Hoàng Ngọc Thành & Nhân Thị Nhân Đức
			
			THỦ TƯỚNG NGÔ ĐÌNH DIỆM GIÀNH LẠI CHỦ QUYỀN: GIAI ĐOẠN CỰC KỲ GÂY 
			CẤN 
Trong năm 1955, thủ tướng Ngô Đình Diệm phải đối phó với 5 vấn đề trọng đại. Trước hết đồng bào miền Bắc bắt đâu di cư vào Nam ngày 14/1/1955. Mười ngày sau, số người di cư lên đến 200,000 và trong tháng sau, con số vượt qúa 800,000 người. Thủ tướng Ngô Đình Diệm cho lập phủ Tổng Uỷ Di Cư với sự giúp đỡ của Pháp và nhất là của Hoa Kỳ. Số đồng bào di cư được chuyên chở dần vào Nam và định cư tại những nơi thiết yếu do ông Diệm đích thân chọn lưạ.
Vấn đề thứ hai là thái độ thù nghịch của quân đội và thực dân Pháp. Lúc bấy giờ Pháp chủ trương rút quân về để đối phó với vụ dân xứ Angêri, Bắc Phi Châu, nổi dậy, nơi có cả triệu người Pháp sinh sống. Nhưng các giới thực dân và một số sĩ quan Pháp vẫn còn muốn duy trì chế độ thực dân dưới hình thức “quốc gia VN dưới quyền quốc trưởng Bảo Đại”. Họ vẫn tìm đủ mọi cách phá chính phủ và cá nhân thủ tướng Diệm, họ tiếp tục đả kích trên báo chí, sách, đài phát thanh, bịa đặt và loan tin bất lợi cho chính phủ và nhất là tăng cường sức mạnh cho phe Bình Xuyên và các giáo phái, rồi xúi dục và tìm cách mua chuộc các phần tử này chống chính phủ. Tình trạng này đưa đến khó khăn thứ ba là chính phủ Ngô Đình Diệm khó lòng tránh khỏi sự xung đột với phe Bình Xuyên và các giáo phái vì không có chính phủ nào thật sự là chính quyền của một nươc độc lập, lại chấp nhận nạn “sứ quân” hay nhiều lãnh chúa địa phương, do ngoại bang giựt dây được.
			
			Vấn đề thứ tư là thái độ là thái độ của tướng Lawton Collins. Ông 
			này lâu nay là một quân nhân thuần túy, có am hiểu gì về Á Châu và 
			VN đâu. Ông được cử sang Saigon vì ông là một chiến hữu thân cận và 
			tín cẩn của TT Eisenhower. Trong khi tiếp xúc với tướng cao ủy Pháp 
			Ely, và thủ tướng Ngô Đình Diệm, tướng Collins cảm thấy gần gũi và 
			thông cảm với tướng Ely hơn, vì cả hai đã từng chiến đấu và là bạn 
			thân với nhau trong đệ nhị thế chiến (1939-1945). Tướng Collins cho 
			rằng ông Diệm là người khó tính, ông không biết nhân nhượng với Bình 
			Xuyên và các giáo phái, vì họ cũng đều chống CS cả mà. Như thế thủ 
			tướng Diệm có thể gặp nguy cơ là mất hẳn sự ủng hộ tuyệt đối cần 
			thiết của Hoa Kỳ, trong việc giành lại chủ quyền từ thực dân Pháp. 
			Vấn đề cuối cùng là việc tiếp thu các vùng do chính phủ Hồ chí Minh 
			giao lại, vùng Cà Mâu vào ngày 8/2/55 và vùng Phú Yên, Bình Định, 
			Quảng Ngãi và một phần Quảng Nam ngày 22/4/55. 
			
			
 
