khi theo dõi cả ba phần, từ Lời Mở Đầu đến Lời Cảm Tạ.
Tôi tin độc giả Việt Nam là những độc giả tinh tế.
Tôi tin độc giả Việt Nam thường phân tích từng lời từng chữ
khi đọc sách, đặt câu hỏi, thói quen của những người đã trải qua một cuộc chiến
tàn khốc với một khối lượng đồ sộ của đủ thứ sách báo với luận điểm tùy từng
phía, chưa kể các loại văn chương tuyên truyền.
Sự nhạy cảm ấy càng bén nhọn hơn đối với bất cứ cuốn sách nào
của người ngoại quốc viết về những vấn đề liên hệ đến Việt Nam.
(3)
Ý nghĩ của cá nhân người dịch
Trong lúc người Việt không đủ phương tiện thực hiện một quyển
sách với phương pháp tương tự, cá nhân chúng tôi thiển nghĩ: Quyển sách này dù
có được sắp xếp, lựa chọn, trình bày cách nào – cũng vẫn đưa ra một kích thước
tương đối phong phú, với nhiều cảm nhận và cách diễn tả khác nhau, từ nhiều góc
độ khác nhau.
Dù người ta có thể cho là bất cân xứng hoặc hãy còn thiếu sót,
nhưng cá nhân người dịch và mọi độc giả khác đều không bị đặt trong vị thế thụ
động. Người đọc có thể lượng giá cuốn sách, lượng giá từng lời phát biểu của mỗi
người được phỏng vấn trong góc độ chủ quan của họ. Và ngoài ra, câu hỏi cuối
cùng là nếu toàn bộ quyển sách có tạo ấn tượng gì về một quan điểm nào thì điều
ấy vẫn đáp ứng vào nhu cầu thảo luận, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay: Chúng
ta tin ở tinh thần thảo luận. Một cuộc thảo luận tốt là một cuộc thảo luận ôn
hòa, với nhiều quan điểm trái ngược để chuẩn bị cho việc tìm kiếm ý chí chung,
góp phần vào lời giải cho bài toán Việt Nam. Cũng góp phần vào lời giải bài toán
con người trong thế giới mới mẻ ngày nay.
Riêng cá nhân chúng tôi khi làm công việc phiên dịch cũng đã
có dịp suy nghĩ ít nhiều về những gì chứa đựng trong cuốn sách. Tôi không chăm
chú tìm kiếm bí mật lịch sử. Tôi nhìn vào những nỗi đau thương.
Quyển sách bắt đầu mở ra ngay từ chương thứ nhất với một nỗi
đau thương lớn, nỗi đau thương của những người lính thất trận trong cơn hoảng
hốt, cay đắng, đã mất lý trí khi bỏ lại gia đình, bắn loạn cả vào chính đồng
bào, chiến hữu mình.
Khi chăm chú nhìn, có lẽ tôi cũng chăm chú tìm hiểu lời giải.
Có lẽ, tôi đã tình cờ nghe được một lời bình phẩm hữu ích khi
làm công tác xã hội vào năm 1987 tại trại tỵ nạn Pulau Bidong: Nơi ấy, bấy giờ
hơn mười ngàn con người sống lây lất chen chúc trong những điều kiện căng thẳng,
thiếu thốn. Trên hòn đảo, họ đã đâm chém, trộm cắp, hãm hiếp nhau. Những người
đến trước cướp cả những thuyền của những người đến sau. Khi tôi tỏ ra áy náy với
một công tác viên xã hội khác đã chứng kiến những việc ấy, bạn tôi, một bác sĩ
Phần Lan giản dị nói: “Nếu nhốt mười ngàn người Phần Lan hay mười ngàn người Mỹ
vào chính hòn đảo này trong những điều kiện tương tự, họ sẽ tệ hại hơn. Họ sẽ
giết nhau và đốt hết ngôi trại này trong vòng ba ngày”
Lời bình phẩm ấy có thể là một lời an ủi. Nhưng mặt khác, nó
vẫn nêu ra vấn đề điều kiện. Phải chăng trong những điều kiện khắc nghiệt của
hoàn cảnh, nếu hoán đổi vị trí, nhiều người đều có thể phản ứng giống nhau hoặc
tương tự với hình thức này hay hình thức khác?
Sự tương tàn của những người lính miền Nam khi bắn cả vào đồng
bào, vào chiến hữu mình trong cơn hoảng hốt… Phải chăng cũng chẳng khác gì cuộc
tương tàn của quân đội hai miền cùng một dân tộc khi đối mặt trên chiến trường?
Phải chăng đều do hoàn cảnh, do điều kiện khắc nghiệt của đất nước Việt Nam?
Đêm qua khi viết đến đây, tôi đã thức một đêm trắng để kể các
bi kịch thảm khốc trong cuộc chiến của chính gia đình tôi: Một nửạ ngoài Bắc.
Một nửa trong Nam. Chú tôi chết trong trại cải tạo Cộng sản. Em họ tôi chết dưới
bom Mỹ trong Nam. Chuyện người em họ ở Hà Nội chết vì nhiễm độc chì khi làm công
nhân xuất khẩu bên Nga. Chuyện đứa em họ và con trai chết trong cuộc vượt biên,
sau khi cha vừa chết trong trại cải tạo ngoài Bắc. Chuyện cô chú tôi tự tử vì bị
truy bức sau vài năm Việt Minh tiếp thu Hà Nội. Và người con gái mồ côi của cặp
vợ chồng bất hạnh này đã quyết tâm lìa bỏ thế giới Cộng sản bằng cách vượt qua
bức tường Đông Bá Linh sang Tây Đức, để rồi sắp bị Thế giới Tự do trả về… Ở Hồng
Kông, người ta đang trói tay những người tỵ nạn để đưa lên máy bay như những con
vật… Kể sao hết?
(.......)
-Hôm nay tôi xé bỏ 20 trang giấy đã viết. Có lẽ tôi không nhất
thiết phải bám chặt những cảm xúc ấy để bắt đầu một quyển sách mới sau khi vừa
bỏ ra chín tháng để chuyển dịch và ấn hành quyển sách này.
Mỗi gia đình người Việt ở bất cứ đâu đều đã chạm mặt với quá
nhiều đau thương trong cuộc chiến vừa qua.
Và như thế đối với tôi, giá trị quyển sách này không nhất
thiết chỉ là những gì đã nói đến. Đã nói thế nào. Mà còn là những gì gợi ra.
Những câu chuyện không kể hết.
Tôi tin vào sự hữu dụng của quyển sách. Tôi tin khả năng đóng
góp của nó.
Về phần cá nhân tôi, vào ngày 30 tháng Tư 1975 tôi đang ở Hoa
Kỳ: Quyển sách giúp cho tôi hiểu được những gì gia đình tôi, bạn hữu tôi và đồng
bào tôi đã trải qua. Quyển sách giúp tôi hiểu thêm các tâm trạng khác nhau của
những người Mỹ liên hệ vào cuộc chiến, sự lúng túng của kẻ thắng, nỗi đau đớn
của người bại. Đôi lúc tôi không ngăn được xúc động khi dịch thuật lời kể của
nhiều người Việt trong quyển sách này.
Sau hết, một vài người phát biểu trong sách là những người tôi
quen biết. So sánh việc biết họ ngoài đời, cùng với những lời kể được thuật lại
trong cuốn sách này: Tôi hiểu tác giả đã biểu lộ một tinh thần khá khách quan
trong việc viết một cách tương đối trung thực các câu chuyên của họ.
(4)
Cảm ơn
-Tôi xin cảm ơn nhà văn Giao Chỉ, tác giả “Chân Trời Dâu
Biển”, “Cõi Tự Do”, tức ông Vũ Văn Lộc, nguyên Đại tá Quân lực Việt Nam Cộng
Hòa, hiện là Giám Đốc Hội Quán Việt Nam, người chủ trương cơ sở Tin Biển tại San
Jose. Ông rất thích quyển sách này, đã nhiệt tình trong việc xuất bản và giới
thiệu với cảm xúc, suy nghĩ riêng tư của ông. Cảm ơn ông đã tín nhiệm khả năng
Anh ngữ và Việt ngữ của tôi. Trong gần hai mươi năm qua ở San Jose, chúng ta
không nhất thiết phải đồng ý với nhau về tất cả mọi vấn đề, nhưng rút cục chúng
ta vẫn làm việc rất gần nhau.
-Tôi xin cảm ơn chị Đặng thị Hòa đã kiên nhẫn giúp chúng tôi
đánh máy, sửa chữa bản dịch trong gần ba tháng cực nhọc. Xin thành thật cảm ơn
chị.
-Cảm ơn Phạm Việt Cường đã đọc qua bản thảo, đã dịch hộ mấy
câu trích dẫn của Graham Greene, Abraham Lincoln, những câu thơ Walt Whitman mà
Larry chọn ghi đầu cuốn sách.
-Cảm ơn bạn mới của tôi, anh Văn Thanh (Lý Kiệt Luân), một nhà
văn đến từ miền Bắc, đã nhiệt tình góp ý, sửa chữa bản thảo, đặc biệt những ý
kiến của anh trong việc chuyển dịch cho chuẩn xác hơn những ngôn từ của phần
phát biểu thuộc chương 18 “Những Người chiến thắng”.
-Cảm ơn người bạn từ thuở nhỏ của tôi, nhà văn Phan Nhật Nam,
đã đọc kỹ từng trang sách, đã sửa chữa bản thảo, đặc biệt phần từ ngữ quân đội.
Là một sĩ quan miền Nam, trải qua một trận chiến dài, đã trực tiếp đối mặt các
thảm kịch của đất nước và của chính gia đình anh, rồi ngay sau khi đất nước Việt
Nam vừa ngưng tiếng súng, lại phải chịu thêm gần mười bốn năm trong cảnh tù đày
tại các trại cải tạo do chính quyền Cộng sản Việt Nam thiết lập: Trại Long Giao
(miền Nam); Trại 12,10, 8 (Đoàn 776 Hoàng Liên Sơn); Trại Lam Sơn (trại 5);
Thanh Cẩm (Thanh Hóa); Ba Sao (Hà Nam Ninh) và cuối cùng, Z30D (Hàm Tân, Bình
Tuy). Anh đã chịu hai đợt kiên giam, lần thứ nhất (từ tháng 2, 1979 đến tháng 8,
1980); lần thứ hai (từ tháng 9, 1981 đến tháng 5, 1988) với 24 hầm cấm cố, tử
hình, ở các trại nói trên. Việc giúp tôi đọc lại bản thảo tác phẩm dịch thuật
này chắc chắn gợi nhiều đau thương mà anh đã trải qua. Mong anh sẽ có một cuộc
sống tốt đẹp tại đây, nơi chúng ta có dịp nhìn thế giới một cách toàn bộ hơn để
cùng chia sẻ ước mơ: Quê hương chúng ta sẽ không còn ai gánh chịu những đau
thương như Nam đã trải qua.
-Cuối cùng, xin cảm ơn gia đình tôi, đặc biệt vợ tôi Elina
Marjatta Nguyễn đã hy sinh, trong lúc tôi dành thì giờ vào việc viết sách. Là
người dạy học các trẻ em Việt tỵ nạn tại Phần Lan, người dạy nhạc cho một số trẻ
em Việt tại San Jose, California… Gần gũi cuộc sống của nhiều gia đình Việt Nam
trên các đất nước khác nhau, vợ tôi hiểu tâm tình của người Việt đối với quê
hương đất nước Việt Nam – cũng như người Phần Lan đã yêu đất nước mình, một đất
nước nhỏ bé cùng một diện tích với Việt Nam, đã chiến đấu một cách dũng cảm và
khôn ngoan để sinh tồn trong suốt lịch sử đầy khó khăn của Phần Lan, giữa Đông
và Tây, giữa một bên Thụy Điển, một bên Nga, và sau này, một bên Cộng sản, một
bên Tư bản. “Elina, Minâ rakastan sinua. Kiitos”.
(5)
Về một lời đề tặng
Quyển sách này khởi dịch vào tháng 2,1993. Trước khi bắt tay
vào việc dịch thuật, tôi đã có lần viết một lời nói đầu. Nay in thành sách, tôi
vẫn xin giữ nguyên những lời đã viết ấy để ghi vào phần cuối cùng này.
“Năm nay, 1993, một trăm bốn mươi sáu năm kể từ khi các chiến
thuyền Pháp bắn vào Đà Nẵng, một trăm lẻ chín năm sau khi hoà ước Patenotre
thiết lập chế độ bảo hộ ở Việt Nam. Một trăm năm đúng kể từ Phan Đình Phùng khởi
sự kháng Pháp ở Hà Tĩnh. Lịch sử cận đại của Việt Nam trong một thế kỷ rưỡi nay
là một chuỗi những biến cố đau thương đã dẫn dắt từ cố gắng giành độc lập tự chủ
đưa đến cuộc tranh chấp Quốc Cộng, đưa đến việc: “Chỉ còn thuần túy là người
Việt Nam giết người Việt Nam – với một bên là Mỹ, bên kia là các nước thuộc khối
Cộng sản cung cấp các phương tiện cần thiết để đánh nhau và chết” (Larry
Engelmann, Lời mở đầu Nước Mắt Trước Cơn Mưa).
Việc phiên dịch cuốn sách này là một đóng góp nhỏ bé của chúng
tôi trong việc cùng nhau nhìn lại những đau thương đã qua với hy vọng rằng ý chí
vận chuyển đất nước Việt Nam trong thời gian tới đây phải được hướng dẫn bởi trí
tuệ và lương tâm con người.”
Tôi xin kính tặng bản dịch Việt ngữ này cho tất cả người Việt,
người Mỹ, tất cả những người của mọi phía đã bỏ mình trong cuộc chiến Việt Nam.
Nguyễn Bá Trạc
(San Jose, 21 tháng Tư, 1995)
Ghi-chú của người dịch: Khi bản Việt ngữ cuốn “Nước Mắt Trước
Cơn Mưa” vừa được duyệt sửa xong để sẵn sàng ấn hành vào cuối tháng Tư 1995 thì
một cuốn sách quan trọng đáng lưu ý cũng được nhà xuất bản “Times Books” thuộc
công ty “Random House” sửa soạn công bố tại Hoa Kỳ: Cuốn “In Restropect: The
Tragedy and Lessons of Vietnam” (Hồi Tưởng: Bi kịch và những Bài học Việt Nam)
của Robert S. McNamara.
Trong “Nước Mắt Trước Cơn Mưa”, tên McNamara chỉ được nhắc đến
một lần từ Đại sứ Hoa Kỳ Graham Martin (Xem chương 4: Tòa Đại sứ Hoa Kỳ), nhưng
đây chính là một trong những nhân vật then chốt nhất của giai đoạn Hoa Kỳ tham
chiến tại Việt Nam.
Robert S. McNamara là Bộ trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ từ 1961 đến
1968 dưới thời hai Tổng thống John F. Kennedy và Lyndon B. Johnson. Từng là chủ
tịch công ty Ford Motor Co. và chủ tịch Ngân hàng Thế giới. Là người “ưu tú sáng
chói nhất”, nhận xét của ký giả David Halberstam. “Tên sát nhân”, “Kẻ Tội Phạm
Chiến Tranh”, cách gọi của những Bồ Câu, tả phái, phản chiến. “Người bắt quân
đội chiến đấu với một cánh tay trói chặt sau lưng”, lời buộc tội của nhiều quân
nhân Hoa Kỳ và những Diều hâu, hữu phái.
Cuộc chiến Việt Nam đã có lúc được giới truyền thông Hoa Kỳ
mệnh danh là: “Cuộc chiến McNamara.”
Ở tuổi 78, sau hai mươi bẩy năm nín lặng, bây giờ McNamara lên
tiếng. Hai mươi năm sau khi miền Nam Việt Nam sụp đổ, bây giờ Robert S. McNamara
đã nói gì ?
Để cung cấp tài liệu đọc thêm cho độc giả “Nước Mắt Trước Cơn
Mưa”, chúng tôi chuyển dịch nguyên văn bài viết này của McNamara đăng tải trong
tạp chí “Newsweek” số ngày 17 tháng Tư,1995 – nhan đề: “Chúng ta đã lầm lẫn, làm
lẫn khủng khiếp”, tiểu tựa: “Trong một quyển sách mới, bộc trực, chua xót, người
kiến trúc sư của cuộc chiến ghi lại các lỗi lầm căn bản đã dẫn dắt John F.
Kennedy và Lyndon B. Johnson bước vào cuộc chiến Việt Nam’’.
Từng được công luận coi như một người chai đá, một bộ máy tính
lạnh lùng McNamara đã xúc động bật khóc trong lúc phát biểu với Diane Sawyer của
đài ABC trong chương trình truyền hình phát vào thượng tuần tháng Ba, 1995.
Những lời phát biểu của Robert s. McNamara đang gây chú ý, tạo
nhiều tranh luận sôi nổi tại Hoa Kỳ với những quan điểm khác nhau, đặc biệt,
trong các cộng đồng Việt Nam (Nguyễn Bá Trạc, San Jose, lễ Phục Sinh 1995).
...
ROBERT S. McNAMARA
(Nguyên Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ)
“Chúng ta đã lầm lẫn, lầm lẫn khủng khiếp”
Đây là một quyển sách mà tôi đã dự định sẽ không bao giờ viết
ra.
Trong hơn một phần tư thế kỷ, mặc dù bị thúc bách phải đưa
thêm quan điểm của tôi về vấn đề Việt Nam vào các tài liệu cho công chúng, nhưng
tôi đã ngại ngần, vì sợ rằng việc ấy có thể bị xem như phục vụ cá nhân tôi, như
phân bua bào chữa, oán hờn nhỏ mọn, là những điều mà tôi đã mong tránh khỏi bằng
mọi giá. Nhưng nay, có những việc làm tôi thay đổi thái độ, chấp nhận lên tiếng.
Tôi đáp ứng không phải vì tôi mong được trình bầy câu chuyện
của cá nhân tôi, nhưng vì ước nguyện đưa ra trước công chúng Hoa Kỳ những lý do
giải thích tại sao chính phủ họ, các nhà lãnh đạo của họ đã hành xử như thế, và
chúng ta có thể học hỏi được gì trong những kinh nghiệm ấy.
Tại sao sau bao năm im tiếng, bây giờ tôi lại bị thuyết phục
rằng tôi nên nói ra? Có nhiều lý do:
Lý do chính là tôi đau lòng khi phải nghe những lời hoài nghi
chỉ trích, ngay cả khinh miệt của nhiều người khi nhìn các định chế chính trị và
các nhà lãnh đạo của chúng ta.
Có nhiều yếu tố đã đưa đến tình trạng này: vụ Việt Nam, vụ
Watergate, những vụ tai tiếng, vụ tham nhũng. Nhưng sau khi cân nhắc kỹ, tôi
không tin rằng các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ đã bất tài hay vô tình đối với phúc lợi
của những người đã bầu cử họ. Chắc chắn, họ không hoàn hảo, con người mấy ai
hoàn hảo? Họ đã phạm nhiều lầm lỗi, nhưng đa số ấy là những lỗi lầm lương thiện.
Chúng tôi, những người trong chính phủ Kennedy và Johnson,
những người dự phần quyết định về Việt Nam đã hành xử dựa trên những gì chúng
tôi tin rằng đấy là các nguyên tắc và truyền thống của quốc gia này. Chúng tôi
đã làm quyết định với sự soi chiếu hướng dẫn của những giá trị ấy. Vâng, chúng
tôi đã lầm lẫn, lầm lẫn khủng khiếp. Chúng tôi mắc nợ với các thế hệ tương lai
lời giải thích.
Nhưng tôi thành thực tin rằng chúng tôi đã làm những lỗi lầm
không thuộc các vấn đề giá trị và chủ định, mà chỉ là vấn đề phán đoán và khả
năng. Tôi phát biểu điều này một cách thận trọng, vì tôi biết các lời phát biểu
của tôi nếu có mang vẻ hợp lý hóa, biện minh đúng về những gì tôi và những người
khác đã làm, thì những lời này sẽ làm mất tín nhiệm, chỉ tăng thêm tinh thần
hoài nghi chỉ trích của mọi người.