			
			NHỮNG THÀNH TÍCH ĐẦU 
			
			Đầu năm 1955, chính phủ Ngô Đình Diệm trực tiếp nhận viện trợ Mỹ, và 
			bắt đầu trả lương quân đội và công chức với ngân sách quốc gia, 
			không còn tùy thuộc gì vào Pháp nữạ Như thế quân đội tùy thuộc chính 
			phủ, và đầu tháng 2/1955, Pháp cũng ngưng trả lương cho các lực 
			lượng bổ xung cho quân đội Pháp là phe Bình Xuyên, Cao Đài và Hòa 
			Hảo. Đây là một yếu tố quan trọng trong qúa trình giành lại chủ 
			quyền của xứ sở trong mọi lãnh vực từ thực dân Pháp. Ngày 12/2/55, 
			chính phủ thâu hồi lại quyền quản trị thương cảng Saigon từ tay 
			Pháp. Trước đấy ngày 21/1/55, thủ tướng chính thức yêu cầu Pháp chấm 
			dứt việc huấn luyện quân đội VN. Đến ngày 11/2/55, tướng Pháp 
			Agostini và tham mưu trưởng Lê văn Tỵ ký thỏa ước chuyển tất cả 
			trách nhiệm về quân đội VN cho chính phủ VN. Điều này không làm cho 
			một số sĩ quan lâu nay theo Pháp hay thân Pháp hài lòng. Họ muốn có 
			một chính phủ khác, chứ không phải chính phủ Ngô Đình Diệm nắm quyền 
			chỉ huy quân đội. Nhưng bây giờ thủ tướng Diệm nắm giữ quyền trả 
			lương cho họ, ông được Hoa Kỳ ủng hộ, và gương túớng Hinh mất chức 
			còn sờ sờ trước mắt. Họ biết rằng từ nay viêc huấn luyện quân dội 
			cũng do Hoa Kỳ phụ trách nữạ Như vạây, điều hay nhất và có lợi cho 
			họ là thích nghi với tình thế mới, ngả theo chiều gió mạnh. Trong số 
			những người này, có những kẻ từ 1945-46, khi dân VN nổi dậy kháng 
			chiến chống Pháp, đã phục vụ trong quân đội Pháp hay trong ngành 
			công an Pháp, có vào Pháp tịch hay không, đã đánh giết trực tiếp hay 
			gián tiếp người Việt, như các ông Trân văn Đôn, Lê văn Kim, Dương 
			văn Minh, Mai hữu Xuân, Trần thiện Khiêm, Đặng văn Quang, Đỗ Mậu 
			…vv…. 
			
			Về các lực lượng quân sự của các giáo phái, chính phủ Diệm và đại tá 
			Lansdale tìm cách làm cho suy yếu bằng biện pháp chia rẽ và mua 
			chuộc một số chỉ huy quân sự của họ. Trong số những người này, một 
			số ít, nếu không lầm, là có lý tưởng vì dân tộc, còn đa số có thể 
			nói là do quyền lợi cá nhân chi phối, hơn là vì tín ngưỡng và tôn 
			giáo. Lúc bấy giờ, đa số dân chúng ủng hộ thủ tướng Ngô Đình Diệm. 
			Nếu theo ông Diệm, tức theo chính phủ quốc gia đang loại trừ tàn 
			tích thực dân, là theo chính nghĩa, còn được tiền, quân hàm và chức 
			vụ nữạ Chống ông Diệm nay được sự ủng hộ của Hoa Kỳ, chắc gì thắng 
			được đâu, như vụ tướng Hinh. Sự vận động hay mua chuộc của chính phủ 
			và đại tá Lansdale rất có kết qủa.
			