Tôi muốn được người Mỹ hiểu tại sao chúng tôi đã phạm những
lỗi lầm ấy, và có thể học hỏi được gì từ những lỗi lầm này. Tôi hy vọng nói
rằng: “Đây là những gì rút ra từ bài học Việt Nam với tính cách xây dựng, và có
thể ứng dụng được cho thế giới ngày nay và tương lai.” Đấy là con đường duy nhất
mà đất nước chúng ta có thế rũ bỏ được dĩ vãng ra sau. Kịch tác gia cổ Hy Lạp
Aeschylus từng viết: “Phần thưởng của niềm đau chính là kinh nghiệm.” Hãy để cho
câu nói ấy được xem là một di sản vẫn tồn tại trong vụ Việt Nam.
TERRA INCOGNITA: VÙNG ĐẤT XA LẠ
Người của Kennedy lặn lội vào một vùng không ai biết rõ.
Suốt những năm vào thời Kennedy, chúng ta đã hành động dựa
trên hai tiền đề mà cuối cùng đều chứng tỏ là mâu thuẫn. Tiền đề thứ nhất: Sự
sụp đổ miền Nam Việt Nam vào tay Cộng Sản sẽ đe dọa an ninh của Hoa Kỳ và thế
giới Tây phương. Tiền đề thứ hai: Chỉ người miền Nam Việt Nam mới có thể chống
giữ được quốc gia họ và Hoa Kỳ chỉ nên giới hạn trong vai trò huấn luyện và cung
cấp tiếp vận thôi. Do quan điểm sau, chúng ta đã thực sự bắt đầu kế hoạch rút
dần quân lực Hoa Kỳ từ năm 1963, một bước đi đã bị mãnh liệt phản đối từ những
người tin tưởng rằng việc này có thể dắt đến việc mất miền Nam Việt Nam, và
chừng như, toàn thể Á châu.
Tôi chưa hề bao giờ đến thăm Đông Dương, cũng không hề hiểu
biết gì lịch sử, ngôn ngữ, văn hóa hay các giá trị của vùng Đông Dương. Phải nói
việc ấy cũng cùng như thế trên nhiều mức độ khác nhau với Tổng thống Kennedy, Bộ
trưởng Ngoại giao Dean Rusk, Cố vấn An ninh Quốc gia Mc George Bundy, Cố vấn
Quân sự Maxwell Taylor và nhiều người khác nữa. Khi phải đối mặt với vấn đề Việt
Nam, chúng tôi thấy chúng tôi đã đặt định chính sách cho một khu vực – Terra
Incognita, một vùng đất xa lạ, không ai hay biết.
Tệ hơn nữa, chính phủ chúng tôi đã thiếu chuyên viên để cho ý
kiến, hầu bù đắp sự không thông hiểu của chúng tôi về Đông Nam Á. Sự mỉa mai về
lỗ hổng này xảy ra là bởi vì các chuyên viên thượng thặng về Đông Á và Trung
Quốc tại bộ Ngoại giao – như John Paton Davies Jr., John Stewart Service, John
Carter Vincent – đều đã bị giải nhiệm trong thời rối loạn quá khích Mc Carthy
vào những năm 1950. Thiếu các chuyên viên như thế để cung cấp những hiểu biết
thấu đáo, sâu sắc, tinh vi, nên chúng tôi – chắc chắn là tôi – đã hiểu sai các
mục tiêu của Trung Quốc, đã lầm lẫn khi cho rằng những ngôn từ khoa trương hiếu
chiến của Trung Quốc có bao hàm chiều hướng tiến đến việc chiếm lĩnh quyền bá
chủ trong vùng. Chúng tôi cũng hoàn toàn đánh giá thấp khía cạnh quốc gia dân
tộc của phong trào Hồ Chí Minh. Chúng tôi chỉ xem ông ta trước hết như một người
Cộng Sản, rồi thứ đến mới là một người Việt Quốc Gia.
Những phán đoán thiếu căn cứ như thế đã được chính phủ Kennedy
chấp nhận mà không bàn thảo tranh luận gì, cũng như những người tiền nhiệm thuộc
đảng Dân chủ và đảng Cộng hoà trước đấy. Bấy giờ và cả sau này, chúng tôi đã sai
lầm trong việc thiếu phân tích kỹ lưỡng các giả định của chúng tôi. Cơ sở các
quyết định của chúng tôi sai sót nghiêm trọng.
Vào mùa thu năm 1961, lực lượng du kích từ Bắc Việt xâm nhập
vào Nam đã lên cao, Việt Cộng tăng cường các cuộc tấn công mãnh liệt vào chính
phủ của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Tổng thống Kennedy quyết định gửi Max Taylor
(Cố vấn Quân sự) và Walt Rostow thuộc Hội đồng An ninh Quốc gia sang Nam Việt
Nam. Trong báo cáo của họ, Max và Walt thúc giục chúng tôi phải làm rầm rộ việc
hỗ trợ miền Nam Việt Nam bằng cách gửi thêm cố vấn, dụng cụ, và ngay cả một số
nhỏ các đơn vị chiến đấu. Họ ghi rằng những bước ấy trên căn bản có nghĩa là
“chuyển tiếp từ hình thức cố vấn sang hình thức chung phần” trong cuộc chiến.
Ngày mùng 8 tháng Mười Một năm 1961, tôi gửi lên Tổng thống
Kennedy một phiếu trình ngắn, ủng hộ khuyến cáo ấy. Song le, ngay sau khi gửi
phiếu trình này, tôi đã bắt đầu lo ngại rằng chúng tôi quá hấp tấp. Trong vài
ngày kế, tôi tìm hiểu sâu hơn vấn đề Việt Nam. Càng nghiên cứu kỹ, càng thấy rõ
sự phức tạp của tình thế, càng thấy sự bất trắc của khả năng chúng ta trong việc
đối phó vấn đề ấy bằng các biện pháp quân sự. Tôi nhận ra được việc ủng hộ phiếu
trình của Taylor và Rostow là một chuyện không hay. Dean Rusk và các cố vấn của
ông cũng đi đến một kết luận như thế. Ngày 11 tháng Mười Một, ông và tôi cùng
gửi lên Tổng thống một phiếu trình chung để khuyến cáo đừng gửi quân tham chiến.
Trong buổi họp tại tòa Bạch Cung xế ngày hôm ấy, Tổng thống
Kennedy xem xét cả hai phiếu trình. Ông xác nhận minh bạch rằng ông mong không
phải làm một cam kết vô điều kiện trong chuyện ngăn ngừa việc mất miền Nam Việt
Nam. Ông dứt khoát từ chối tán thành việc bắt đầu gửi quân lực Hoa Kỳ sang tham
chiến.
Tình trạng lưỡng lự khó xử mà Dean Rusk và tôi vạch ra sẽ ám
ảnh chúng tôi trong rất nhiều năm. Xem lại biên bản các buổi họp này, rõ rệt là
phân tích của chúng tôi mơ hồ, không thỏa đáng. Chúng tôi đã thiếu sót trong
việc đặt ra năm câu hỏi căn bản nhất: Đúng hay không, việc sụp đổ miền Nam Việt
Nam sẽ lôi kéo sự sụp đổ của toàn thể vùng Đông Nam Á? Liệu việc ấy có tạo nên
một đe dọa nghiêm trọng nào cho an ninh Tây phương hay không? Loại chiến tranh
nào – quy ước hay du kích – sẽ có thể mở ra? Với quân đội Hoa Kỳ chiến đấu bên
cạnh người miền Nam Việt Nam, liệu chúng ta có thể thắng hay không? Trước khi
gửi quân tham chiến, liệu chúng ta có nên làm ngơ tất cả những câu hỏi này hay
không?
Thực có vẻ khó hiểu, không thể tin được rằng chúng tôi đã
không tự buộc mình trực diện những đề tài trọng tâm ấy. Nhưng ngày nay, cũng
thật khó gợi lại được sự ngây thơ và tin tưởng trong cách chúng tôi tiếp cận vấn
đề Việt Nam vào những ngày đầu của chính phủ Kennedy. Chúng tôi biết rất ít về
khu vực này. Chúng tôi thiếu kinh nghiệm trong việc đối phó khủng hoảng. Một số
vấn đề quốc tế đang thôi thúc ầm ĩ đã cuốn hút sự chú ý của chúng tôi vào năm
đầu tiên, tạm kể: Cuba, Bá Linh và Congo. Chưa kể cuộc cách mạng nhân quyền tại
quốc nội. Sau hết, có lẽ quan trọng nhất, là bấy giờ chúng tôi chưa sẵn sàng
hoặc chưa có những câu giải đáp tốt. Tôi e là, trong những trường hợp ấy, các
chính phủ – và trong thực tế, đa số người ta – đều có khuynh hướng vùi đầu vào
cát. Việc này có thể giúp giải thích cho thái độ của chúng tôi, nhưng chắc chắn,
là không thể bào chữa cho thái độ chúng tôi.
Mặc dù cách tiếp cận vấn đề Việt Nam của chúng tôi có rời rạc
vào những năm đầu tiên ấy, nhiều người trong chúng tôi – gồm cả Tổng thống và
tôi – đã đi đến tin tưởng rằng: Với vấn đề như thế này, chỉ người miền Nam Việt
Nam mới có thể giải quyết được. Tổng thống Kennedy đã tuyên bố điều ấy trong lúc
riêng tư, ngay cả trước công chúng vào cuối mùa hè và mùa thu 1963, khi âm mưu
đảo chánh Ngô đình Diệm, lãnh tụ miền Nam, đang bắt đầu. Chúng ta có thể giúp
huấn luyện, hoặc giúp tiếp vận, nhưng chúng ta không thể chiến đấu cuộc chiến
của họ. Đấy là quan điểm của chúng tôi lúc bấy giờ. Nếu chúng tôi cứ giữ vững
quan điểm ấy, toàn thể lịch sử giai đoạn này đã khác hẳn.
Càng lúc tôi càng làm cho vấn đề Việt Nam trở thành một trách
nhiệm của riêng cá nhân tôi. Điều ấy duy chỉ đúng ở một điểm: Rằng đấy là nơi
dẫu chỉ là những người cố vấn, người Mỹ đã lọt vào một cuộc chiến đang nổ súng.
Tôi cảm thấy một trách nhiệm nặng về việc ấy. Đấy là những gì sau này sẽ đưa đến
chuyện người ta gọi Việt Nam là cuộc chiến của McNamara.
Trước khi cho phép đảo chính Diệm, người đã làm cho các nỗ lực
chiến tranh tại nước ông càng lúc càng được nhận thấy là không thỏa đáng, chúng
tôi thiếu sót trong việc đối đầu với những vấn đề căn bản tại Việt Nam – những
vấn đề đã đưa đến việc hạ bệ ông ta – và rồi chính chúng tôi lại vẫn tiếp tục
làm ngơ những vấn đề ấy, sau khi đã hất ông Diệm đi. Nhìn trở lại, tôi tin rằng
Kennedy và mỗi cố vấn của ông đều có lỗi:
* Đáng lẽ tôi nên thúc đẩy việc nghiên cứu, bàn thảo, tranh
luận kỹ về những câu hỏi căn bản như: Với Diệm, liệu chúng ta có thể thắng hay
không? Nếu không, cố thể thay bằng ai khác để với nhân vật này, chúng ta có thể
hoạt động tốt hơn không? Nếu không, liệu chúng ta có nên lưu tâm đến việc tiến
tới Trung lập chế? Hoặc, giải pháp thay thế, là rút khỏi trận địa Việt nam, nơi
mà những bất ổn chính trị làm cho Hoa Kỳ không thể nào ở lại được?
* Cố vấn Quân sự Maxwell Taylor đã không thúc đẩy việc giải
quyết những bản báo cáo tiếp tục sai biệt nhau chung quanh các tiến triển quân
sự hoặc không có tiến triển gì.
* Bộ trưởng Ngoại giao Dean Rusk – một trong những người quên
mình nhất, một cá nhân tận tụy phục vụ Hoa Kỳ – đã hoàn toàn thiếu sót trong
việc quản trị bộ Ngoại giao và giám sát Đại sứ Henry Cabot Lodge, Jr. – và cũng
đã không tận tình tham dự các buổi họp với Tổng thống.
* Và, Tổng thống Kennedy, người mà tôi quy trách ít nhất,
người đã phải lo toan nhiều vấn đề khác nữa – đã thiếu sót trong việc kết hợp
một chính phủ Hoa Kỳ chia rẽ. Khi phải chạm trán những lựa chọn khó khăn, ông tỏ
ra bất động, không quyết đoán trong một thời gian quá lâu.
SAU NGÔ ĐÌNH DIỆM VÀ KENNEDY
Johnson bắt đầu nghiêng về định mệnh trực tiếp tham chiến
Sau vụ ám sát Kennedy, Lyndon Johnson thừa kế một Việt Nam
chưa từng phức tạp, khó khăn và nguy hiểm hơn. Người lãnh tụ duy trì được việc
thống hợp các lực lượng ly tâm tại miền Nam Việt Nam trong gần mười năm, đã bị
loại bỏ trong một cuộc đảo chánh mà Kennedy hỗ trợ, còn Johnson với tư cách Phó
Tổng thống đã phản đối. Miền Nam Việt Nam thiếu một truyền thống đoàn kết quốc
gia. Sự kiện này vây quanh bởi những hận thù tôn giáo, chủ nghĩa bè phái, cảnh
sát tham nhũng, và một yếu tố khác không kém phần quan trọng, đó là phiến loạn
du kích gia tăng với sự yểm trợ của láng giềng phương Bắc. Hơn nữa, Johnson thừa
hưởng một nhóm phụ trách an ninh quốc gia, nhóm này đã sâu xa chia rẽ trong vấn
đề Việt Nam.
Song le, trái với các huyền thoại phổ thông, khi trở thành
Tổng thống, Lyndon Johnson không hề lơ là vấn đề Việt Nam. Mặc dù chỉ thăm viếng
Việt Nam có một lần vào tháng Năm 1961, ông đã tham dự các cuộc họp về Việt Nam
vào thời Kennedy, ông ý thức được vấn đề một cách sắc bén. Với tư cách Tổng
thống, một trong những hành động đầu tiên của ông là ấn định buổi họp với các cố
vấn về Việt Nam của ông. Có người bảo ràng ông chỉ triệu tập buổi họp này vì lý
do chính trị quốc nội. Với cuộc bầu cử sẽ diễn ra trong thời gian một năm, người
ta cho là ông lo sợ, nếu ông không tỏ ra kiên quyết và để tâm vào vấn đề này, có
thể ông sẽ phải chạm mặt với những cuộc chống đối ồn ào của những nhóm cứng rắn
Cộng hòa Hữu phái.
Tôi không đồng ý. Dĩ nhiên ông có e sợ các hậu quả chính trị
quốc nội nếu ông tỏ ra nhu nhược. Ông cũng e sợ ảnh hưởng cho các đồng minh của
chúng ta nếu Hoa Kỳ tỏ ra bất lực và miễn cưỡng trong việc thực hiện các trách
vụ an ninh. Nhưng trên hết, là ông đã được thuyết phục rằng Liên bang Sô viết và
Trung Quốc có khuynh hướng tiến đến việc giành quyền bá chủ. Ông xem hành động
đánh chiếm miền Nam Việt Nam như một bước tiến đến chuyện thực hiện mục tiêu này
– một hành động bẻ gẫy chính sách ngăn chận của chúng ta – ông quyết tâm phòng
ngừa việc ấy. Johnson cảm thấy chắc chắn hơn Tổng thống Kennedy về giả thuyết
nếu mất miền Nam Việt Nam thì Hoa Kỳ có thể sẽ phải trả giá đắt hơn là trực tiếp
gửi quân tham chiến. Chính quan điểm ấy đã định hướng ông, đã tạo hình cho các
quyết định về chính sách của ông trong thời gian năm năm kế tiếp. Ông đã sai sót
trong việc nhận thức bản chất chính trị cơ sở của cuộc chiến này.
Đầu tháng chạp, Tổng thống yêu cầu tôi đến gặp. Ông được
thuyết phục rằng chính phủ Hoa Kỳ không hành động đầy đủ những gì nên làm. Ông
yêu cầu tôi đi Sài Gòn. “Tình hình ở đấy đang rất lôi thôi”. Khi quay về, tôi
báo cáo với ông, và tiên đoán rằng: “Trừ phi có thể xoay chuyển ngay được tình
thế trong vòng hai, ba tháng tới, còn không, chiều hướng hiện tại giỏi lắm là
đưa đến Trung lập, hoặc tệ hơn, chắc sẽ trở thành một nước do Cộng Sản kiểm
soát”. Ngay sau đấy không lâu, Tổng thống nhận được một phiếu trình của Thượng
nghị sĩ Mike Mansfield, thủ lãnh nhóm đa số (Đảng Dân chủ, đơn vị Montana).
Thượng nghị sĩ Mike Mansfield khuyến cáo Hoa Kỳ nên thử giải pháp Đông Nam Á
trung lập – một vùng Đông Nam Á không phụ thuộc viện trợ quân sự Hoa Kỳ, cũng
không là đối tượng bị Trung Quốc chế ngự – việc ấy có thể thực hiện qua một vài
hình thức ngưng bắn và dàn xếp hòa giải. Tổng thống bèn tham khảo vói Bộ trưởng
Ngoại giao Dean Rusk, Cố vấn ninh Quốc gia Mac Bundy và tôi, để xem chúng tôi
phản ứng như thế nào. Tất cả ba chúng tôi đều cảm thấy con đường của Thượng nghị
sĩ Mansfield có thể dẫn đến việc mất miền Nam Việt Nam vào tay Cộng Sản, với
những hậu quả cực kỳ nghiêm trọng cho Hoa Kỳ và Tây phương. Chuyện này biểu lộ
rằng chúng tôi thực đã thiển cận trong cách phân tích và bàn thảo về biện pháp
trung lập hoặc rút quân – là các biện pháp thay thế cho chính sách đương hữu của
chúng tôi tại Việt Nam. Sự nông cạn hẹp hòi ấy cũng biểu lộ trong việc chúng tôi
trình bầy với Tổng thống Johnson về hậu quả việc mất Đông Á đối với an ninh của
Hoa Kỳ và Tây phương – một cách mạnh mẽ hơn, với nhiều chi tiết hơn là trong
những dịp trình bầy trước.
Việc này làm cho thái độ Tổng thống trở nên cứng rắn. Cùng với
việc nhận ra chiến lược huấn luyện đang rõ rệt trở nên thất bại trong những
tháng sắp đến, chúng tôi nghiêng dần về giải pháp trực tiếp tham chiến, chúng
tôi đi đến giải pháp ấy một cách tinh tế, hầu như không nhìn ra được. Chúng tôi
đã hành động như thế chỉ vì sự sợ hãi của chúng tôi gia tăng, chúng tôi sợ các
hậu quả có thể xảy ra nếu chúng tôi không hành động gì. Sau này, khi mọi việc đã
xảy ra rồi, chúng tôi mới nhận thức được rằng đấy chỉ là sự sợ hãi thổi phồng
quá đáng.
Một phần, sự hỏng hụt của chúng tôi là do kết quả của việc
phải đối phó nhiều chuyện khác nữa, không phải chỉ có chuyện Việt Nam. Tinh
trạng bất ổn tại Mỹ châu La Tinh, tại Phi châu, Trung Đông, và mối đe dọa của Sô
Viết đối với Âu châu đã thu hút hết thì giờ và sự chú ý của chúng tôi. Chúng tôi
không có một nhóm chuyên viên cao cấp phụ trách về vấn đề Việt Nam, nên cuộc
khủng hoảng này trở thành chỉ là một trong nhiều đề mục khác đã được bỏ lên trên
đĩa của mỗi người. Khi gộp lại sự thiếu uyển chuyển trong các mục tiêu của chúng
tôi, cùng với sự kiện chúng tôi đã không thực sự nghiên cứu những gì thiết yếu
nhất, quan trọng nhất đối với chúng tôi, chúng tôi trở thành rối rắm, ôm đồm quá
tải, và rồi chúng tôi cầm một tấm bản đồ, trong ấy chỉ có một con đường độc đạo.
Chúng tôi không bao giờ chịu ngừng lại, tìm tòi kỹ lưỡng đầy đủ hơn để xem có
những con đường nào khác cho mục đích của chúng ta không.
Vào những tháng cuối năm 1963, tình thế Nam Việt Nam càng trở
nên tệ hại một cách chắc chắn. Sau khi loại bỏ Diệm, phe đảo chánh nắm quyền
chẳng làm được gì để ngăn chận tình trạng suy thoái. Ngày 29 tháng Giêng 1964,
một nhóm sĩ quan trẻ do tướng Nguyễn Khánh cầm đầu đã hạ bệ chính phủ chia rẽ và
vô hiệu ấy. Hoa Thịnh Đốn không khuyến khích, cũng không giúp đỡ cuộc đảo chánh
này; trong thực tế, tình trạng hỗn loạn thường xuyên càng làm tăng mối lo của
Tổng thống Johnson, tăng quan tâm về sự bất ổn chính trị có thể phá vỡ nỗ lực
cuộc chiến. Do đấy, ông cảm thấy chúng ta phải làm cho Khánh trở thành “Chú nhỏ
của chúng ta.”
Trước khi Cố vấn Quân sự Maxwell Taylor và tôi sang Sài Gòn
một lần nữa, Tổng thống yêu cầu chúng tôi đến tòa Bạch Cung. Ông nói: “Bob, tôi
muốn thấy có chừng một nghìn tấm ảnh chụp ông cùng tướng Khánh vẫy tay tươi cười
và biểu lộ cho mọi người ở đấy biết rằng quốc gia này triệt để đứng sau lưng
Khánh”.
Tổng thống đạt ý muốn. Suốt mấy ngày giữa tháng Ba, với sự
ngượng nghịu lúng túng vô cùng của tôi, người Mỹ đã cầm những tờ báo, mở truyền
hình ra xem hình ảnh tôi lang thang khắp miền Nam Việt Nam từ đồng bằng sông Cửu
Long ra Huế, đứng vai sát vai cạnh viên tướng Khánh lùn, béo núng nính, trước
mặt những đám đông người Việt, với cố gắng quảng cáo cho ông với dân chúng của
ông. Và bởi vì đến bấy giờ chúng tôi vẫn không nhận thức được cuộc chiến đấu của
người Bắc Việt và Việt Cộng trong bản chất là người Quốc gia, chúng tôi không
nhận thức được việc trình bầy liên hệ giữa Khánh và Hoa Kỳ trước công chúng lại
chỉ làm tăng thêm trong tâm trí người Việt rằng chính phủ của họ chỉ đạt được sự
hỗ trợ của Hoa Kỳ, chứ không phải là sự hỗ trợ của chính dân tộc họ.
LỪA DỐI QUỐC HỘI?
Trả lời những cáo buộc về Nghị quyết Vịnh Bắc Việt
Gần gũi nhất đến việc tuyên chiến tại Việt Nam là vụ Nghị
quyết Vịnh Bắc Việt trong tháng Tám 1964. Các biến cố xung quanh nghị quyết này
đã gây nhiều tranh cãi trầm trọng vẫn còn tiếp tục đến nay. Sau đây là những câu
hỏi then chốt cùng với các câu trả lời của tôi:
* Những cuộc tấn công khu trục hạm Hoa Kỳ của tầu tuần Bắc
Việt được báo cáo xảy ra vào hai thời điểm riêng rẽ – Mùng 2 tháng Tám và mùng 4
tháng Tám, 1964. Những cuộc tấn công ấy có thực hay không? Trả lời: Bằng chứng
về cuộc tấn công thứ nhất không thể tranh cãi được. Về cuộc tấn công thứ hai: Có
lẽ, nhưng không chắc.
* Lúc ấy, và cả nhiều năm sau này, có người tin rằng chính phủ
Johnson đã có chủ tâm khiêu khích các cuộc tấn công ấy nhằm biện minh cho việc
leo thang chiến tranh, và che giấu để đạt được thẩm quyền Quốc hội cho phép leo
thang. Câu trả lời: Hoàn toàn không.
* Nghị quyết ấy có thể đệ trình cho Quốc hội không, nếu vụ
Vịnh Bắc Việt không xảy ra, và nếu không có vụ ấy, nghị quyết ấy có thể được
thông qua hay không? Trả lời: Gần như chắc chắn, một nghị quyết sẽ được đệ trình
Quốc hội trong vòng vài tuần lễ, và rất có thể nghị quyết sẽ được thông qua. Tuy
nhiên trong trường hợp ấy, nghị quyết này sẽ được tranh luận bàn thảo kỹ lưỡng,
và có thể Quốc hội sẽ đặt ra những thẩm quyền Tổng thống.
* Chính phủ Johnson có thể bào chữa việc đưa ra những hành
động quân sự tại Việt Nam – bao gồm cả việc bành trướng quân lực trên những mức
độ khổng lồ – sau vụ nghị quyết vịnh Bắc Việt – hay không? Trả lời: Tuyệt đối
không. Mặc dù Nghị quyết ấy đủ cho phép một thẩm quyền rộng rãi để hỗ trợ cuộc
leo thang, nhưng Quốc hội không bao giờ có ý định cho phép dùng nghị quyết ấy
làm một căn bản cho các hành động như thế, và nước Mỹ cũng không thấy như thế.
KHỦNG HOẢNG VỀ TÍN NHIỆM
Đến khoảng tháng Bẩy 1965: Thêm quân, thêm bom, bớt thẳng thắn
thực thà.
Ngày nay nhiều người tin rằng Tổng thống Johnson đã úp mở
trong việc đưa ra các quyết định về Việt Nam bởi ông muốn tập trung vào việc
thắng cử Tổng thống năm 1964. Nhiều người khẳng định là ông đã che đậy ý muốn
bành trướng cuộc chiến vì các lý do chính trị – là ông muốn vẽ ra hình ảnh ứng
cử viên Cộng hòa, Nghị sĩ Barry M.Goldwater, như một tay hiếu chiến, phần ông
lại là một chính khách biết điều, yêu chuộng hòa bình. Nếu Lyndon Johnson quả có
một kế hoạch leo thang chiến tranh trong trí, ông không hề cho tôi biết. Và tôi
đã tin rằng ông không có một dự định như thế. Ông không bao giờ chỉ thị gì cho
tôi hoặc cho Tham Mưu Trưởng về việc ông muốn chúng tôi phải nén vụ Việt Nam lại
vì cuộc bầu cử. Thực ra bấy giờ vẫn chưa có sự đồng thuận giữa các cố vấn của
ông về chuyện nên hành động gì.
Đối diện với những khuyến cáo đầy mâu thuẫn sâu xa về cuộc
chiến nói chung, việc dội bom miền Bắc nói riêng, ngày mùng 2 tháng Mười Một,
Tổng thống cho tổ chức một Nhóm Hoạt Động đặt dưới quyền Phụ tá Bộ trưởng Ngoại
giao William Bundy nhằm một lần nữa, tái xét các biện pháp thay thế. Hôm sau,
Lyndon B.Johnson thắng cử với số phiếu lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Nhóm Hoạt
Động, điều hành một cuộc tái xét toàn diện các giả định, các tiền đề và những
biện pháp lựa chọn, rồi cho biết:
Chúng ta không thể bảo đảm duy trì một miền Nam Việt Nam không
Cộng Sản mà giảm thiểu được việc liên lụy của chúng ta vào bất cứ hành động quân
sự nào cần thiết để đánh bại Bắc Việt, và có thể cả Trung Cộng – về quân sự. Một
cam kết như thế sẽ dính líu đến những nguy cơ cao độ trong mối mâu thuẫn lớn lao
tại Á châu, và sự cam kết ấy không thể chỉ hạn chế trong các hoạt động hải quân,
không quân, sự cam kết ấy sẽ gần như không thể tránh khỏi các hành động với kích
thước của trận địa chiến ở Cao Ly, và có thể, ngay cả việc phải sử dụng đến vũ
khí hạt nhân tại một số địa điểm.
Tổng thống và tôi sửng sốt trước phong cách ung dung của các
viên chỉ huy và những người cộng tác của họ trong việc chấp nhận cả nguy cơ có
thể sử dụng vũ khí hạt nhân. Trên tất cả mọi điều, chúng tôi muốn tránh nguy cơ
này. Tôi tin rằng dù chỉ là một nguy cơ rất thấp của thảm họa này, chúng ta cũng
phải tránh. Bài học ấy đã không được rút ra vào năm 1964. Tôi e cho đến ngày
nay, quốc gia chúng ta và cả thế giới vẫn chưa rút ra đầy đủ bài học ấy.
Sau nhiều tháng không chắc chắn, không quyết đoán, chúng tôi
chạm mặt ngã ba đường.
Tiếp theo phiếu trình của chúng tôi, sáu tháng đầu năm 1965
đánh dấu một thời kỳ quyết định của ba mươi năm Mỹ can thiệp vào Đông dương. Vào
khoảng giữa 28 tháng Giêng đến 28 tháng Bẩy 1965, Tổng thống Johnson đã làm
những lựa chọn định mệnh khóa chặt Hoa Kỳ vào con đường can thiệp bằng quân sự ồ
ạt ở Việt Nam, một cuộc can thiệp sau này đã tiêu hủy chức vụ Tổng thống của ông
và phân cực nước Mỹ trong những đối chọi chưa từng xảy ra kể từ Nội chiến.
Trong thời kỳ định mệnh này, Johnson bắt đầu cho phép dội bom
Bắc Việt, đưa sang các lực lượng bộ binh, tăng tổng số binh sĩ Hoa Kỳ từ 23,000
lên 175,000 – có thể đưa thêm 100,000 quân nữa vào năm 1966 và có lẽ còn hơn thế
sau này. Tất cả những việc ấy xảy ra mà không mở rộng cho công chúng hay biết,
không bàn thảo một cách thích đáng, đấy sẽ là những mầm mống hiển nhiên đưa đến
cơn khủng hoảng về tín nhiệm sau này.
Mặc dù giấu giếm việc thay đổi chính sách trước công chúng,
Tổng thống đã tìm kiếm sự cố vấn của những người bên ngoài chính phủ, đặc biệt
là cựu Tổng thống Eisenhower. Ông tóm tắt cho Ike (Eisenhower) biết, rồi mời Ike
họp với ông cùng các cố vấn cao cấp của ông tại tòa Bạch Cung. Ngày 17 tháng Ba,
chúng tôi ngồi vây quanh chiếc bàn của phòng họp hội đồng chính phủ trong hai
tiếng rưỡi đồng hồ để nghe quan điểm của vị tướng lãnh.
Ike mở đầu bằng cách nói rằng trách nhiệm thứ nhất của Lyndon
B. Johnson chính là phải kiềm chế Cộng Sản tại Đông Nam Á. Tiếp theo, ông phát
biểu là việc dội bom có thể giúp đạt mục tiêu này. Dội bom không chấm dứt được
hành động xâm nhập, nhưng sẽ giúp ích bằng cách làm suy nhược ý chí chiến đấu
của Hà Nội. Ông tin sẽ có lúc Tổng thống có thể chuyển từ các cuộc oanh tạc trả
đũa sang “chiến dịch áp lực.” Khi có người hiện diện trong buổi họp (Tôi không
nhớ là ai) nói rằng việc ấy có thể đòi hỏi một lực lượng rất lớn – tám sư đoàn
Hoa Kỳ – để ngăn ngừa Cộng Sản chiếm miền Nam, Eisenhower phát biểu rằng ông hy
vọng không cần đến thế, nhưng “nếu cần thì làm”. Nếu người Tàu và Sô Viết đe dọa
can thiệp, “Chúng ta nên chuyển lời cho họ phải coi chừng những hậu quả tàn bạo
thảm khốc (nghĩa là tấn công nguyên tử) xảy ra cho họ.”
Hai ngày sau, Tổng thống Johnson quyết định bắt đầu cho oanh
tạc thường xuyên lên Bắc Việt, nhưng một lần nữa, ông từ chối lời khuyên của
Mac, Cố vấn An ninh Quốc gia, về việc tuyên bố quyết định này cho công chúng.
Tại sao Tổng thống Johnson đã từ chối, không tin cậy công
chúng Mỹ? Có người cho rằng đấy là do tính nết giấu giếm bẩm sinh của ông, nhưng
câu trả lời thực ra phức tạp hơn nhiều. Một yếu tố đó là nỗi ám ảnh của ông
trong việc cần bảo đảm Quốc hội chấp thuận và tài trợ chương trình Đại Xã Hội
của ông; ông không muốn bất cứ chuyện gì có thể làm sai lệch các kế hoạch cải tổ
quốc nội mà ông ấp ủ. Yếu tố khác là mối sợ hãi cũng lớn ngang thế về áp lực của
nhóm cứng rắn (từ những người bảo thủ trong cả hai đảng) đối với hành động quân
sự lớn lao hơn, liều lĩnh hơn, có thể châm ngòi cho các phản ứng của Trung Quốc,
và/ hoặc của Liên Sô, đặc biệt chiến tranh nguyên tử. Tổng thống đã đương đầu
tình trạng tiến thối lưỡng nan này bằng cách che giấu đi – một hành động thiếu
khôn ngoan đã tự hại ông sau này.
Ngày 21 tháng Tư, trong buổi họp tại phòng họp hội đồng chính
phủ, tôi thúc đẩy Tổng thống nhanh chóng chấp thuận khai triển, nghĩa là, đánh
dấu việc tăng cường sức mạnh Mỹ tại Việt Nam từ 33,000 quân lên 82,000 quân,
nhằm chống đỡ cho Nam Việt Nam một cuộc tấn công của Cộng Sản đã được dự liệu,
đồng thời ngăn ngừa “một cuộc thất trận ngoạn mục của chính phủ Nam Việt Nam
hoặc của các lực lượng Hoa Kỳ.”
George Ball, cũng tham dự buổi họp ngày 21 tháng Tư, đã phản
ứng khuyến cáo ấy bằng lời yêu cầu chúng tôi “không nên nhẩy một bước liều lĩnh
như thế mà không thăm dò các khả năng dàn xếp.” Tồng thống trả lời, “Được rồi,
George, tôi cho ông thời hạn đến mai để thử cho tôi một kế hoạch dàn xếp. Nếu
ông có thể làm trò ảo thuật, moi ra được con thỏ trong cái mũ, tôi sẽ theo ông.”
Ngay đêm hôm ấy, George Ball đệ trình Tổng thống một kế hoạch hòa giải. Nhưng tờ
trình của George thất bại trong việc mô tả làm thế nào để đạt được những mục
tiêu mà chúng ta tìm kiếm.
Những gì George đã có khuyến cáo – nhưng chúng tôi có lẽ đã
không thực hiện đúng đắn – đấy là việc yêu cầu các trung gian hòa giải (Thụy
Điển, Sô Viết, mười bẩy quốc gia phi liên kết) xác nhận minh bạch với Hà Nội
rằng chúng tôi sẽ chấp nhận vị thế mà ông đã phác thảo ra. Trong vòng chỉ vài
tuần lễ, chúng tôi có tiếp xúc với một đại diện Bắc Việt tại Ba Lê. Trong ba năm
tiếp theo, chúng tôi có thử tiếp xúc nhiều lần khác. Nhưng chúng tôi đã sai sót
trong việc không sử dụng tất cả mọi đường dây khả thi, sai sót trong việc không
xác nhận minh bạch vị thế của chúng ta. Và trong thời gian tệ hại vào lúc Hoa Kỳ
đánh bom, vẫn thường có ẩn chứa những dấu hiệu là Hoa Kỳ mong mỏi hòa bình.
Nhận thức sự vô hiệu của việc thả bom đã tăng cường áp lực mở
rộng trận địa chiến. Việc này bùng nổ ngày 7 tháng Sáu. Hôm ấy, Tư lệnh quân lực
Hoa Kỳ, tướng William Westmoreland gửi điện văn cho biết: ông cần 41,000 quân
chiến đấu ngay bây giờ, 52,000 sau đó nữa. Việc này sẽ làm tăng quân lực Mỹ từ
82,000 lên 175,000. Trong tấm điện văn, câu cuối cùng ông viết là: “Phải tiếp
tục nghiên cứu, phải dự liệu khai triển những lực lượng lớn hơn, nếu cần, và khi
cần.” Lời yêu cầu của ông có nghĩa rằng đây sẽ là một cuộc bành trướng bi thảm
và vô giới hạn của quân lực Mỹ. Trong suốt bẩy năm tại bộ Quốc phòng, với hàng
ngàn điện văn nhận được, đây chính là tấm điện văn đã làm tôi phiền muộn nhất.
Tổng thống Johnson đọc một số bản thăm dò ý kiến mà kết quả
cho thấy công chúng đã được chuẩn bị chấp nhận những hành động đi xa hơn. Sáu
mươi lăm phần trăm chấp nhận cách ông đối phó cuộc chiến. 47 phần trăm có thiện
cảm với việc gửi thêm quân. Nhưng Tổng thống biết rất rõ là công chúng có thể
thay đổi mau chóng đến đâu. Ngày 21 tháng Sáu, ông bảo tôi:
Tôi nghĩ sẽ có lúc rất khó cho chúng ta đeo đuổi một cách vô
hiệu quả một cuộc chiến quá xa quê nhà, với những sư đoàn, đặc biệt những sư
đoàn có khả năng mà chúng ta gửi đến đó. Chuyện này làm tôi lo nghĩ cả tháng
nay. Tôi rất buồn bực vì không thấy bộ Quốc phòng hay bộ Ngoại giao đưa ra được
một chương trình nào khả dĩ hy vọng làm được gì, ngoài việc cầu khẩn khấn vái,
thở dốc mà chờ đến mùa mưa để mong chúng bỏ cuộc. Nhưng tôi không tin chúng sẽ
bỏ cuộc.
Tổng thống chấp thuận một chương trình tăng quân tham chiến
vào ngày 27 tháng Bẩy, ông loan báo quyết định cho công chúng Mỹ trong bài diễn
văn đọc vào buổi trưa 28 tháng Bẩy. Nhưng ông không chấp thuận một đường lối hợp
lệ để tìm tài trợ cho chương trình. Tôi phỏng định chương trình ấy sẽ đòi hỏi
vào khoảng mười tỉ Mỹ kim tăng thêm vào phần chi của tài khóa 1966. Tôi đệ trình
chiết tính dự chi của tôi và đề nghị tăng thuế trong bản thảo một phiếu trình
rất hạn chế, ít người được biết. Ngay Bộ trưởng Ngân khố và Chủ tịch Hội đồng cố
vấn kinh tế cũng không được biết gì.
Sau khi đọc xong bản thảo phiếu trình và phần ước chi do tôi
đưa, Tổng thống nói: “Ông tính ông sẽ vận động được bao nhiêu phiếu?” (Tôi hiểu
ý Tổng thống muốn nói gì: Ông không tin Quốc hội sẽ chịu thông qua một dự luật
tăng thuế).
“Tôi không tính chuyện vận động phiếu” Tôi trả lời. “Tôi biết
việc này rất khó, nhưng đấy là trách nhiệm của những người phụ trách liên lạc
với lập pháp, đấy là công việc của họ, họ đâu cả rồi?”
“Ông cứ tự nhấc đít mà đi sang Quốc hội, đừng vác mặt về nếu
ông không kiếm ra đủ số phiếu.”
Tôi thực hiện việc ấy. Nhưng tất nhiên không đạt đủ số phiếu
cho dự luật tăng thuế được thông qua. Tôi cho Tổng thống biết việc này và nói
rằng, “Tôi vẫn cố tranh đấu cho những gì ngay thẳng đúng đắn rồi dẫu có thất bại
cũng vẫn còn hơn không.”
Ông nhìn tôi, nổi cáu. “Mẹ kiếp, đấy, tôi đã bảo mà, ông là
thứ dở người như thế – ông không phải là tay làm chính trị. Đã bao nhiêu lần tôi
từng nhắc ông về chuyện Tổng thống Roosevelt cố đưa người vào Tối cao Pháp viện
rồi thất bại một lần thì sau đấy chẳng còn làm ăn gì với bọn Quốc hội được nữa.”