			Ngày 15/1/55, một sĩ quan Hòa Hảo là đại tá Nguyễn văn Huê, tham mưu 
			trưởng của ông Năm Lửa Trần văn Soái về với chính phủ và đem theo 
			3,500 binh sĩ. Họ được sát nhập vào quân đội quốc giạ Trong tháng 3, 
			một sĩ quan Hòa Hảo khác, thiếu tá Nguyễn văn ĐaØy đem về 1,500 binh 
			sĩ nữa, phục tùng thủ tướng Diệm. Nhưng sự thành công lớn nhất của 
			ông Diệm, với sự hỗ trợ của ông Lansdale, là lôi cuốn được ông Trình 
			Minh Thế về với chính phủ. Ông Thế là một cán bộ quân sự Cao Đài, 
			trước kia được quân đội Nhật huấn luyện, có lý tưởng dân tộc, chống 
			cả thực dân Pháp và CS. Ông tách rời các đơn vị dưới quyền ông ra 
			khỏi các lực lượng Cao Đài bổ sung cho quân đội Pháp, ăn lương Pháp 
			và do Pháp trang bị, lập quân đội quốc gia liên minh, và Mặt Trận 
			Liên Minh. Ông Thế lấy núi Bà Đen ở Tây Ninh làm căn cứ, và đánh lại 
			cả quân Pháp và CS. Dân chúng vùng ông Trình Minh Thế kiểm soát mến 
			phục và ủng hộ ông, vì ông đối xử công tâm và chăm lo cuộc sống của 
			họ. Đại tá Lansdale mang thư của thủ tướng Ngô Đình Diệm đến căn cứ 
			của ông tại núi Bà Đen, và được đưa đi quan sát các đơn vị và cơ 
			xưởng chế tạo vũ khí, như súng máy nòng 50 li, súng M-1 và máy thâu 
			phát thanh nữạ Ông Thế chấp nhận lời thủ tướng mời về cộng tác. Ngày 
			13/2/55, ông dẫn 2,500 binh sĩ đi diễn hành qua các đường phố như 
			đại lộ Thống Nhất, đuờøng Tự Do, Lê Lợi đến bùng binh trước sở Ngân 
			Khố, ngang qua khán đài có thủ túng Ngô Đình Diệm và nhiều nhân vật 
			Việt và ngoại quốc. Các binh sĩ Liên Minh dưới quyền ông Thế được 
			sát nhập vào quân đội quốc gia, và ông Thế mang quân hàm thiếu 
			tướng. Vụ tướng Thế về thần phục chính phủ làm uy tín và thanh thế 
			của thủ tướng Diệm tăng lên rất nhiều. Nhưng người Pháp rất bất mãn 
			và thù hằn tướng Thế, vì ngày 31/7/51 ông đã cho cảm tử quân mang 
			lựu đạn nổ giết chết tướng Chanson, chỉ huy quân đội Pháp tại Nam Bộ 
			và thủ hiến bù nhìn Thái Lâïp Thành tại Trà Vinh. Hai năm sau, tức 
			1953, ông Thế lại gây ra một vụ nổ lớn trước nhà hát Saigon, sau này 
			là Hạ Viện, để giết hại sĩ quan Pháp nhưng lại trúng người qua 
			đường. Người Pháp bảo rằng chiến đấu như thế là dã man, còn việc họ 
			giết hại dân lành Việt dĩ nhiên đâu có gì là dã man! 
			
			Một số lãnh tụ Hòa Hảo như ông Nguyễn gíac Ngộ và Lâm thành Nguyên 
			mà đại tá Lansdale đã từng gặp tại bản doanh ông Năm Lửa Trần văn 
			Soái, cũng đến tìm ông Lansdale tại nhà ông ở Saigon và mặc cả về số 
			tiền và vũ khí cấp cho họ khi họ về với chính phủ, ông Lansdle viết 
			trong hồi ký ông bảo là không có. 
			
			Trong khi đối phó với các giáo phái, thủ tướng Diệm cũng chú trọng 
			đặc biệt đến phe Bình Xuyên. Các đơn vị Bình Xuyên dưới quyền Bảy 
			Viễn trấn giữ Chợ Lớn và một số địa điểm tại Saigon, chúng được thực 
			dân Pháp giúp thêm vũ khí vả cố vấn. Ngành cảnh sát, công an vẫn ở 
			dưới quyền Lai văn Sang, một thân tín của Bảy Viễn. Như thế, chính 
			phủ Ngô Đình Diệm vẫn còn bị uy hiếp ngay tại thủ đô.
			
			Đến tháng 1/1955, giay phép mở sòng bạc Đại Thế Giới hết hạn. Thủ 
			tướng Diệm ban bố một số nghị định đóng cửa sòng bạc Đại Thế Giới và 
			bài trừ cũng như trừng phạt các tệ đoan như cờ bạc, đĩ điếm, thuốc 
			phiện và ma túy. Ông cũng yêu cầu Bảo Đại thâu hồi lại đạo dụ cử Lai 
			văn Sang làm tổng giám đôc công an, cảnh sát để ông cử một người 
			khác thay. Thông điệp trả lời của Bảo Đại bày tỏ sự tín nhiệm đối 
			với ông Diệm, nhưng không đả động gì đến yêu cầu trên. Đối với Bảo 
			Đại, đây có lẽ là cơ hội ngăn chận hay giảm bớt sự gia tăng dần uy 
			tín và quyền thế của thủ tướng Diệm. Mặt khác, sự đóng cửa sòng bạc 
			và việc đặt các tệ đoan ra ngoài vòng pháp luật, sẽ làm cho Bảy Viễn 
			và Bảo Đại mất một mối lợi khổng lồ. Một số tay chân của Bảy Viễn và 
			Bảo Đại tại thành phố nghỉ mát Cannes, Pháp quốc, nơi Bảo Đại đang 
			trú ngụ, và ở Saigon, cùng thực dân Pháp hợp sức với nhau để đối phó 
			với thủ tướng Diệm. 
			
			
 
			
			BÌNH XUYÊN VÀ THỰC DÂN PHÁP 
			
			Ngày 5/3/55, Bảy Viễn mời đại diện các giáo phái họp tại Chợ Lớn. 
			Ông nói rằng miền Nam cần một chính phủ tốt hơn là chính phủ do ông 
			Diệm “điên” cầm đầu. Nếu các giáo phái và Bình Xuyên đoàn kết lại 
			với nhau, họ có thể đòi nắm giữ các bộ then chốt về tài chánh, kinh 
			tế và để ông Diệm làm vì mà thôi. Nếu họ liên minh với nhau về quân 
			sự thành một đạo quân hùng mạnh, ông Diệm sẽ hoảng sợ và phải chấp 
			nhận những yêu sách của họ. Việc này đâu có khó khăn gì! Các đại 
			diện giáo phái nghe rất êm tai và đồng ý vì ai cũng có tham vọng mở 
			rộng khu vực thống trị của mình, có thêm quyền hành và lợi tức. Họ 
			thành lập một mặt trận Liên Minh và cử ông hộ pháp Phạm công Tắc của 
			đạo Cao Đài làm lãnh tụ và ông Ba Cụt Lê quang Vinh làm tư lệnh quân 
			sự. Bảy Viễn cũng cam kết đặt các lực lượng Bình Xuyên dưới dưới 
			quyền của ông Ba Cụt nếu xảy ra xung đột với chính phủ. Người đại 
			diện Bảo Đại tại Saigon là ông Nguyễn Đệ cho vài người thân tín đến 
			dự phiên họp này, và cổ võ việc chống lại thủ tướng Diệm. Các tướng 
			Trình minh Thế và tướng Cao Đài Lê Thành Phương cũng dự phiên họp 
			này. Theo ông Lansdale, khi hai tướng trên thuật lại cho ông biết về 
			việc tham gia mặt trận, ông giải thích cho hai người này hiểu, nhất 
			là tướng Thế, về việc họ tham gia mặt trận chống chính phủ là không 
			phải. Tướng Thế đã về với chính phủ rồi, còn tướng Phương đang chuẩn 
			bị sát nhập các đơn vị dưới quyền ông vào quân đội quốc gia, vậy làm 
			sao hai ông lại đứng vào phe chống chính phủ, và ông thuyết phục họ 
			rời bỏ mặt trận. Về vụ này có người bảo răng hai ông Thế và Phương 
			làm thế để được chi thêm tiền. Nhưng có thể rằng ôg Diệm đã dặn 
			riêng hai ông tham gia mặt trận, để biết rõ thêm về phe chống đối và 
			mưu đồ của Bảy Viễn. 
			
			Sau đấy, Bảy Viễn tổ chức một phiên họp khác của mặt trận, để quyết 
			định về việc gởi tấu hậu thư cho chính phủ. Hai túng Thế và Phung 
			cũng đến họp, rồi lên tiếng phản đối và rút lui ra khỏi mặt trận. 
			Tuy vậy ngày 22/3/55, mặt trận vẫn gởi tối hậu thư đến thủ tướng 
			Diệm, và báo cho ông đến ngày 27/3 tức 5 ngày sau phải thỏa mãn các 
			yêu sách của họ. Nếu không, họ sẽ áp dụng những biện pháp cần thiết. 
			Thủ tướng Diệm bình thản đề nghị điều đình với mặt trận. Ông nói 
			rằng ong có kế hoạch giúp cho tất cả những người yêu nước tham gia 
			với ông trong việc xây dựng một cơ sở bền vững và lâu dài cho quốc 
			giạ Mặt trận bác bỏ lời điều đình này. Phe Bình Xuyên đặt súng cối 
			vào những vị trí để có thể bắn vào dinh Độc Lập, nếu ông Diệm không 
			chấp nhận tối hậu thư của họ. 
			