Tôi biết ông có quá lời, nhưng tôi hiểu trọng điểm của ông: Ông đang cần bảo vệ
các chương trình Đại Xã Hội do ông đề ra. Tuy nhiên, nếu bấy giờ ông chưa bị cơn
khủng hoảng về tín nhiệm đang lan tràn rộng rãi – nó xói mòn cái khả năng xây
đắp Đại Xã Hội của ông – thì có thể tôi đã đồng ý với ông.
Ngay từ khi chúng ta bắt đầu liên hệ vào cuộc chiến Việt Nam,
các lực lượng Việt Nam đã thường gửi cho chúng ta những bản tường-trình tình-báo
nghèo nàn, không chính xác. Đôi khi những sự bất chính xác này có chủ ý đánh lạc
lối; đôi khi là sản phẩm của quá nhiều lạc quan. Và đôi khi chỉ đơn thuần phản
ảnh nỗi khó khăn trong việc họ không đánh giá được sự tiến triển một cách chính
xác.
Nhưng tôi nhất định rằng chúng ta phải cố gắng đo lường các
tiến triển. Ngay những năm học ở Harvard, tôi đã phải áp dụng một điều lệ, đấy
là chỉ nhận thức mục tiêu và thiết lập kế hoạch thực hiện thôi, không đủ; Còn
phải nghe ngóng giám sát kế hoạch để xác định xem có đạt được mục tiêu hay
không. Nếu khám phá là không thể đạt được, thì phải sửa kế hoạch hoặc thay đổi
mục tiêu. Tôi được thuyết phục rằng trong khi chúng ta không thể theo sát tiền
tuyến, chúng ta có thể tìm những cách khác nhau để xác định thành công hay thất
bại. Do đó chúng tôi đã đo đếm các mục tiêu triệt hạ tại miền Bắc, đo đếm số xe
di chuyển trên đường mòn Hồ Chí Minh, số vũ khí chiến lợi phẩm thu được, số xác
chết địch quân v.v…
Việc đếm xác chết là một phương thức đo lường thiệt hại nhân
mạng của địch quân; Chúng tôi thực hiện việc ấy, vì một trong những mục tiêu của
(tướng) Wesmoreland là phải đạt đến cái-gọi-là-giao-điểm, ấy là điểm mà các
thiệt hại của Việt Cộng và của người Bắc Việt lớn hơn sức họ có thể chịu đựng
được. Việc đếm xác chết bị người ta phê bình rằng đây là một ví dụ về nỗi ám ảnh
của tôi đối với những con số. “Thằng cha McNamara này,” họ nói “là một thằng cha
cố gắng định- lượng-hóa tất cả mọi thứ.” Hiển nhiên, có những thứ người ta không
thể định lượng được: Như Danh Dự, như vẻ Đẹp chẳng hạn. Nhưng có những thứ nguời
ta có thể đếm, người ta phải đếm. Sự thiệt mạng là một thứ (người ta có thể đếm,
phải đếm) khi người ta đang chiến đấu trong một cuộc chiến tiêu hao. Chúng tôi
đã cố sử dụng việc đếm xác chết như một phương thức đo lường để giúp chúng tôi
tính toán xem chúng tôi nên làm gì ở Việt Nam ngõ hầu thắng cuộc chiến trong khi
giữ được cho binh đội chúng ta ít chịu nguy cơ nhất.
PHIỀN LỤY KHOÉT SÂU
Cuộc chiến lan rộng, McNamara và Lyndon B. Johndon càng thêm
ghẻ lạnh.
Những áp lực từ phía tả – từ những người thôi thúc chúng tôi
phải giảm bớt hành động hoặc rút quân – sẽ lên cao độ vào đầu năm 1968 với sức
chống đối thực sự mạnh mẽ, góp phần vào việc Tổng thống Johnson quyết định thôi
tìm đường tái cử. Nhưng đấy không phải là những quan tâm lớn của chúng tôi trong
những năm 1966 và gần suốt năm 1967. Tổng thống, (Bộ trưởng Ngoại giao) Dean
Rusk và tôi bấy giờ lo lắng hơn nhiều với những áp lực từ phía hữu. Nhóm Diều
Hâu buộc tội chúng tôi bắt quân đội chiến đấu với một tay trói chặt sau lưng, họ
đòi hỏi chúng tôi phải tháo xích mở xổng toàn bộ khả năng và sức mạnh quân đội
Hoa Kỳ.
Ngày 19 tháng Năm, 1967, tôi đề nghị một sách lược chính trị
quân sự nhằm nâng cao khả năng thương thảo: Giới hạn việc đánh bom vào hệ thống
giao thông của những “phễu” xâm nhập nằm dưới vĩ tuyến hai mươi; giới hạn việc
thêm quân ở con số 30,000, sau đó sẽ xác định một mức chắc chắn không lên quá;
chấp nhận một vị thế thương lượng uyển chuyển hơn, đồng thời năng động tìm kiếm
một cuộc dàn xếp chính trị. Sau khi đã trải qua nhiều suy nghĩ, phấn đấu, tìm
kiếm, tôi phải kết thúc – và tôi thẳng thừng nói với Tổng thống Johnson – rằng
“cuộc chiến tại Việt Nam đang giành lấy một động lượng của chính nó, cuộc chiến
như thế phải chấm dứt”, rằng phương thức tiếp cận của tướng Westmoreland “có thể
dắt đến một hiểm họa nghiêm trọng cho quốc gia”.
Phiếu trình của tôi gửi Tổng thống vào tháng Năm mở tung một
cơn bão tranh luận. Nó tăng sức dữ dội cho cuộc tranh cãi trong chính phủ vốn đã
cam go. Nó đưa đến những buổi điều trần căng thẳng chua cay, nó đặt tôi vào việc
đối chọi gay gắt với Tham Mưu trưởng Liên Quân, bật lên những dư luận cho rằng
họ sẽ đồng loạt từ nhiệm. Nó đẩy mau cái tiến trình sau này sẽ tách Tổng thống
Johnson và tôi rời xa đôi ngả. Và nó cũng đưa tôi đi nhanh khỏi Ngũ Giác Đài.
Khi đọc trước bản thảo bài viết này của tôi, một trong những
vị cố vấn thân tín nhất của Tổng thống Johnson đã bình phẩm, viết cho tôi rằng
tôi đã thiếu sót trong việc nhấn mạnh một cách thích đáng cái nhược điểm trong
cách làm quyết định của Lyndon B. Johnson: “Khi làm việc để đi đến một quyết
định, ông ta không thích có nhiều người – ông ta chỉ muốn làm việc với từng
người một. Trong bất cứ phạm vi nào, không bao giờ ông ta cho người ta biết lá
bài tẩy. Chẳng hạn việc ông không thích tìm hiểu thêm những ‘điều kiện hoà bình’
khả chấp, khiến cho các giai đoạn ngừng bỏ bom tất nhiên là thất bại.”
Như mọi chúng ta, Lyndon B. Johnson đôi lúc cũng tạo nên những
rắc rối. Việc giao phó cho một cố vấn cao cấp soạn thảo tờ trình nhằm xét lại
tiền đề cơ bản chủ yếu của quan hệ chúng ta trong cuộc chiến, nhưng lại không
cho phép người ấy bàn thảo với các đồng nghiệp, thì chắc chắn không thể nào điều
hành một chính phủ được. Tuy nhiên tôi nghĩ nếu chỉ quy thất bại của một Tổng
thống vào những yếu tố như thế, thì cũng đơn giản. Những người thuộc quyền vẫn
phải tìm cho ra các phương thức bổ khuyết cho những cá tính của người lãnh đạo
họ. Đấy vẫn là trách nhiệm chúng tôi trong việc phải nhận định ra những nghịch
lý của chính sách, buộc phải đưa ra ánh sáng bàn thảo. Phải chi chúng tôi đã làm
như vậy, chúng tôi đã thay đổi được chính sách rồi.
Một bản mật văn của Richard Helms bên Trung ương Tình báo cho
thấy vào mùa thu năm 1967, đa số phân tích viên cao cấp của Trung ương Tình báo
đều tin rằng chúng ta có thể rút quân từ lúc bấy giờ mà không bị một thiệt hại
thường trực nào cho an ninh Hoa Kỳ hay Tây phương. Cùng thời gian ấy, tôi cũng
phát biểu sự đánh giá trước một ủy ban Thượng viện – sự đánh giá này được hỗ trợ
bằng những bản phân tích của Trung ương Tình báo và Tình báo Quốc phòng – rằng
chúng ta không thể thắng được cuộc chiến này bằng cách đánh bom miền Bắc. Và,
trong phiếu trình đề ngày 19 tháng Năm, tôi cũng đã báo cáo là chúng ta sẽ tiếp
tục chịu đựng những tổn thất nặng nề tại miền Nam Việt Nam mà không có đảm bảo
nào về việc thắng trận cả.
Người ta có thể giải thích thế nào về sự sai sót của chính phủ
trong việc không thúc đẩy mạnh mẽ hơn những cuộc hòa đàm và dự liệu rút quân?
Câu trả lời là Tham mưu trưởng cùng nhiều người khác trong chính phủ đã có cái
nhìn hoàn toàn khác hẳn về diễn biến thật của cuộc chiến, rồi những thành viên
có ảnh hưởng bên Quốc hội cùng công chúng đã chia sẻ quan điểm ấy, và rồi chính
Tổng thống cũng bị lung lay nặng nề vì quan điểm họ.
Một phiếu trình bi quan khác mà tôi viết vào tháng Chín đã
tăng thêm mối căng thẳng giữa hai người từng yêu mến quý trọng lẫn nhau – Lyndon
Johnson và tôi – rồi đi đến gẫy đổ. Bốn tuần sau, Tổng thống Johnson loan báo
việc đề cử tôi làm Chủ tịch Ngân hàng Thế giới.
Cho đến hôm nay tôi vẫn không biết là tôi đã tự ý từ nhiệm,
hay đã bị sa thải. Có thể cả hai.
Đã từ lâu tôi vẫn thích quan tâm đến các quốc gia đang phát
triển. Vào mùa xuân năm 1967, tôi từng có dịp thảo luận với George Woods trong
một buổi ăn trưa, lúc ấy ông cho tôi biết thời hạn năm năm chức vụ Chủ tịch Ngân
hàng Thế giới của ông sắp mãn, ông mong ước tôi sẽ là người kế nhiệm.
Bấy giờ tôi có cho Tổng thống biết chuyện này, nhưng mãi đến
tháng Chín hoặc tháng Mười, trong một cơn buồn bực, Tổng thống mới hỏi tôi có
tính gì khác chưa. Tôi bảo ông rằng tôi vẫn thích Ngân Hàng Thế giới, nhưng nếu
chừng nào Tổng thống còn muốn tôi ở bộ Quốc phòng, tôi vẫn ở lại.
Một năm sau, George Woods cho tôi biết Bộ trưởng Ngân khố Joe
Fowler có nói với Lyndon B. Johnson rằng theo thủ tục, phải đề cử ba tên người,
Tổng thống bèn đáp, “Được, thế thì ba cái tên ấy là: McNamara, McNamara,
McNamara.”
Vậy thì, tại sao tôi đã ra đi? Không phải vì tôi ốm đau bệnh
hoạn như những chuyện báo chí nói đến, và rồi Tổng thống có bảo một tùy viên
rằng ông lo cho tôi có thể tự tử như trường hợp James V. Forrestal, Bộ trưởng
Quốc phòng đầu tiên của Tổng thống Truman. Rất nhiều người đã tin rằng tôi bị
suy sụp tâm thần lẫn thể xác. Tôi không bị như thế. Tôi có bị căng thẳng. Tôi có
bất hòa với Tổng thống; Tôi đã không tìm thấy những câu trả lời cho các câu hỏi
của tôi; tôi đã bị căng thẳng kinh khủng. Nhưng tôi không đi chữa bệnh, không
uống thuốc, ngoại trừ thỉnh thoảng uống vài viên thuốc ngủ, và chưa hề bao giờ
tôi có ý định tự tử.
Sự thực, đó là tôi cần phải đi đến một kết thúc, tôi đã phải
nói thẳng thừng với Tổng thống rằng chúng ta không thể nào đạt được các mục tiêu
của chúng ta tại Việt Nam qua những phương tiện quân sự hợp lý, do đó chúng ta
phải kiếm một mục tiêu ít chính trị hơn qua các cuộc hòa đàm thương thảo. Tổng
thống Johnson chưa sẵn sàng để chấp nhận điều ấy. Giữa hai chúng tôi, rõ rệt là
tôi không thay đổi sự phán đoán của tôi, ông không thay đổi sự phán đoán của
ông. Một trong hai đã phải nhượng bộ./.
Our Woman in Saigon– Larry Engelmann
Người phụ nữ của chúng ta ở Sài Gòn. Larry Engelmann
Nguyệt Thu Hồ dịch
“Sooner or later…one has to take sides. If one is to remain
human.”
“Sớm hay muộn gì… chúng ta phải chọn một phe. Nếu muốn giữ
nhân tính ”
Graham Greene, The Quiet American (1955)
Ngọc Hà, tên của bà, có nghĩa là dòng sông ngọc thạch. Tuy Lê
Thị Ngọc Hà là tên chính thức nhưng đối với William Johnson, giám đốc CIA cuối
cùng ở Sài Gòn, tên bà đã đổi thành “Holly”, bắt nguồn từ cách phát âm sai của
ông về họ Lê (mà ông đọc trại thành Lee). Theo thói quen của người Mỹ, ông đã
đổi tên bà thành – Hà Lê – nên đọc trại thành Ho-lee (Holly).
Bà sinh ngày 16 tháng 6 năm 1941 tại Huế. Lê Hà là con gái đầu
lòng trong một gia đình (cha là chức sắc trong thành phố) gồm 11 người con – năm
gái và sáu trai. Là chị cả, theo truyền thống Việt Nam, bà có bổn phận phụ giúp
mẹ trông coi nhà cửa, nấu nướng và chăm sóc tất cả các em.Trong vai chị cả bà
phải bỏ qua những sở thích cá nhân để tập trung vào tình hình sức khỏe, chuyện
học hành và ngay cả chuyện mối mai dựng vợ gả chồng cho các em.
Em trai của mẹ Lê Hà, cậu Vĩnh Lộc, là anh em họ của Cựu Hoàng
Bảo Đại. Vì thế ông được danh vị “hoàng tử” của triều Nguyễn và rất quan trọng
trong các liên hệ gia đình giữa triều đình Huế và các viên chức Pháp ở các tỉnh
thành. Ông theo học trường quân sự tại Pháp và tốt nghiệp trường huấn luyện Sĩ
quan tại Phú Bài (Huế) trước khi trở thành phụ tá tín cẩn cho Hoàng đế Bảo Đại.
Ông được thăng chức rất nhanh trong quân đội thời Pháp thuộc và trong quân đội
Việt Nam Cộng Hòa (Việt NamCH) sau khi Pháp rời Đông Dương (1954-1955). Đến cuối
thập niên 60 ông đã giữ chức TrungTướng và Giám đốc trường Đại học Quốc phòng
của Việt Nam. Đến năm 1975 ông trở thành tổng tham mưu trưởng của quân đội chính
quyền miền Nam.
Ở cấp tiểu học Hà Lê theo học tại một trường dòng Pháp ở Đà
Lạt. Năm 1959 bà tốt nghiệp thủ khoa tại trường trung học Couvent des Oiseaux.
Tới lúc này bà đã thành thạo 3 thứ tiếng: Việt, Pháp và Anh. Mùa thu năm 1959 bà
ghi danh vào trường Đại học Khoa học Sài Gòn. Trong học kỳ đầu tiên, bà tham gia
vào kỳ thi tuyển sinh của Đại học Victoria ở Wellington, New Zealand. Bà đạt số
điểm cao nhất và được trao tặng học bổng toàn phần từ Đại Học Victoria. Trong số
hai mươi sinh viên Việt Nam được Đại học Victoria cấp học bổng năm đó chỉ có một
mình Hà Lê là phụ nữ.
Tại đại học Wellington bà chọn khoa Sinh Hóa và cũng theo học
2 môn nhiệm ý văn học Anh và văn học Nga. Bà tốt nghiệp ưu hạng vào năm 1963 và
được chấp nhận vào chương trình nghiên cứu hậu đại học của trường. Năm 1968 bà
đã được trao bằng tiến sĩ Sinh Hóa và bổ nhiệm làm giảng viên cho trường.
Hà Lê đã từng là chủ tịch của Hội sinh viên Việt Nam của Đại
học Victoria trong bốn năm. Trong vai trò này, bà thường xuyên tham dự các phiên
họp của Quốc hội, gặp gỡ thủ tướng và các viên chức chính phủ cao cấp khác. Bà
cũng theo dõi các cuộc tranh luận sôi nổi về vấn đề New Zealand có nên đưa quân
tham gia vào cuộc chiến bảo vệ Việt Nam. Sau một cuộc biểu tình chống đối việc
New Zealand gửi quân đến Việt Nam xảy ra trước tòa nhà Quốc hội, Hà Lê kêu gọi
các thành viên của Hội sinh viên Việt Nam gặp gỡ để cùng bàn thảo và tổ chức một
cuộc biểu tình khác yêu cầu chính phủ New Zealand giúp đỡ miền Nam Việt Nam. Bà
nhớ lại: “Việc này đã gây tiếng vang vì báo chí và truyền hình New Zealand đã
đăng tải và phát sóng việc đấu tranh của đám sinh viên Việt Nam. Sao đó New
Zealand đã gửi quân đội sang tham chiến tại Việt Nam”. Nhưng sự đóng góp của New
Zealand có phần khiêm tốn. Trong tổng số 3890 lính New Zealand tham dự, 37 người
bị tử trận tại chiến trường Việt Nam.
Để làm tròn phần nào trách nhiệm của người chị lớn trong gia
đình, Hà Lê đã giúp hai em trai vào học các trường đại học ở New Zealand. Một
người em thứ ba gia nhập Không quân Việt Nam và đã được huấn luyện ở Lakeland,
Texas.
Tháng Giêng và tháng Hai 1968 Việt Cộng và Bắc Việt tổ chức
cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân vào miền Nam. Tại New Zealand Hà Lê chứng kiến
và theo dõi cuộc chiến từng ngày qua truyền hình và báo chí. Trong khi đó mẹ và
các em của bà đang ở Đà Lạt ăn Tết với cha, lúc đó là Quân Đoàn trưởng, Quân
Đoàn II. Sau vài ngày Việt Cộng đã chiếm đóng và kiểm soát Đà Lạt từ 31/1 cho
đến 09/2. Trong khi cuộc chiến đang tiếp diễn, gia đình của Hà Lê đã lẩn trốn và
ẩn náu trong một trường nội trú Pháp. Nhờ thế họ thoát nạn. Việt Cộng đã hứa hẹn
ban thưởng một số tiền lớn cho tông tích của cha bà.
Mùa hè năm 1968 Hà Lê trở về Việt Nam. Trong một buổi lễ cưới
tại nhà thờ Đức Bà ở thành phố, bà kết hôn với Trần Bá Tước, một học giả trẻ và
cũng là một sinh viên cùng trường tại Wellington. Cặp vợ chồng mới cưới cùng
quyết định ở lại Sài Gòn, ổn định nhà cửa và đóng góp bằng mọi cách trong khả
năng vào việc bảo vệ đất nước. Tước, tốt nghiệp về nghành tài chính, đảm nhận
một chức vụ với Ngân hàng Trung ương của Việt Nam. Hà Lê đảm nhận giảng dạy 3
môn: vật lý, hóa học và sinh học tại một trường trung học Công Giáo. Nhưng sau
sáu tháng làm cô giáo, Hà Lê từ chức để đi nhận việc tại Esso, Việt Nam, với vai
trò trưởng phòng thí nghiệm.
Phó Giám đốc và cũng là nhân vật đầu não thứ hai của Esso Việt
Nam là Đỗ Nguyễn. Ông đã từng làm việc cho Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ
(USAID) và cho Esso Á Châu. Ông đã được gởi qua Hoa Kỳ học một năm về môn quản
trị và kinh doanh xăng dầu. Khi về lại Sài Gòn, ông được mời gia nhập vào Ban
chấp hành của Esso-Việt Nam, trong đó có tất cả bốn giám đốc điều hành nhưng Đỗ
Nguyễn là người Việt duy nhất. Ông cũng giám sát các bộ phận cơ sở hạ tầng, tiếp
thị và bộ phận cung cấp của Esso. Ông Đỗ trở thành người cố vấn chủ yếu cho Hà
Lê trong công ty và tận lực giúp đỡ bà hoàn thành trách nhiệm của mình. Ngược
lại bà cũng ghi nhận những nỗ lực về thời gian và kiên nhẫn của ông Đỗ trong
việc hướng dẫn cho bà các hoạt động của phòng thí nghiệm và của công ty.
Năm 1971 Hà Lê được Esso đưa qua Mỹ ở một năm để tu nghiệp
chuyên ngành và học hỏi thêm. Trong thời gian lưu trú tại Mỹ, một số bạn bè ở
Việt Nam đã viết thư khuyên bà không nên trở về Việt Nam. Một người bạn đã thẳng
thắn nói “Đất nước chúng ta sẽ sụp đổ. Hãy ở lại Mỹ. Bạn sẽ được an toàn và có
một tương lai tươi sáng hơn.”
Bà đã trả lời “Nhưng tôi yêu rất yêu quê hương. Tôi không thể
từ bỏ đất nước ở thời điểm quan trọng này.” Và bà khuyên bạn “Nếu bạn cứ suy
nghĩ theo cách tiêu cực đó thì trước sau gì chúng ta sẽ mất nước sớm thôi.”
Nhưng bà đã giấu kín những suy nghĩ đen tối về tình hình đất
nước và không hề san sẻ với ai. Sau này bà nhớ lại “Thật ra tôi cũng biết, nhiều
người Mỹ hiểu rất ít về Việt Nam. Và họ thực sự chẳng thèm đếm xỉa gì đến một
Việt Nam xa tít mù khơi. Đối với họ nó chẳng phải là một quốc gia hay một dân
tộc mà chỉ là một cuộc chiến tranh ở xa mà dân Mỹ đã quá mệt mỏi, chán ngấy và
không còn muốn tham gia nữa. Đa số những người tôi quen biết đã không muốn đề
cập đến cuộc xung đột này. Tuy những người có dính líu ít nhiều với cuộc chiến
qua sự có mặt của con trai, anh, em, cha, con gái tại Việt Nam cũng hiểu chút
đỉnh. Nhưng đối với phần lớn còn lại, họ chỉ muốn dứt khoát hẳn với chúng tôi.
Càng sớm càng tốt. Khi tôi đã cố gắng chuyện trò và giải thích cho người Mỹ biết
về tình hình ở Việt Nam, họ đã làm lơ. Họ chẳng muốn nghe. Cho rằng họ biết rành
về những gì đang xảy ra ở Việt Nam. Nhưng thật sự họ chẳng biết gì cả. Họ đã
không còn muốn gắn bó với chúng tôi nữa.”
Khi trở lại Sài Gòn, Esso giao thêm cho bà chức quản lý phần
liên hệ cộng đồng của công ty cùng với chức trưởng phòng thí nghiệm. Bà rất hài
lòng khi được thăng chức nhưng đồng thời cũng buồn bã và lo lắng cho vận mệnh
đất nước càng ngày càng tệ hại hơn. Những nghi ngờ của bà về lời cam kết của Mỹ
trong việc tiếp tục hỗ trợ cho miền Nam Việt Nam đã trở thành hiện thực. Vào
tháng Giêng năm 1973, Hiệp định hòa bình Paris được ký kết, kết thúc việc tham
gia trực tiếp của Mỹ trong cuộc chiến Việt Nam. Vào mùa xuân năm đó những lực
lượng chiến đấu còn lại của Mỹ đã lên máy bay trở về nước.Trong khi đó các lực
lượng khá lớn mạnh của Bắc Việt được phép giữ nguyên vị trí đóng quân trong phạm
vi biên giới của Nam Việt theo Hiệp định Paris và phe Bắc Việt cam kết không tấn
công và chiếm giữ thêm những khu vực khác của miền Nam. Đồng thời Bắc Việt cũng
chấp nhận sự giám sát của một ủy ban quốc tế. Nhưng cả hai cam kết đã bị phá vỡ
ngay sau khi các đội quân chiến đấu cuối cùng của Mỹ rời khỏi Sài Gòn.
Cùng thời điểm đó Hà Lê quen biết Bill Johnson. Khi nghe bà
tâm sự về những quan tâm về tình hình đất nước, ông ta đã đưa ra một phương cách
tích cực để giúp miền Nam vượt qua được những khó khăn sắp xảy ra.
Khi Hà Lê cùng bạn bè và một số nhân viên Esso tham dự một bữa
ăn tối tại khách sạn Caravelle, tại đây bà gặp Bill Johnson. Johnson là một
người Mỹ hấp dẫn, cao lớn và đẹp trai, có học thức, đa ngôn ngữ (ngoài tiếng Anh
ông còn thông thạo cả tiếng Pháp lẫn tiếng Ý.) Ông ăn nói rất chững chạc và có
thẩm quyền với sự tự tin rõ ràng với kiến thức về chính trị và chiến tranh.
Trong đàm thoại ông thường trích dẫn những kinh nghiệm sâu rộng của bản thân
trong các vấn đề quốc tế. Ông thích hút ống điếu hơn là thuốc lá và có dáng vẻ
của một nhà mô phạm (như hầu hết người Mỹ mà Hà Lê quen biết).Trong lúc thảo
luận chính trị ông hay có khuynh hướng chêm vào một ít bài giảng, như thể đang
đứng trong một lớp học hơn là ngồi trong một nhà hàng với bạn bè. Ông thường
lưỡng lự giữa câu nói, cẩn thận đắn đo với cách dùng chữ để thu hút sự chú tâm
của những người cùng bàn.
Ông cho hay là ông làm việc trong bộ phận chính trị của tòa
đại sứ Mỹ. Vợ ông, Pat, cũng theo ông sang Việt Nam và hiện cũng làm việc trong
sứ quán. Cặp vợ chồng này thường đi du lịch khắp nơi trên thế giới và họ cũng
rất hiểu biết về chính trị, văn hóa châu Á và các vấn đề quốc tế. Họ có nhà ở
khắp nơi như Mỹ, Nhật Bản, Nam Mỹ và châu Âu. Như dự đoán của Hà Lê, Johnson đã
từng là một giáo sư đại học, và ông hy vọng một ngày nào đó sẽ có dịp trở lại
với nghành nghề này.
William (Bill) E. Johnson sinh năm 1919 và lớn lên ở Loveland,
Colorado. Cha mẹ đã ghi tên ông vào trường Hotchkiss ở Lakeville, Connecticut.
Sau đó ông ghi danh vào Đại học Yale và tốt nghiệp năm 1942 chuyên nghành về văn
học Anh. Ông kể lại “Thật ra trường phải gửi văn bằng đến cho tôi vì tôi đã lên
đường nhập ngũ trước buổi lễ tốt nghiệp”.
Ông kết hôn với Jean Hanson, một người bạn cùng lớp ở Yale,
một thời gian ngắn trước khi nhập ngũ. Johnson tham gia trường huấn luyện sĩ
quan truyền tin và được chuyển giao cho cơ quan tình báo quân sự. Ông và các
đồng đội của sư đoàn bộ binh thứ hai đã đổ bộ trên bãi biển Omaha vào 07 tháng
6, 1944. Ông nhớ lại “Trong suốt thế chiến thứ hai tôi luôn gắn liền với Sư Đoàn
II. Tôi từng là một sĩ quan tùy viên cho một vị tướng và tôi đã từng tham gia
vào thẩm vấn, trinh sát đặc biệt và tuần tra. “Ông được biệt phái trong một thời
gian ngắn về Văn phòng phục vụ chiến lược ở châu Âu- theo ông nghĩ- do khả năng
hơn người về ngôn ngữ của mình.
Sau chiến tranh Johnson nhận làm giảng sư phụ tá cho môn Anh
Ngữ và văn học Mỹ tại Carleton College, ở Northfield, Minnesota. Từ trong khuôn
viên yên tĩnh ở Carleton ông luôn theo dõi sự tan rã của khối liên minh trong
Thế chiến II, sự hình thành của các quốc gia đàn em của Liên Xô và sự khởi đầu
của chiến tranh lạnh. Ông đã ngày càng lo âu vì những biến động đang xảy ra và
sự bình lặng và cô lập của đời sống khoa bảng tại Minnesota.
Năm 1948 sự viếng thăm của James Jesus Angleton, một đồng
nghiệp OSS cũ, đã tạo cơ hội cho Johnson tham gia vào cuộc chiến tranh lạnh.
Johnson và Angleton gặp nhau tại Yale, nơi cả hai cùng viết
bài cho tạp chí văn học Furioso. Năm 1948, Angleton đến Bệnh viện Mayo ở
Rochester Minnesota để chữa trị bệnh trĩ. Trong khi hồi phục, ông đã đến thăm
Johnson cũng đang ở gần đó. Cả hai cùng bàn thảo về tình hình ở Đông Âu và đặc
biệt là về sự thiệt thòi của phe đồng minh vì Tiệp Khắc đã lọt về khối Cộng Sản.
Một tuần sau khi về đến Washington, Angleton gọi điện thoại và mời Johnson tham
gia vào một tổ chức mới- mà chính ông cũng góp một tay trong việc tạo dựng-nhằm
đẩy lùi sự bành trướng ảnh hưởng của Liên Xô. Đó chính là CIA-cơ quan tình báo
trung ương. Johnson còn nhớ rất rõ ông đã rất nồng nhiệt và ngay tức khắc đã trả
lời “Quỉ thần ơi!!! Chịu liền, chịu liền.”
Sau khi được huấn luyện, Johnson đã được chuyển giao cho phân
bộ phản gián ở Vienna (Áo). Tại đây, ông đã gặp một đồng nghiệp, Patricia Long.
Cô cũng được tuyển chọn vào CIA ngay từ Đại học Princeton. Hai người rất ý hợp
tâm đồng nên họ đã yêu nhau. Cuối cùng, Johnson đã ly dị người vợ trước và thành
hôn với Pat. Lúc đó họ trở thành cặp vợ chồng duy nhất cùng hoạt động chung với
nhau trong CIA.
Cả hai cùng trở về Washington. Bill đã được giao phó một vai
trò quản lý cấp cao cho phân bộ trông coi các hoạt động Phản Báo ở vùng Viễn
Đông. Họ đã cùng nhau làm việc ở châu Á và tập trung mọi hoạt động và nỗ lực vào
Việt Nam. Trong nhiều năm cứ mỗi tháng một lần họ phải bay qua bay lại giữa
Washington, Sài Gòn và Tokyo. Cuối năm 1972 Johnson chuyển qua căn cứ CIA ở Sài
Gòn để nhận lãnh một công tác ngắn hạn. Từ tháng 5/ 1973, công tác tạm thời này
đã trở thành dài hạn.
Trước khi Johnson được giao phó công tác thì Thomas Polgar đã
chỉ huy căn cứ CIA tại Sài Gòn được 10 tháng rồi. Thật ra hai người đã cùng làm
việc chung ở Đông Âu vào những năm cuối thập niên 40 và thập niên 50 nên cả hai
rất thân thiết với nhau. Lúc Johnson ở Sài Gòn, ông thường bàn bạc với Polgar về
triển vọng của miền Nam Việt Nam. Johnson nói “Chúng tôi thường bàn thảo về Sài
Gòn và dần dần chúng tôi đã đi đến suy nghĩ rằng tôi phải làm việc thường trực
và dài hạn ngay tại Sài Gòn”. Ông chỉ đưa ra một điều kiện: nếu CIA đồng ý
thuyên chuyển Pat qua Sài Gòn cùng hoạt động chung với ông. Cuối cùng, cấp trên
đã chấp thuận cho Pat làm việc ở Sài Gòn nhưng không trực tiếp dưới sự điều hành
của Bill. Pat sẽ làm việc dưới quyền của Polgar trong vai trò chuyên gia phân
tích về Trật Tự Chiến Trường.
Trụ sở chính thức của CIA và phân bộ đều nằm bên trong tòa Đại
Sứ Mỹ ở Sài Gòn. CIA duy trì năm trụ sở ở miền Nam: Đà Nẵng, Nha Trang, Biên
Hòa, Cần Thơ và Sài Gòn. Ngoài ra còn có một nửa tá chi nhánh ở nông thôn. Vì
trụ sở Sài Gòn được thành lập trong một tòa lãnh sự ngay kế phân bộ và nằm lọt
trong khuôn viên của đại sứ quán nên Johnson kiêm cả vai giám đốc của trụ sở và
nhân viên tham mưu của phân bộ. Ông được giao phó trách nhiệm tổ chức các cuộc
hội họp của nhân viên.
Khi bắt đầu làm việc dài hạn ở Sài Gòn, Johnson đã nhận định
về cơ hội sống còn của miền Nam như sau: “nếu Việt Nam tiếp tục nhận được viện
trợ tài chính, hỗ trợ thiết thực của Mỹ về mặt quân sự, cùng với lời cam kết sẽ
hỗ trợ không lực khi cần thiết, thì miền Nam vẫn có một triển vọng tốt đẹp”.
Một thời gian ngắn sau khi gặp nhau lần đầu, Pat Johnson mời
Hà Lê đến thăm căn biệt thự của vợ chồng họ nằm khá gần tòa Đại sứ Mỹ. Từ buổi
đầu gặp gỡ vợ chồng Johnson đã hiểu biết rất nhiều về Hà Lê – về cha và cậu của
bà, Tướng Vĩnh Lộc và các mối quan hệ gia đình với cựu hoàng Bảo Đại, em trai
trong Không quân, các hoạt động ở Wellington, chức vụ của Hà Lê tại Esso và
những quan tâm của bà về số phận và tương lai của Việt Nam.
Qua các cuộc bàn thảo trò chuyện vợ chồng Johnsons đã thu hút
Hà Lê nên bà rất thích gặp gỡ tới lui với cặp này. Đôi khi họ gặp nhau chỉ để
trò chuyện, kể cho nhau nghe những ký ức về cuộc sống ở Mỹ và New Zealand và
Bill cũng tường thuật lại những kinh nghiệm của các chuyến du lịch và kinh
nghiệm của một giảng sư đại học.
Trong một thời gian ngắn các cuộc bàn thảo của họ xoay quanh
vào chủ đề Việt Nam cùng triển vọng tồn tại – ngắn ngủi hay lâu dài của đất nước
này .
Hà Lê cũng san sẻ mối bận tâm của mình về tệ nạn tham nhũng ở
miền Nam và những tác động làm suy sụp tinh thần của những người đang chiến đấu.
Bà đã kể lại những tin đồn mà theo đó không những chỉ người Việt mà ngay cả
người Mỹ cũng nhúng tay vào trong phần lớn các vụ tham nhũng. Johnson đã cho
rằng đó chỉ là tin bịa đặt để công chúng bớt chỉa mũi dùi vào tệ nạn tham nhũng
đang tràn lan của người Việt. Hà Lê cũng không muốn làm mất lòng Johnson. Từ lâu
bà đã đi đến kết luận rằng Johnson là một người đàn ông không thích bị chất vấn.
Nhưng bà cũng hiểu rằng ông hoặc đã nhận tin tức sai lạc hoặc không trung thực
trong nhận xét về việc làm sai trái của Mỹ. Để bảo vệ suy nghĩ của mình, bà chỉ
nhẹ nhàng chỉnh Johnson. Theo bà gần đây có tin đồn cho rằng một nhân viên CIA
phụ trách căn cứ ở Tây Nguyên đã bị bắt quả tang biển thủ ngân quỹ tài trợ cho
các lực lượng người Việt tại địa phương. Bà cho biết số tiền bị đánh cắp cũng
khá nhiều đồng thời bà cũng tiết lộ tên tuổi tình nhân người Việt của nhân viên
CIA này. Người phụ nữ đó cũng dính líu vào vụ biển thủ. Bà quả quyết với Johnson
rằng trong giới quân sự và chính trị Việt Nam hầu như ai cũng biết rõ chuyện
này. Và bà đặt câu hỏi “người Mỹ đã giải quyết chuyện này như thế nào”. Té ra
nhân viên CIA đó chỉ bị cho về hưu một cách êm thấm. Hà Lê nói thêm “nếu mọi
người bên ngoài đều biết hết chuyện này thì ít nhiều nguồn tin này cũng lan tràn
vào bên trong tòa Đại sứ Mỹ. Nhưng họ làm ngơ như thể mọi chuyện tham nhũng đều
xuất phát từ người Việt và hoàn toàn không dính dáng gì đến người Mỹ.” Kể xong
câu chuyện bà kiên nhẫn chờ đợi phản ứng của Johnson. Nhưng ông chỉ nói rằng nếu
có thật thì chuyện này đã đến tai ông nhưng ông chẳng hề biết ất giáp gì cả. Ông
cũng nhắc nhở “Thành phố Sài Gòn đầy rẫy tin đồn có tính cách giúp vui chứ chẳng
hề có thật.”
Sau sự việc họ bất đồng ý kiến với nhau về vấn đề tham nhũng
của người Mỹ, Johnson đã tiết lộ cho Hà Lê biết là cả ông và Pat đều không thật
sự làm việc cho văn phòng chính trị của tòa đại sứ. Cả hai đều là nhân viên của
CIA. Ông chính là Giám đốc của phân bộ CIA tại Sài Gòn và Pat là chuyên gia phân
tích. Ngược lại hoạt động tình báo là tay nghề của ông. Khi Johnson tiết lộ bí
mật này Hà Lê lắng nghe rất chăm chú mà không hề tỏ lộ ra rằng bà đã biết rõ
những chi tiết này ngay từ buổi đầu họ gặp gỡ.
Johnson nhắc lại một lần nữa, nếu muốn duy trì sự tồn tại của
miền Nam thì giải quyết nhanh chóng chuyện tham nhũng nội bộ là việc quan trọng
nhất cần phải làm. Nhất là việc mua bán cung cấp gạo, vũ khí, đạn dược, phụ tùng
và các sản phẩm dầu khí cho Việt Cộng. Người Mỹ cho rằng sự thất thoát các vật
liệu do chính Mỹ bỏ tiền ra mua là một căn bệnh ung thư cần phải chữa trị càng
sớm càng tốt. Ông muốn biết cụ thể những kẻ đầu não phá hoại là ai và cách thức
ăn cắp của họ. Johnson tin rằng một số công chức cao cấp trong chính quyền miền
Nam và các sĩ quan cao cấp của quân đội có dính líu tới nạn tham nhũng. Và ông
muốn biết tên những người Mỹ đã hợp tác, nếu có. Ông ca ngợi khả năng gợi chuyện
và lắng nghe kỹ lưỡng không bỏ sót chi tiết nào của “Holly”. Với sở trường đó và
những chỗ quen biết của Holly qua Cậu Vĩnh Lộc và người em trai trong Không Quân
Việt Nam, ông hy vọng bà có thể truy lần ra những tin tức có liên hệ đến sự mất
mát của các nhu yếu phẩm Mỹ muốn viện trợ cho quân đội Việt Nam.
Ông đề cập thêm vấn đề thứ hai. Những hoạt động viên chính
thức hay cảm tình viên của Việt Cộng không những chôm chỉa mà còn phá hoại phẩm
chất của xăng, dầu, nhớt, nhiên liệu dành cho chiến đấu cơ mà Mỹ muốn cung cấp
cho quân đội Việt Nam. Theo ông có lẽ không có cách chi chấm dứt mọi chuyện phá
hoại.
Nhưng chắc chắn việc phá hoại có thể bị giảm bớt và nếu thực
hiện được, điều này có thể giúp quân đội Việt Nam trở nên hiệu quả hơn, có triển
vọng đảo ngược tình thế trong cuộc chiến chống lại miền Bắc. Do đó bằng mọi giá
việc này cần phải tiến hành.
Theo ông, Hà Lê vừa mới được thăng chức làm trưởng phòng thử
nghiệm và trong vai trò này cùng với các mối quen biết bên ngoài, rất dễ dàng
tìm kiếm những tin tức liên quan đến những người đang ăn chặn hoặc phá hoại
những sản phẩm xăng dầu kể trên.
Johnson đề nghị Hà Lê cộng tác bằng cách thu thập những tin
tức quan trọng. Ông cũng khuyến cáo trước là công việc cũng có hiểm nguy. Một
khi bị nhận diện là người cung cấp tin tức cho CIA, cuộc sống của Hà Lê sẽ gặp
nhiều nguy hiểm. Ngược lại ông cũng khẳng định nếu Hà Lê giữ kín chuyện này thì
nguy cơ bị khám phá gần như không xảy ra. Johnson cũng hứa sẽ giữ kín miệng,
không tiết lộ cho bất kỳ ai trong căn cứ CIA, đồng thời sẽ cất giữ rất ít hồ sơ
dính dáng đến việc hợp tác của Hà Lê. Những hồ sơ liên quan đến công việc của Hà
Lê sẽ do chính ông thường xuyên tiêu hủy.
Nhưng Hà Lê là một người rất thận trọng. Bà không nhận lời đề
nghị của Johnson liền tức thì. Nhưng cũng không từ chối. Bởi lẽ bà cần phải thảo
luận với chồng và thân phụ. Johnson cũng thấu hiểu và cho bà một tuần để suy
nghĩ.
Hà Lê quyết định không nói gì với chồng. Nhưng bà đã thảo luận
với thân phụ. Ông cụ đã chăm chú lắng nghe con gái. Sau khi cân nhắc, ông đã
nhắc nhở Hà Lê vai trò của người chị cả trong gia đình là phải có trách nhiệm
chăm nom cho đám em út. Bà cũng thưa với bố là bà không hề lãng quên bổn phận
này. Nhưng bà cũng trình bày với bố nếu có thể làm một điều nào đó để hỗ trợ cho
sự tồn vong của miền Nam cũng có nghĩa là không những bà đã bảo vệ được quyền
lợi của các em út trong gia đình mà còn cho tất cả người dân trong nước.
Thân phụ cũng đề cập đến những sơ hở trong mạng lưới tình báo
của Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Theo ông, CIA đã mua tin tức từ hàng trăm người Việt
nhưng phần lớn những người này chỉ thu lượm tin tức từ báo chí trong nước rồi
cung cấp cho CIA. Điều này mọi người đều biết rõ. Ông cũng khuyến cáo Hà Lê vì
CIA không có khả năng giữ bí mật cũng như khả năng thu thập tin tức. Và ông cũng
chẳng hề ngạc nhiên nếu những người cung cấp tin tức mà Mỹ đang tin tưởng cũng
hoạt động ngầm cho phe Việt Cộng.
Hà Lê thưa lại rằng đó là lý do tại sao một người như bà có
thể giúp ích cho người Mỹ và giúp ích cho quê hương. Bà có thể nghe ngóng, lượm
lặt những tin tức mà người khác không hề có điều kiện để làm. Vì thế chuyện này
cũng nên làm lắm chứ?
Thật ra bà chẳng mua bán gì cả. Vì Johnson chẳng hề hứa hẹn
trả tiền hoặc đền bù gì.
Ông chỉ hứa tạo cơ hội để giúp đỡ miền Nam. Sau khi khuyến cáo
bà nên lo lắng cho an toàn bản thân trước hết, luôn dòm trước ngó sau trong mọi
hành xử và không nên liều mạng khi không cần thiết, thân phụ của Hà Lê đã ưng
thuận cho phép bà cộng tác với Bill Johnson. Sau đó vài ngày Hà Lê cho Johnson
hay là bà sẵn sàng cộng tác.
Lúc ấy bà đã giữ chức giám đốc phụ tá về liên hệ công chúng
đồng thời cũng kiêm luôn trưởng kỹ sư hóa học và trưởng phòng thí nghiệm. Nhưng
có một nhân viên cấp dưới tuy làm việc chung với bà mỗi ngày nhưng lại hay kiếm
chuyện. Y cũng là một người lãnh đạo của công đoàn. Thoạt đầu bà cứ tưởng người
này khó chịu vì y không thích làm việc dưới quyền một phụ nữ. Y rất mạnh miệng
trong việc chê bai chỉ trích chính quyền miền Nam. Đôi khi y cũng kín đáo bày tỏ
sự ủng hộ phe cộng sản. Khiến đôi lúc bà cứ tưởng y ta cố tình khiêu khích. Bà
nhớ lại “Tôi có nói với y là nếu tiếp tục gây khó khăn thì tôi cũng dư khả năng
ứng xử. Nhưng tôi không muốn căng thẳng như vậy. Chúng ta đều là người Việt và
chúng ta nên tôn trọng và cư xử đàng hoàng với nhau. Chúng tôi có quyền bất đồng
ý kiến về nhiều vấn đề. Nhưng chúng ta cũng có nhiều điểm tương đồng. Hãy tập
trung vào việc làm và đừng đụng chạm gì đến chính trị tại công ty này. Tôi và
anh đều tôn trọng lẫn nhau thì mọi việc đều yên ổn.”
Nhận thấy các nhân viên khác có vẻ nể vì người đại diện công
đoàn này, bà bắt đầu để ý đến công việc của y. Trong một thời gian ngắn, bà phát
giác ra anh ta cùng một số người làm chung đã phá hoại những thử nghiệm về xăng
dầu. Theo lời bà “Mỗi khi có một cuộc hành quân qui mô trong rừng, mỗi lần một
đơn vị quân đội di hành hoặc cuộc bành binh bố trận lớn, xà lan được điều động
lên sông Long Bình để chuyên chở hàng nhu yếu phẩm, nhiên liệu cho máy bay, cho
các xe tải. Nhân viên trong Esso đều biết rành về chuyện xà lan dầu, bởi vì
trước khi được chuyển đi chúng tôi phải xét nghiệm phẩm chất. Mọi phá hoại và
đình trệ đều bắt nguồn ngay tại đây.
Hà Lê giải thích “Các sản phẩm xăng dầu thường được tinh lọc
từ các nhà máy bên Singapore. Sau đó chúng tôi sẽ xét nghiệm mẫu lấy từ các tàu
chở dầu trước khi giao cho quân đội. Chúng tôi cũng kiểm định thêm một lần nữa
khi các xe bồn và xà lan chở xăng dầu đến nơi nhận. Sự ô nhiễm có thể xảy ra tại
thời điểm nhập khẩu hoặc trong quá trình vận chuyển hoặc tại nơi nhận hàng. Vì
thế cần phải có nhiều lần xét nghiệm và nếu kết quả không như ý muốn tại một
trạm, toàn bộ chu trình sẽ bị đình trệ. Quân đội và phi cơ sẽ không có nhiên
liệu để vận chuyển. Và mỗi lần xà lan bốc dỡ hàng hóa ai cũng biết và từ đó họ
có thể nhắn tin đến một ai khác để phe họ báo trước cho VC những gì sắp xảy ra
hoặc gây ô nhiễm nhiên liệu khiến chiến dịch hành quân bị chậm trễ.
“Chúng tôi cũng có phòng xét nghiệm ở căn cứ quân sự Long Bình
và ngay tại cơ sở của chúng tôi ở các phi trường Tân Sơn Nhất, Nha Trang, Qui
Nhơn và Đà Nẵng. Ở mỗi nơi chúng tôi thường thiết lập một phòng thí nghiệm chỉ
đủ khả năng thử nghiệm sơ sài mà thôi. Sau đó tự tôi xét nghiệm lại toàn bộ. Kết
quả cho thấy không có ô nhiễm gì nhiều. Cho nên tự nhiên cùng một lúc, rất nhiều
trường hợp xăng dầu bị ô nhiễm khiến tôi nghi ngờ có điều không ổn đang xảy ra”.
“Chúng tôi cũng thử nghiệm tất cả nhiên liệu của Campuchia và
Lào cũng như miền Nam Việt Nam. Mỗi lần họ gửi mẫu sang cho chúng tôi, coi như
máy bay của họ chờ sẵn trên phi đạo chỉ chờ kết quả ok là máy bay cất cánh ngay
cho phi vụ. Trong một số trường hợp rắc rối khi nhiên liệu bị ô nhiễm hoặc một
người lỡ tay làm rớt mẫu v..v thì mẫu mới sẽ phải được chở qua bằng máy bay,
phiền hà lắm … Bất cứ điều gì có thể làm trì trệ chu trình thử nghiệm vài giờ
hoặc thậm chí một ngày, vừa đủ thời gian để ai đó báo tin cho phe địch. Khi
chúng tôi quyết định một đợt nhiên liệu đã bị ô nhiễm, chúng tôi phải tốn thì
giờ chờ mẫu mới và đợt xăng dầu nhiễm bẩn đó sẽ bị hủy bỏ ngay lập tức.”
Dần dần Hà Lê nhận rõ rằng nhiên liệu đã không bị nhiễm bẩn
trong lúc chuyên chở hoặc ngay giữa mặt trận. Việc phá hoại này được sử dụng như
một chiến thuật trì hoãn và chỉ có thể xảy ra ngay tại phòng thử nghiệm mà thôi.
Bà nhớ lại “Một khi bắt đầu nghi ngờ tôi đã để ý và biết ngay
những gì đang xảy ra một cách nhanh chóng. Tôi cũng rất ngạc nhiên không hiểu
tại sao tôi đã không nhận biết vấn đề này sớm hơn. Có lẽ tại tôi đã quá tin
tưởng vào sự trung trực của mọi nhân viên trong nhóm xét nghiệm. Dĩ nhiên chúng
tôi thường bất đồng về quan điểm chính trị và nhiều vấn đề khác. Nhưng tôi không
hề nghĩ rằng những bất đồng này sẽ dẫn đến việc phá hoại ngay trong công ty. Tôi
quyết định cứ mỗi lần xét nghiệm tôi sẽ lấy hai mẫu.” Và Hà Lê đã không cho bất
kỳ ai hay biết về điều này. Bởi lẽ bà có thể nghĩ sai.
Trong khi các nhân viên xét nghiệm trên các mẫu chính thức, bà
cũng thử nghiệm trên mẫu của riêng mình. Ngay lập tức bà nhận thấy sự khác biệt
trong kết quả thử nghiệm của mình so với của nhân viên. Theo kết quả của bà mọi
nhiên liệu đều tinh chất. Nghĩa là các cuộc không kích và chiến dịch tấn công có
thể diễn ra ngay lập tức. Các mẫu do các nhân viên đã xét nghiệm lại bị ô nhiễm
– nghĩa là phi vụ và các cuộc hành quân phải bị trì hoãn.
Khi nhận thấy sự khác biệt giữa các xét nghiệm của chính bà và
những người đồng nghiệp, bà đã bình tĩnh yêu cầu nhiên liệu được xét nghiệm thêm
một lần nữa “trước mặt tôi”.
Một số nhân viên phòng thí nghiệm đã phản đối, trong đó có
người đứng đầu công đoàn – nhưng cuối cùng họ cũng làm theo lời yêu cầu của bà.
Một số người tò mò. Một số người thắc mắc. Một số nhân viên đã hỏi “Có chuyện gì
vậy? Bộ bà không còn tin tưởng kết quả xét nghiệm của chúng tôi? Bộ bà không còn
tin tưởng khả năng làm việc của chúng tôi?”
Bà trả lời “Vấn đề không phải như vậy.”
Một kỹ sư hóa nói “Tôi đã làm việc ở đây lâu hơn bà.” Và bà đã
trả lời, “Vâng, ông đã làm việc lâu hơn tôi. Nhưng bất cứ ai cũng có thể làm
sai.” Khi một số nhân viên có vẻ bất ổn, bà giải thích “Xét nghiệm sai lầm sẽ
tạo hậu quả. Hủy bỏ toàn bộ một lô hàng nhiên liệu có thể phí phạm hàng chục
triệu đồng. Quí vị có hiểu vấn đề hao tốn này không? Tôi hoàn toàn chịu trách
nhiệm cho công việc của phòng thử nghiệm này. Tất cả trách nhiệm đè nặng trên
vai tôi. Tôi cần phải thông báo là chính mắt tôi đã chứng kiến các cuộc xét
nghiệm và kết quả cho thấy xăng dầu không còn tinh chất. Chứ chẳng phải tôi
không tin tưởng vào phẩm chất làm việc của các bạn. Tin tôi đi. Chỉ là vấn đề
trách nhiệm mà thôi – trách nhiệm của chính tôi! Tôi chỉ muốn tận mắt chứng kiến
các xét nghiệm.” (Bà đã không đề cập đến việc chậm trễ cũng tạo thời gian cho
phe địch biết trước về một cuộc hành quân sắp xảy ra.)
Bà nhớ rõ là nhân viên đã đồng ý xét lại các thử nghiệm. Kết
quả lần hai thường khác hẳn kết quả lần đầu. Các nguyên liệu đều tinh chất. Bà
kể thêm “Chúng tôi nghỉ ngơi một chút,” rồi xét nghiệm mẫu lần thứ ba. Kết quả
lại tốt nữa. Tôi lên báo cáo với cấp trên “mẫu ok rồi.” Tôi đã cho Đỗ Nguyễn hay
rằng các xét nghiệm cho thấy nhiên liệu không hề ô nhiễm. Ông ấy cứ hỏi tôi- lập
đi lập lại- xét nghiệm mấy lần rồi. Tôi nói với ông ta đã thử ba lần rồi và có
hai lần xét nghiệm cho kết quả tốt. Đôi khi ông Đỗ yêu cầu xét nghiệm thêm lần
thứ tư và kiếm lý do trì hoãn. Tôi có cảm giác ông ấy có vẻ thất vọng khi kết
quả cho thấy nhiên liệu tốt. Nhưng tôi đã phải thực hiện những gì ông ấy đòi
hỏi.
Bà thông báo với Johnson những gì bà đã phát giác, nhưng không
điềm chỉ một ai. Bà không muốn những kẻ bị nghi ngờ phá hoại phải đón nhận hậu
quả. Mọi khiển trách từ người ngoài đối với bất cứ nhân viên trong bộ phận của
bà sẽ khiến mọi người biết ngay bà là người chỉ điểm (bà biết rõ như vậy) . Do
đó sự đóng góp của bà cùng sự nghiệp, cuộc sống của bản thân, cuộc sống của
những người thân trong gia đình sẽ gặp nguy hiểm. Bà nói với Johnson bà cần thêm
thời gian để theo dõi kỹ lưỡng hơn, để biết sự phá hoại đã lan rộng đến mức độ
nào trong phòng thử nghiệm. Bà có thể ngăn chặn các sơ sót trong các bộ phận nếu
bà có thể khám phá ra đường lối tổ chức và những nhân viên chủ chốt là ai.
Johnson có vẻ hài lòng với những thành quả của bà và đồng ý chờ đợi trong khi bà
tìm cách giải quyết để giảm thiểu sự chậm trễ trong việc cung cấp nhiên liệu.
Trong những tuần lễ kế tiếp bà tiếp tục xét nghiệm mẫu hai
lần. Bà kể “Tôi giữ kín mối nghi ngờ trong đầu. Tôi không biết đường dây phá
hoại lan rộng đến cỡ nào và tôi không muốn những nhân viên vô tội bị khiển trách
và buộc tội. Tôi chắc chắn rằng các người phá hoại đã làm việc cho một người nào
khác. Sau đó một tháng tôi cho hội họp tất cả nhân viên. Tôi bảo với họ “Quí vị
cũng biết tôi mới vào công ty này. Nhưng tôi cũng đã ở công ty đủ thời gia để
nhận biết chuyện gì đang xảy ra. Tôi sẽ không nêu tên hay vạch tội bất kỳ ai.
Tôi luôn tạo cơ hội cho mọi người. Vì tôi mới giữ chức vụ này nên tôi có thể bị
sa thải nếu vấn đề này tiếp tục xảy ra. Với bằng cấp chuyên môn, không làm ở đây
thì tôi vẫn dễ dàng kiếm việc làm tại công ty Shell hay CalTex . Nhưng về phần
quí vị nếu đã bị sa thải, quí vị sẽ gặp khó khăn kiếm một việc khác. Tôi không
đe dọa quí vị đâu nhé. Tất cả mọi sai lầm đều có lập biên bản trong chồng hồ sơ
đây này.
Rồi bà tiếp tục “Hôm qua, chai và các mẫu nhiên liệu của máy
bay phản lực 1A từ Campuchia đã bị đập bể, và bị ô nhiễm – những mẫu này đã bị
phá hoại ngay tại đây trong phòng thí nghiệm của tôi! Điều này xảy ra liên tục.
Và tôi không nghĩ rằng mọi sự việc hoàn toàn ngẫu nhiên. Tôi phải nghi ngờ vì
chúng xảy ra quá thường xuyên. Bây giờ, tôi có thể bỏ qua và tha thứ cho tất cả
mọi vấn để đã xảy ra tại đây nếu quí vị cam kết từ bây giờ trở đi quí vị sẽ hợp
tác với tôi và hoàn toàn chịu trách nhiệm nếu có vấn đề xảy ra. Tôi muốn mỗi vị
ký tên vào biên nhận của mẫu mình đang xét nghiệm và hoàn toàn chịu trách nhiệm
về mẫu đó. Nếu có điều gì sai lầm xảy ra cho mẫu, chính người ký tên sẽ phải
nhận lãnh mọi hậu quả. Đất nước đang có chiến tranh và nếu chúng ta phạm sai lầm
ngay trong phòng thí nghiệm, chúng ta có thể bị đưa ra trước tòa án quân sự.
Xăng dầu bị ô nhiễm có thể giết người. Ai cũng biết rõ điều này. Máy bay rớt. Xe
tải không lăn bánh. Công việc sai lầm ở đây sẽ gây ra mất mát mạng sống ở nơi
khác. Nếu không muốn nhận lãnh trách nhiệm này, tốt hơn, quí vị nên từ chức ngay
từ ngày hôm nay. Nhưng bất cứ điều gì quí vị muốn, xin vui lòng đừng lập lại
những trò lừa gạt này nữa. Vì làm như thế rất là ấu trĩ và gây chết người.
Bà giải thích thêm “Tôi cũng biết nhân viên của tôi được trả
tiền hậu hỉ để làm chuyện này. Vào thời điểm đó dân nghèo dễ dàng bị giật dây
bởi Cộng Sản. Xã hội lúc ấy có một khoảng cách khá lớn giữa người giàu và người
nghèo gây ra lòng tham lam, sự ghen ghét và cảm giác về sự bất công trong cuộc
sống. Toàn là những động lực rất mạnh mẽ. Phải kể thêm nỗi bất an. Nhất là lo
sợ. Hầu hết các nhân viên của tôi đều có người thân thuộc còn ở nông thôn và gia
đình họ sẽ phải trực diện với những trừng phạt của Việt Cộng nếu họ từ chối hợp
tác. Không ai là không bị ràng buộc và tôi cũng biết rất rõ về điều đó. Không
hợp tác với tôi có nghĩa là họ sẽ mất công ăn việc làm. Nhưng nếu không hợp tác
với VC có nghĩa là những người thân sẽ bị mất mạng. Bạn thấy đấy, họ bị kẹt
cứng. Bởi vì biết tình trạng khó xử này, tôi chỉ có thể giải quyết vấn đề trong
một khuôn khổ hạn hẹp. Tôi phải cho họ một lối thoát. Vì vậy, tôi cố gắng giải
thích thật rõ ràng những điều chúng tôi phải làm. Và trách nhiệm của tôi. Tôi
cũng giải thích rằng tôi còn có cấp trên. Cuối cùng những lời kêu gọi và sự biết
điều của tôi dường như có hiệu quả. Sau đó mọi việc đều tốt đẹp. Càng ngày càng
ít nhiên liệu ít bị ô nhiễm khi xét nghiệm.
Nhưng những nỗ lực của Hà Lê dường như quá ít ỏi và muộn màng.
Là giám đốc liên hệ công cộng, Hà Lê xem xét các tờ báo tiếng Việt lẫn tiếng
nước ngoài. Sau đó bà đúc kết và tường thuật cho Tổng Giám đốc về tình hình
chính trị, kinh tế và quân sự ở Việt Nam. Càng ngày tình hình miền Nam càng
khiến bà lo lắng và quan tâm nhiều hơn. Trong những cuộc họp thường xuyên với
Tổng giám đốc, Edwin “Ed” Ketchum, bà nhận thấy rằng ông ta dường như đã mất
niềm tin vào tương lai của miền Nam Việt Nam. Vào mùa xuân năm 1975, câu hỏi
liệu miền Nam sẽ tồn tại trong bao lâu nữa được nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Sau
một lần đánh giá khá tệ hại, Ketchum đã muốn biết những suy nghĩ cá nhân của bà
về tình hình quân sự. Bà nhớ lại bà đã tần ngần một lúc rất lâu rồi nói rất khẻ
gần như là thì thầm “cứ cái đà này chẳng bao lâu nữa chúng tôi sẽ sụp đổ.”
Ketchum lắng nghe và không hề ngước lên nhìn bà. Ông đã đồng ý với bà. Ông chỉ
trả lời nho nhỏ “ok” rồi đứng dậy bước ra khỏi phòng. Ngày hôm sau bà được thông
báo về dự án di tản những nhân viên nòng cốt của Esso trong trường hợp quân Bắc
Việt tiến gần đến ngoại ô Sài Gòn. Hà Lê cùng chồng và con trai 16 tháng đều nằm
trong danh sách này.
Trong khi đó Johnson rất ngần ngại không muốn chia sẻ quan
điểm ngày càng đen tối về tương lai của Nam Việt Nam với Hà Lê. Ông nghiệm ra
rằng “Watergate đã thay đổi mọi chuyện”. Mùa hè 1974, một phụ tá cao cấp của một
bộ phận khác ghé qua thăm Johnson. Johnson nhớ lại “Tại một bữa ăn tối ông ấy đã
cập nhật hóa những gì đang xảy ra ở Washington cho tôi nghe. Trong quá trình
thảo luận tôi nhận ra một điều rất rõ là toàn bộ bầu không khí ở Washington đã
thay đổi, rằng quỹ viện trợ sẽ bị Quốc hội cắt giảm rất nhiều. Ngân quỹ chẳng
mấy chốc sẽ hết sạch. “Và tệ hơn nữa,” khi đó lệnh cấm vận dầu đã xảy ra và đến
cuối năm 1974 giá dầu tăng gấp bốn lần khiến Chính phủ Việt Nam gặp khó khăn
trong việc cung cấp nhiên liệu cho không lực và bộ binh. Họ đã cắt giảm nhiều
phi vụ và vận chuyển đường bộ chỉ vì không đủ xăng dầu. Thêm vào đó phần lớn
lượng nhiên liệu tồn trữ thường bị phá hoại bởi một ai đó trong chu trình cung
cấp.”
Johnson đã kết luận rằng “Chúng tôi và phe đối nghịch ở Moscow
đã cùng nhận định rằng nếu lực lượng Bắc Việt tổng tấn công thêm một lần nữa như
đợt 1972 thì lần này họ sẽ thành công dễ dàng hơn. Thảm họa đang chờ ở góc
đường”.
Ngày 12/12/1974 cuộc tổng tấn công cuối cùng của quân Bắc Việt
bắt đầu tại tỉnh Phước Long cách xa Sài Gòn khoảng 100km. Quân Bắc Việt đã hoàn
toàn kiểm soát tỉnh lỵ này vào ngày 06/1/1975. Sau một thời gian ngắn, ngày 3/3
quân đội miền Bắc lại khởi sự tấn công Ban Mê Thuột. Quân lực Việt Nam Cộng Hoà
đã tan hàng và rút lui. Các tỉnh Tây Nguyên và các tỉnh phía bắc của Trung Việt
đều lọt vào tay địch và vào đầu tháng tư, mọi người đều thấy rõ là miền Nam sắp
chấm dứt.
Từ tháng giêng cho đến đầu tháng ba năm 1975, Hà Lê tổ chức
các chuyến ủy lạo đến thăm các tiền đồn quân sự gần biên giới với Campuchia và
Lào và các tỉnh cực bắc của đất nước. Bà mô tả “Những nơi hiểm nguy mà lính Thuỷ
Quân Lục Chiến và Bộ Binh đang đóng quân. Chúng tôi mang quà cáp để trao tặng và
cho họ biết người ở hậu phương luôn hỗ trợ các chiến sĩ ngoài tiền tuyến. Đôi
khi tôi rất buồn trong những chuyến ủy lạo này. Những người lính đang chiến đấu
và ngay cả những người đã hy sinh đều có tinh thần rất cao. Tôi thấy rất buồn vì
tôi thấy rõ tình hình bên ngoài đang xấu đi. Tuy nhiên, những người lính này vẫn
nuôi hy vọng trong tim là ít ra họ đang chiến đấu và hy sinh cho một chính
nghĩa. Tôi rất đau khổ vì tôi biết rõ sự thật. Tôi thầm ao ước có đủ can đảm để
tiết lộ sự thật phủ phàng là cái chết của họ hoàn toàn vô nghĩa. Nhưng tôi đã
giữ im lặng.
Sau những đợt ủy lạo chiến sĩ ở tiền đồn, bà đã khám phá
“Nhiều bà vợ của các ông Tướng thuờng xuyên bán gạo và nhu yếu phẫm cho Việt
Cộng để kiếm thêm tiền. Họ biết trước rằng họ sẽ xa rời đất nước này và họ muốn
tích lũy thật nhiều tiền của trước khi đi. Trời oi, họ đã mua ba’n với kẻ thù,
có tin được không?” Bà đã quá xấu hổ về những điều mà chính người đồng hương của
bà đang thực hiện. Nên bà chẳng hề tiết lộ điều này cho Johnson.
Bà cũng đã quả quyết rằng một số lượng đáng kể về xăng dầu và
nhiên liệu cho máy bay phản lực không bao giờ được chuyển giao cho quân lực miền
Nam. Trong khi người Mỹ vẫn khăng khăng tệ nạn tham nhũng hoàn toàn do người
Việt, Hà Lê vẫn nghi ngờ là người Mỹ cũng có dính dáng vào. Nhiều biên nhận cho
các lô hàng dầu từ Singapore thực chất chỉ là “tàu giấy” và “xăng giấy”. Từ
năm 1973, hàng ngàn thùng sản phẩm dầu mỏ đã biến mất. Bill Johnson, báo chí
Mỹ và công chúng Mỹ đã kết tội miền Nam về các sản phẩm mất tích này. Nhưng
trong những lần chuyện trò với những người lính ở tiền đồn và với cha, em trai
và cậu, Lê Hà đã tin chắc rằng tham nhũng không chỉ do người Việt. Người Mỹ cũng
đã dính líu sâu xa vào các hoạt động tham nhũng ở Việt Nam.
Văn phòng Tùy viên Quốc phòng Mỹ- thay cho MACV- cũng bắt đầu
nghi ngờ. Văn phòng Trách nhiệm Chính phủ đã được chỉ định để kiểm toán. Sau đó
FBI bắt đầu việc điều tra. Việc tìm kiếm các sản phẩm dầu mỏ mất tích của FBI
dẫn đến hoạt động của bốn người trong đó có một Mỹ, một Hồng Kông. Họ đã tẩu tán
4.400.000 đô la của ngân quỹ dành cho nhiên liệu cung ứng cho quân đội miền Nam.
Ba trong số những người này chạy thoát nhưng người thứ 4, người Mỹ, đã bị bắt
vào mùa hè năm 1975 ở West Virginia và buộc tội gian lận. Ông nhìn nhận đã hoán
chuyển ngân quỹ dành để cung cấp sản phẩm dầu Nam Việt Nam. Số tiền 900.000
trong tài sản cá nhân đã bị Chính phủ Mỹ tịch thu và ông đã bị kết án 5 năm tù.
Nhưng khi vụ biển thủ này được phơi bày, Nam Việt Nam đã không còn tồn tại.
Vào giữa tháng 3/1975, Hà Lê nhớ lại, “Chẳng ai còn hy vọng gì
nữa”. Một người bạn thân của bà nói rằng vẫn còn hy vọng nếu chúng ta phân chia
nửa phía bắc của miền Nam cho Bắc Việt và nửa phía nam còn lại dành cho một thể
chế cộng hòa. Nhưng Hà Lê nói với người bạn “Không, điều đó sẽ không xảy ra.
Chúng ta đã thua. Mọi việc đã kết thúc. Nam Việt Nam chấm dứt. Và nếu bạn có
điều kiện chạy thoát nơi này bạn nên chuẩn bị ngay bây giờ”.
Đầu tháng 4 em trai của Hà Lê, đại úy không quân, đến thăm bà
ở Sài Gòn và bày tỏ mối quan tâm nghiêm trọng của riêng mình. Ông nói “Chị là
người lớn tuổi nhất trong gia đình. Nên chị phải cách nhanh chóng tìm ra một
giải pháp cho cha mẹ và em út còn lại vì tình hình càng ngày càng nguy hiểm. Đôi
khi em thấy lo sợ lắm. Mỗi khi bay từ trên cao nhìn xuống em thấy tụi Việt Cộng
ngụy trang với các nhánh cây đông như kiến bò trên các ngọn núi. Chúng ta thua
cuộc rồi. Tụi nó không xa lắm đâu. Tụi nó đang bao quanh chúng ta đó. Nhưng mỗi
khi em báo cáo chuyện này với cấp trên, ông ta đều giận dữ, la hét và chế nhạo
em có trí tưởng tượng rất tốt. Cậu em trai của Hà Lê đã tử trận vào ngày
29/4/1975, ngày cuối cùng của cuộc chiến.
Trong khi đó Bill Johnson đã lập kế hoạch để rời khỏi Việt
Nam. Ông nói “Tất nhiên tôi phải lo thu xếp cho Pat rời Việt Nam. Ngày 20/4 cô
ấy sẽ bay qua Bangkok. Tôi sợ rằng mình sẽ không thể làm tròn công việc của tôi
nếu tôi bị chia trí vì phải quan tâm đến sự an toàn của Pat. Vì vậy tôi thu xếp
cho cô ấy rời Việt Nam. Bây giờ nhìn lại tôi mới thấy rất cần sự có mặt và giúp
đỡ của Pat, đặc biệt vào ngày cuối cùng.”
Việc di tản của người Mỹ và Việt Nam “thuộc diện có nguy cơ”
càng trở nên lộn xộn khi tình hình tại Sài Gòn càng hỗn loạn. Johnson đã thông
báo rằng cuộc di tản cuối cùng sẽ xảy ra vào thứ ba 30/4. Ông nói “Nhưng ngày kế
của ngày cuối cùng hóa ra lại là ngày cuối cùng. Để rồi những người lẽ ra phải
được bốc đi lại bị kẹt ở lại.” Hà Lê là một trong những người bị xui xẻo đó.
“Pat có thể đóng một vai trò lớn trong những phút chót đầy rối rắm và lộn xộn để
tổ chức những cú điện thoại, chuyển người đến các điểm di tản và những điều
tương tự. Tôi đã cố gắng hết mức nhưng không cách nào lo liệu cho xuể.”
Vào sáng 29/4 trong khi Johnson chở các thành viên của một ủy
ban giám sát quốc tế từ sân bay Tân Sơn Nhất đến khách sạn Đức ở Sài Gòn, qua
radio của bên trong tòa đại sứ một người phụ nữ hét toáng lên “Johnson, xách đít
trở về đây càng sớm càng tốt”.
Ông lấy theo duy nhất một túi xách tay và bảo tài xế đưa ông
đến Đại sứ quán. Khi đến đó một đám người đông nghẹt đang bu quanh. Bác tài
không cách chi đưa ông đến trước tòa đại sứ với đám đông như thế. Ông đành xuống
xe cách đó hai con đường. Xong ông từ biệt tài xế và tặng luôn chiếc xe cho
người này.
“Tôi chen lấn trong đám đông và tiến tới gần cửa sau của tòa
đại sứ. Hầu hết những người Việt đang bu ở cổng sau đều nhận ra tôi. Đây là
những người tuyệt vọng đang cố gắng tìm cách chen vào bên trong tòa đại sứ để
lên trực thăng rời khỏi Việt Nam. Nhưng họ nhường lối cho tôi lách vào và lính
gác mở cổng cho tôi. Khi đến nơi văn phòng đang bị cháy vì vậy tôi phải đi thẳng
vào tòa nhà chính.”
“Trong văn phòng của tôi có một máy xé sợi và một máy đốt và
ai đó trong lúc quá hăng say đã đốt tất cả giấy tờ hồ sơ khiến các vật dụng
trong phòng cũng bị bốc cháy. Căn phòng không bị hư hoại hoàn toàn nhưng tất cả
mọi thứ bên trong đã bị thiêu rụi. Chúng tôi nhận được điện tín từ Washington
báo tin trọng pháo hiện đang bắn phá Tân Sơn Nhất sẽ quay hướng chỉa về khuôn
viên tòa đại sứ lúc 6:00 chiều. Tin này xuất phát từ những liên lạc về thông tin
mà NSA (Văn Phòng An Ninh Quốc Gia) đã thu xếp. Lệnh di tản đã được gởi đi trước
khi chúng tôi có cơ hội để trả lời.
“Thủy quân lục chiến do trực thăng chở tới bắt đầu xuất hiện
và bắt đầu canh gác xung quanh tòa Đại sứ. Đúng 6:00 chiều, chúng tôi đứng nhìn
đồng hồ. Và ngay lúc đó một quả đạn bắn ngay vào phần trên của chung cư bốn tầng
gần sát tòa đại sứ. Đây là điều duy nhất xảy ra vào lúc 6:00 giờ chiều. Chỉ một
viên trọng pháo.
“Tôi bèn đi ra sân để giúp kéo người trèo qua mấy bức tường. Ở
bên ngoài có hàng ngàn người đang tìm mọi cách để leo vào bên trong. Đồng thời
bên trong nhân viên chúng tôi đang phá hủy mọi tài liệu. Khắp nơi máy đốt và máy
xé làm việc liên tục. Tôi dành phần lớn thời gian gọi điện thoại cố liên lạc với
những người ở quanh Sài Gòn và cho họ hay để họ rời Việt Nam hoặc tìm đường đến
địa điểm tập trung. Hệ thống điện thoại chết tiệt lúc ấy đang bị kẹt cứng nhưng
chưa đến nổi hoàn toàn tê liệt. Tôi không thể liên lạc với Holly (Hà Lê) và điều
này khiến tôi rất lo lắng. Tôi lo cho bà ấy thật nhiều.
“Tôi chạy xuống cổng và nhìn bên ngoài để tìm Holly. Tôi cũng
kéo thêm một số người cùng giỏ xách vượt qua bức tường. Buồn thãm lắm. Tình hình
bấy giờ thật thê thãm. Tôi tiếp tục gọi điện thoại cho Holly nhưng không thành
công. Thỉnh thoảng tôi lại chạy ra cửa và tìm kiếm bóng dáng cua Hà Lê. Nhưng cô
ấy vẫn biệt tăm.”
Tối hôm đó, Johnson cùng với Frank Snepp, Tướng Charles Timmes
và Ken Morefield (1 tùy viên của đại sứ Martin) leo lên trực thăng đi khảo sát
tình hình chung quanh. “Lúc trực thăng vừa cất cánh, tôi nhìn xuống và nhận thấy
xe cộ trong sân đều bị đốt. Lửa cháy sáng rực trong đêm. Tôi đã quá mệt nên ngủ
thiếp đi và Timmes đã lay tôi dậy khi chúng tôi bay ngang qua kho đạn phế thải
Long Bình. Lạy Chúa tôi, y như một màn pháo bông. Phía dưới chúng tôi là một
biển lửa đang bùng nổ. Trong lúc chúng tôi đang ngắm nhìn cảnh tượng này, đột
nhiên thấy dấu đạn đỏ bắn lên gần hướng chúng tôi, nhưng không trúng. Timmes nói
điều này là rất lạ lùng vì chúng tôi dư biết Việt Cộng đã có hỏa tiễn SAMS nhưng
họ không muốn bắn. Thay vào đó, họ bắn súng tự động như một kiểu dằn mặt để nhắc
nhở chúng ta về những gì đang xảy ra. Làm như thể chúng tôi cần được nhắc nhở!!!
Lúc đó trực thăng đã bay thoát khỏi tầm bắn và chúng tôi vẫn còn thấy dấu đạn
bắn lên, lơ lửng một chút rồi rồi rơi xuống đất.
Johnson kể tiếp “Chúng tôi đã tạm dừng cánh ở Denver rồi bay
qua Subic Bay. Sau đó chúng tôi được đưa tới Manila. Rồi qua Guam và chuyển vào
một căn lều trong Orote Point để tìm kiếm những người thất lạc trong nhóm. Tôi
tìm kiếm Holly nhưng không hề thấy bóng dáng của bà đâu cả. Tôi bắt đầu lo sợ.
Điều tồi tệ nhất đã xảy ra. Chúng tôi giao cho một cô gái vừa đạp xe vừa la lớn
qua một cái loa. Cô ta chạy vòng vòng khắp trại đọc tên của tất cả nhân viên,
thông báo nơi họ cần tập trung.” Trong những ngày cuối cùng của tuần lễ chót
trước khi người Mỹ di tản, khi quân đội Bắc Việt tiến gần đến Sài Gòn, Johnson
thường xuyên gọi điện thoại và quả quyết với Hà Lê rằng ông ta sẽ đem bà cùng
chồng con ra khỏi Việt Nam và tất cả các hồ sơ giấy tờ liên hệ đến bà đều được
hủy bỏ. Ông cho Hà Lê hay chính phủ Mỹ sẽ rút hết người Mỹ về nước vào ngày
30/4. Ông cũng hứa sẽ sắp xếp cho song thân của bà và những người em còn lại rời
khỏi Việt Nam.
Lê Hà và chồng sống trong một khu nhà biệt lập của Ngân hàng
Trung ương Việt Nam về phía Bắc của cầu Newport. Johnson đã dặn dò “Cứ ở yên
trong nhà và chờ đợi cú điện thoại của tôi. Ông chỉ thị cho bà và chồng mỗi
người chỉ nên xách một túi nhỏ khi di tản. Hai vợ chồng Hà Lê đã chuẩn bị xong
túi xách và ở nhà chờ tin của Johnson. Họ không được thông báo cuộc di tản đã
được dời sớm hơn 24 tiếng, khởi sự vào ngày 29/4 thay vì 30/4. Johnson đã không
thể liên lạc với bà trong ngày 29 và cứ thế bà mòn mỏi chờ đợi một cú điện thoại
không bao giờ tới.
Bà nhớ lại “Lúc 3 giờ sáng 29/4 chúng tôi nghe tiếng la ó khắp
nơi và trong ánh sáng chạng vạng đầu ngày chúng tôi nhìn thấy những người lính
Bắc Việt chạy khắp nơi. Nhưng họ chẳng thèm để ý đến chúng tôi.Tôi mới bàn với
chồng “Chúng ta phải rời khỏi nơi đây ngay tức khắc. Chúng ta đi đến bờ sông, và
nếu cần phải bơi qua chúng ta cũng bơi luôn. Nếu ở đây chúng ta sẽ chết cứng.
Chúng tôi đi bộ đến sông – đi xe rất nguy hiểm vì hai phe đang đánh nhau ở hai
bên cầu. Có con thuyền tam bản đang đưa người qua lại và họ đòi 100.000 đồng
[khoảng $US 1700] nếu chúng tôi muốn qua sông. Tôi bàn với chồng giá cả bao
nhiêu cũng phải đi qua sông. Tuy không có tiền mặt, nhưng chúng tôi có một số
vòng vàng và các thứ có giá trị khác trong hai túi xách. Tôi sẵn sàng đánh đổi
mọi thứ để qua sông. Tới luc này trời sáng hẳn. Chúng tôi nhìn thấy hàng chục
trực thăng Mỹ bay tới bay lui dọc theo sông từ phía Sài Gòn. Tôi đoán trực thăng
đang chở người ra tàu Mỹ.
“Một khi qua sông, chúng tôi đã đến được nhà song thân.Ông vẫn
còn ở nhà với mẹ tôi và ba em gái với bốn em trai. Tất cả đang lắng nghe radio.
Chúng tôi nghe cậu tôi, Vĩnh Lộc, tuyên bố ông đang chỉ huy đội quân bảo vệ Sài
Gòn và ông sẽ chiến đấu đến giờ phút chót. Mẹ tôi mới nói “thôi, không phải lo
chi nữa, bây giờ con không cần phải rời Việt Nam.”
“Lúc đầu, tôi nghĩ song thân có thể chạy trốn về phía nam, đảo
Phú Quốc và ẩn nấu tại đó cho tới khi cậu tôi (Vĩnh Lộc) và Quân đội miền Nam ổn
định tình hình như họ đã thành công trong 1968 và 1972. Một khi Bắc Việt và Việt
Cộng bị đẩy lùi, cha mẹ tôi có thể trở lại Sài Gòn.
Nhưng không hề có bất kỳ một chống trả nào ở Sài Gòn từ lực
lượng quân sự của cậu tôi. Đài phát thanh Sài Gòn ngưng hoạt động hẳn. Tôi chẳng
còn gì để hy vọng. Sự kết thúc của thế giới chúng tôi chỉ là trong gang tấc.Tôi
bảo cha tôi nên rời khỏi nơi đây kẻo không còn kịp. Tiền thưởng của Việt Cộng
dành cho sự bắt giữ ba tôi vẫn còn đó. Ông phải ra đi trước nhất. Ông phản đối
và nói rằng ông không thể bỏ chúng tôi lại Việt Nam”.
Tại bến tàu đang có rất nhiều tàu rời Sài Gòn chở đầy người tị
nạn. Mỗi người phải trả 200 đô Mỹ. Tất cả chúng tôi đều muốn ra đi, nhưng không
có đủ tiền mặt. Phần lớn tiền bạc của chúng tôi bị kẹt tại ngân hàng. Chúng tôi
gom góp được tổng cộng là 800 đô đủ cho 4 người lên tàu. Tôi nghĩ rằng cha tôi,
người em trai (quân cảnh) và một cậu em trai khác -giám đốc sản xuất cho công ty
sữa Foremost ở Sài Gòn – nên đi đầu tiên. Còn lại có 200. Tôi nói với chồng tôi
nên ra đi nhưng ông ấy không chịu bỏ tôi ở lại. Tôi nói với một cậu em khác – từ
Tân Tây Lan trở về Việt Nam cách đây sáu tháng- tôi muốn em ấy lên tàu luôn. Và
đó là hết toàn bộ 800 đô Mỹ. Lúc đầu em trai tôi đã từ chối vì sợ rằng Cộng Sản
sẽ giết vợ chồng tôi nếu chúng tôi bị kẹt lại. Nhưng mẹ tôi thuyết phục em và
nói rằng nếu ở lại tình hình sẽ tồi tệ hơn cho gia đình. Vì vậy, em đã tham gia
3 người kia và rời khỏi Sài Gòn trên một chiếc thuyền dân sự. Phần còn lại của
đại gia đình chúng tôi quay về nhà và chờ đợi những điều phần số đã an bày.
Bà nhớ lại “Sáng hôm sau – 30 /4 – lính Cộng Sản tràn ngập
trong thành phố. Chúng tôi nghe tin là xe tăng của họ đã ủi sập hàng rào Dinh
Độc Lập. Chúng tôi ra ngoài đường để nghe ngóng và khi thấy chiếc xe tăng và xe
tải chạy đầy đường chúng tôi rất lo sợ. Tổng thống cuối cùng của miền Nam, Dương
Văn Minh xuất hiện trên truyền hình và tuyên bố rằng ông đã bỏ cuộc. Chúng tôi
sợ đến độ muốn chết điếng. Chúng tôi đang sống trong một cơn ác mộng hãi hùng.
Vâng, chúng tôi biết chuyện này sẽ xảy ra. Nhưng đồng thời không hiểu sao chúng
tôi đã phủ nhận chuyện này. Cuối cùng, chuyện cũng xảy ra và rất ư đột ngột.
Chúng tôi cứ tưởng Việt Nam sẽ như Campuchia và ít ra cũng một tháng chiến đấu
sẽ diễn ra ở vùng ven biên của thành phố trước khi Sài Gòn bị thất thủ. Chúng
tôi không bao giờ ngờ rằng Sài Gòn bị bỏ hoang và quân Bắc Việt ngang nhiên tiến
vào thành phố như thế.”
“Ngày hôm sau, qua đài phát thanh và truyền hình những người
có chức vị mới ra lệnh cho chúng tôi phải trở lại làm việc. Khi cả ba chúng tôi
(chồng, người em và tôi ) quyết định đi làm trở lại. Chúng tôi ngồi lại và tôi
đã kể cho họ nghe những điều tôi được nghe từ ông cụ: “họ sẽ muốn biết về cha,
về những em trai và về gia đình của chúng ta. Đối với Cộng Sản, câu chuyện cả ba
chúng ta kể phải giống y hệt nhau. Chúng ta phải đồng nhất trong mọi chuyện,
chúng ta không thể nói dối và bị họ khám phá. Nếu họ biết sự thật về gia đình
chúng ta, hoặc chúng ta bị thủ tiêu hoặc bị tống cổ lên vùng kinh tế mới ở một
nơi xa xôi hẻo lánh.” Những điều này đã xảy ra ở Campuchia. Chúng tôi dự kiến
mọi chuyện sẽ y như vậy ở Việt Nam. Vì vậy, chúng tôi cùng ngồi lại và bịa đặt
ra toàn bộ câu chuyện hư cấu về gia đình cùng những câu trả lời khi bị tra hỏi.
Chúng tôi sao chép tất cả cho mọi thành viên trong gia đình. Rồi chúng tôi đã
thức nguyên đêm để học thuộc lòng từng chi tiết. Chúng tôi sẽ khai rằng cha tôi
có vợ lẻ nên ông cụ đã không sống chung với chúng tôi. Dĩ nhiên điều này không
có thật nhưng đó là một chi tiết hay. Chúng tôi cũng bảo với họ rằng ông đã bỏ
nhà đi lâu rồi và chúng tôi không hề biết nơi ăn chốn ở của ông. Và những người
em trai khác đã bị chết mất tiêu rồi.”
“Chúng tôi đã học thuộc lòng mọi chuyện và và chúng tôi cũng
thay phiên nhau thao dợt những câu trả lời. Cô em gái út của tôi lúc đó mới 14
tuổi nên chúng tôi đã ép cô học thật kỹ và trả lời mọi câu hỏi thật thông suốt.
Tôi biết họ sẽ cố gắng chi phối em của mình, và họ sẽ chẳng bao giờ tin tưởng cô
ngay cả khi cô được họ giao việc. Tôi kể cho em gái nghe về những người bạn ở
miền Bắc đã từng làm việc chung với Cộng Sản mấy chục năm nhưng họ vẫn muốn đào
thoát. Nên tôi dặn em không được tin bất cứ câu chuyện gì hoặc lời hứa nào. Bất
kể họ dụ ngọt như thế nào cô ấy phải theo đúng câu chuyện chúng tôi bịa đặt ra.
“Chúng tôi trở lại làm việc. Chúng tôi bị tra hỏi khoảng hai
mươi lần khi viết báo cáo về lý lịch gia đình và cá nhân. Họ đến tận nơi làm
việc và đến thẳng nhà để điều tra. Chúng tôi phải tham gia các cuộc hội họp và
mọi người cứ phải viết đi viết lại lý lịch cá nhân thật nhiều lần. Chúng tôi bị
chất vấn gần như mỗi ngày về những chi tiết kê khai trong lý lịch cá nhân.
“Đỗ Nguyễn, người Việt Nam duy trong Ban chấp hành Esso và
người cầm đầu bộ phận tổ chức, tiếp thị và cung cấp, đã chào mừng tôi ngay tại
văn phòng của ông ấy khi tôi trở lại công ty. Bây giờ ông có tên mới cùng trang
phục mới. Ông mặc bộ đồng phục của quân đội Bắc Việt và tự giới thiệu ông là
Đồng chí Đồng Văn Chi. Ông cũng tự khoe rằng ông đã từng là đảng viên của Đảng
Cộng sản và một hoạt động viên cho phe Cách Mạng trong hai thập niên qua. Tôi
cũng biết được Cộng Sản đã sử dụng một trong những người cấp trên của tôi,
Nguyễn Ngọc Châu, để phá hũy bồn lưu trữ và xe chở xăng dầu của Eso. Ông đã cung
cấp cho một người anh bà con (cán bộ cộng sản nằm vùng ở miền quê) những tọa độ
chính xác của cơ sở chúng tôi, xe chở dầu và thời khóa biểu giao xăng để sau đó
mọi thứ đều bị hỏa tiễn phá hũy. Ông ta khá tự hào về thành quả của mình. ”
Bà kể thêm “Số cán bộ nằm vùng của phe địch hoạt động ngay
trong Esso không chỉ 2 người này. Một số kỹ sư hóa học khác cũng là người cộng
sản và bây giờ họ mới công khai tiết lộ danh tính và gốc gác thực sự. Qua cách
kể chuyện, rõ ràng rằng họ đã không nói những điều này chỉ để lấy lòng chế độ
mới hoặc vì muốn bảo vệ cho sự an toàn của gia đình ở vùng quê. Họ đã là tín đồ
thực sự của Cộng Sản từ lâu lắm rồi.”
Hà Lê luôn lo ngại có ngày họ sẽ tìm ra danh sách những nhân
viên của Esso được ưu tiên bốc đi khỏi Việt Nam. Bà được xếp dạng ưu tiên A.
Ngày 29/4 Công ty Esso bên Mỹ đã đưa chiếc tàu Esso Adventure đến Vũng Tàu để di
tản nhân viên ra khỏi Việt Nam. Nhưng rốt cuộc phe Cộng Sản đã tìm thấy danh
sách di tản này. Một nhóm người đã đến thẳng nhà riêng của Hà Lê để làm việc. Bà
được lệnh phải khai rõ công việc và chức vụ tại Esso và chức vụ của chồng trong
ngân hàng. Sau khi cung cấp một bản báo cáo được chỉnh sửa cẩn thận về nghề
nghiệp của mình và của chồng, bà đã được ở lại Sài Gòn nhưng chồng phải tham dự
trại học tập cải tạo. “Họ tuyên bố rằng thật ra họ cũng muốn cho tôi tham dự
trại cải tạo, nhưng thay vào đó họ cho phép tôi được học tập cải tạo ngay tại
nơi làm viêc, nghĩa là tôi phải tham dự các cuộc học tập chính trị căng thẳng
ròng rã trong ba ngày liên tiếp tại công ty. ”
Các viên chức cao cấp của chế độ mới tại thành phố Hồ Chí Minh
đã đồng ý cho Hà Lê ở lại Esso vì chuyên môn và kinh nghiệm. Tuy vậy tiền lương
bà được trả rất thấp chỉ bằng 2% mức lương trước kia. Mức thu nhập đó không cách
chi nuôi sống nổi 3 người trong nhà: mẹ, cô em gái và Hà Lê. Vì vậy, họ đã bán
hết mọi thứ của cải có giá trị – đồ trang sức, đồng hồ, chén đĩa, xe đạp, đồ
gốm, quần áo và chiếc xe hơi. “Những người Cộng Sản và dân Bắc Việt xúm lại mua
tất cả các món hàng này. Lúc đó giá cả thật có lợi cho người mua.”
Mùa thu 1975, một số cán bộ Cộng Sản cao cấp đến nhà và buộc
tội bà đã từng làm việc cho Mỹ. Bà lo ngại họ đã tìm thấy hồ sơ giấy tờ của Bill
Johnson. Nhưng may thay họ đã không hề nhắc tới Johnson. Họ vẫn tiếp tục nhắc
tên Ed Ketchum và những quản lý người Mỹ khác tại Esso. Bà nói. “Tôi nhìn nhận
rằng tôi đã làm việc cho Esso. Nhưng cũng xin nhắc lại rằng tôi đã được đào tạo
chuyên ngành về khoa học và kỹ thuật. Vì người Mỹ cần một người có khả năng như
tôi nên họ phải mướn và trả lương cho tôi mà thôi.”
Những đồng nghiệp của bà ở Esso hình như đã cho các thành viên
của chế độ mới biết Hà Lê là một cấp trên rất tốt bụng và có khả năng giỏi trong
phòng thí nghiệm. Họ nhớ lại cuộc bàn thảo về tính trung thực và liêm chính và
trách nhiệm đè nặng trên vai bà. Khi bà còn là cấp trên chẳng ai trong số họ bị
sa thải nên giờ đây họ cũng che chở cho bà.
Chế độ mới quyết định dùng bà cho mục đích riêng của họ. Vào
cuối mùa hè một nhóm viên chức dầu khí Liên Sô đến thăm Sài Gòn. Bởi vì thông
thạo tiếng Nga, Hà Lê được chọn để đón tiếp và dẫn dắt phái đoàn đi thăm viếng
cơ sở lọc dầu của Esso. Vì phái đoàn Nga không biết tiếng Việt và không ai trong
số các nhân viên còn lại trong Esso biết nói tiếng Nga, vì vậy bà đã trở thành
người trung gian chủ yếu trong các cuộc thảo luận về lọc dầu, chu trình dây
chuyền, kiểm tra và phân phối. Bà nhớ lại “Khi người Nga đến Sài Gòn các viên
chức Việt Nam đã thực sự khép nép lo ngại. Họ xem người Nga như Quan lớn. Họ
dùng xe limousine để đi đón các “đồng chí”. Khi bạn bè ở Sài Gòn thấy tôi ngồi
chung xe với một nhóm người Nga, họ kết luận rằng tôi đã thân Cộng từ lâu. Khi
thấy tôi mặc quần áo phương Tây và trang điểm để gặp gỡ phái đoàn Nga họ đều
ngoảnh mặt quay lưng.”
Người Nga rất nể trọng những kiến thức chuyên môn và khả năng
đối đáp lưu loát tiếng Nga của Hà Lê. Họ hỏi bà có sẵn sàng theo họ về Moscow để
gặp gỡ với các viên chức Nga khác. Bà từ chối và cho biết vì chịu trách nhiệm
cho mẹ, các em của mình ở Sài Gòn. Thêm vào đó bà biết rõ chế độ mới vẫn không
hoàn toàn tin tưởng ở bà và chắc chắn rằng họ sẽ tìm mọi cách để không cho bà
rời khỏi Việt Nam. Sau đó bà được khen thưởng và lương được tăng lên gấp đôi. Bà
nói “cấp trên của tôi là một thượng tá trong quân đội Bắc Việt đã ba mươi năm,
nhưng lương của ông còn ít hơn lương của tôi. Và ông không hiểu tại sao. ”
Từ lâu bà luôn chỉ trích sự tham nhũng của chế độ cũ tại miền
Nam và của người Mỹ. Nhưng sau 30/4/1975 bà khám phá ra rằng những ông chủ mới
của Sài Gòn còn tham nhũng gấp bội. Bà nói tiếp “Tôi đã rất vui mừng khi nhìn
thấy họ tham nhũng, vì tôi biết tôi có thể lợi dụng nạn tham nhũng này để thoát
khỏi Việt Nam. Bà tìm được một vài cán bộ cấp thấp không liêm chính, tham lam và
hối lộ họ để làm giấy tờ giả có chữ ký của nhân chứng ở Hà Nội, xác nhận cha
chồng là một anh hùng cộng sản trong những năm 1940 ở miền Bắc. Bà đem giấy tờ
đến văn phòng của Ban Học Tập Cải Tạo tại dinh Độc Lập cũ. Bà hỏi cách thức nộp
bản kiến nghị cho chồng được thả ra khỏi trại cải tạo với lý do cha chồng là
anh hùng liệt sĩ ở miền Bắc. Cán bộ phụ trách rất nghi ngờ và không muốn giúp
đỡ. Bà tới lui văn phòng cả chục lần, lần nào cũng bị làm ngơ hoặc bị đuổi về.
Bà bèn trao tặng một món quà nhỏ cho người thư ký và lấy được
địa chỉ nhà riêng của Trưởng Ban cải tạo. Bà liền đến nhà mang theo quà cáp và
cả vàng miếng để trao tặng cho người vợ và than thở rằng bà rất đau khổ vì chồng
bị bắt giam lầm trong trại cải tạo tại mà cha chồng lại là anh hùng liệt sĩ. Bà
vợ đồng ý chuyển bản kiến nghị qua cho chồng (Trưởng Ban Cải Tạo). Kết quả chồng
bà được ra khỏi trại và trở về nhà một ngày trước lễ Giáng sinh 1975.
Bà quyết định rời khỏi Việt Nam. Nhưng 1977 bà hạ sinh con
trai đầu lòng và kế hoạch rời bỏ quê hương phải đình lại. Năm 1979 bà cố gắng ra
đi nhiều lần nhưng đều thất bại. Với tên giả, giấy tờ tùy thân giả, bà đã trả
tiền cho nhiều chủ tàu để vượt biên bằng đường biển đến Thái Lan hay Malaysia
Lần nào bà cũng bị lừa gạt và mất tiền.
Cuối cùng bà đã trả một cán bộ cộng sản 30 lượng vàng cho mình
và 5 lượng vàng cho con trai để xin được visa xuất ngoại trong một thời gian
ngắn để chữa trị chứng bệnh nhiễm ký sinh trùng. Bà đã mướn bác sĩ viết chứng
nhận cho bà cùng con trai đều mắc chứng bệnh này qua kết quả của các chẩn đoán
và kết quả thử nghiệm. Bà mua vé máy bay của Air France tới Bangkok. Từ đó bà
bay qua Tel Aviv, Paris và cuối cùng đến Berlin. Chồng bà đã quyết định không
đi. Từ Đức, bà liên lạc với cha và các em trai đang ở Mỹ và được bảo trợ qua Mỹ
đoàn tụ với họ trong năm 1980.
Hà Lê và con trai được nhập quốc tịch Mỹ. Bà cố gắng bảo trợ
cho chồng qua Mỹ nhưng ông ta đổi ý và không muốn rời Việt Nam nữa. Họ quyết
định ly dị và sau đó ông ấy lấy vợ khác. Hà Lê cũng tái hôn và có thêm một cô
con gái. Bà được Esso nhận vào làm việc trở lại.
Cuối cùng bà cũng liên lạc và đến thăm Pat và Bill Johnson ở
Boulder, Colorado. Bill đã nghỉ việc với CIA vào năm 1976 rồi chuyển về Boulder,
Colorado 1977.
Hà Lê nói “Tôi không căm hận việc người Mỹ rời bỏ Việt Nam.
Tuy nhiên, tôi thấy buồn, rất buồn, về việc họ đã bỏ rất nhiều người Việt ở lại
để gánh chịu đau khổ và chết trong trại cải tạo. Nhiều người Việt đã sát cánh
chiến đấu với người Mỹ vì họ tin tưởng vào một đất nước tự do cho bản thân và
gia đình nhưng rốt cuộc phải gánh lấy hậu quả. Sau năm 1975 rất nhiều người
trong số những người may mắn sống sót sau cuộc chiến đã phải đánh đổi cho lý
tưởng tự do bằng mạng sống của họ trong trại cải tạo.”
“Theo tôi người Việt rất là hư. Chúng tôi không biết quí trọng
những gì đã có cho đến khi mất tất cả. Nếu có một cái gì quí báu, bạn phải cố
gắng để giữ gìn, thậm chí hy sinh cho nó chứ không nên coi thường.Tôi e rằng
nhiều người trong chúng tôi không biết quí trọng tự do. Và chúng tôi đã mất tất
cả.”
Trong số ba người em đến Mỹ cùng với người cha của Hà Lê vào
năm 1975, một trở thành luật sư ở San Jose, California, và một người khác đã đi
làm trở lại cho công ty sữa Foremost và sau đó cho công ty California Dairies
Inc tại Visalia, CA.
Người em thứ ba di cư sang Pháp và bắt đầu làm việc với máy
tính.
Năm 1982 Hà Lê, cha và các em bảo trợ mẹ qua Mỹ. Tony Lê, con
trai của Hà Lê hồi tưởng lại “hôm đó thật là vui “.
William E. Johnson qua đời vào 13 /11 /2005, hưởng thọ 86
tuổi.
Lê Thị Ngọc Hà qua đời ngày 30 /1/ 2010 thọ 69 tuổi.
No comments:
Post a Comment