			Dần dần, dân chúng Saigon – Chợ Lớn biết về vụ khủng hoảng này và 
			tình hình trở nên căng thẳng với số tin đồn đãi. Trong giới ngoại 
			kiều tại thủ đô, nhất là trong số người Pháp và người Việt vô dân 
			Tây, có tin rằng quân đội quốc gia gần như nổi loạn, các sĩ quan và 
			binh sĩ đều chống thủ tướng Diệm. Loại tin này được truyền đến người 
			Mỹ. Theo ông Lansdale, các giới cao cấp Pháp và Mỹ đều tin như vậy, 
			mặc dầu ông thân chinh tiếp xúc với các tiểu đoàn Việt, thấy tinh 
			thần họ rất cao, họ sẵn sàng chiến đấu ủng hộ chính phủ. Toà đại sứ 
			Mỹ và phủ cao ủy Pháp đã gởi về HTĐ và Ba Lê các báo cáo về sự bạc 
			nhược và không có tinh thần chiến đấu của quân đội quốc gia VN. Còn 
			báo cáo của đại tá Lansdale được điện thẳng về trụ sở trung ương 
			tình báo CIA tại Langley, tiểu bang Virgina, và đệ trình thẳng lên 
			ông tổng giám đốc Allen Dulles. 
			
			Trước tình thế căng thẳng và khẩn trương, một số tổng trưởng trong 
			chính phủ mất tinh thần và xin từ chức. Trong số này, đáng kể nhất 
			là tổng trưởng quốc phòng Hồ thông Minh. Trước kia, khi lập lại nội 
			các, tướng Lawton Collins đề nghị ông Diệm cử bác sĩ Phan huy Quát 
			làm tổng trưởng quốc phòng, nhưng ông Diệm không chịu và cử ông Hồ 
			thông Minh. Việc này làm cho ông tướng Collins bất bình. Ông than 
			phiền rằng ông Diệm nghe lời các em ông, ông Luyện, ông Nhu, hơn là 
			ông. Nay tình thế trở nên khẩn trương, ông HoÀ thông Minh từ chức, 
			mặc dầu tướng Collins và đại tá Lansdale đến gặp và yêu cầu ông đừng 
			từ nhiệm. Ông Minh không chịu, nhưng thừa nhận rằng ông chưa tiếp 
			xúc với đơn vị quân đội nào cả để tìm hiểu thái độ và tinh thần của 
			họ. Ông tin rằng quôn đội quốc gia sẽ không chiến đấu chống Bình 
			Xuyên và các giáo phái nên ông rời bỏ chức vụ và đi khỏi Saigon. 
			
			Sáng ngày 29/3/55, nghĩa là sau khi tổng trưởng quốc phòng HoÀ thong 
			Minh từ chức, đại tá Lansdale và trung úy Redick thuộc phái đoàn 
			quân sự Saigon, tức một cán bộ CIA khác, đdến gặp ông Diệm tại dinh 
			Độc Lập. Tình trạnh dinh Độc Lập không còn giống như thời tướng Hinh 
			dọa đảo chánh. Tiểu đoàn phòng vệ đang bố trí tác chiến vì nghe đồn 
			Bình Xuyên sắp tấn công. Ông Lansdale xem xét lại hệ thống điện 
			thoại vô tuyến mà người Mỹ đã thiết lập trong dinh Độc Lập cạnh 
			phòng ông Diệm, để ông liên lạc với các nơi trong trường hợp sự liên 
			lạc bình thường bị cắt đứt. Đai tá Lansdale cũng cho ông Diệm biết 
			rằng ông được lệnh không đến dinh Độc Lập và xử dụng hệ thống vô 
			tuyến này nếu xảy ra sự xung độ giữa những người quốc gia VN. 
			
			Thủ tướng Diệm trải một bản đồ Saigon – Chợ Lớn trong văn phòng ông 
			và chỉ ch ông Lansdale thấy những nơi được báo cáo là Bình Xuyên đã 
			đặt súng cối để bắn vào dinh Độc Lập. Đến nay Bình Xuyên mới có súng 
			cối 60 ly, nhưng có tin họ đang vận động với Pháp để có được súng 
			cối 81 ly. Nếu Bình Xuyên có súng cối 81 ly thì nguy hiểm hơn nhiều 
			vì súng cối 60 ly không làm hư hại các bức tường dày của dinh lắm, 
			nếu người ta núp sau những bức tường này. Đại tá Lansdale nhận thấy 
			ông Diệm rất bình tĩnh và tự chủ, ông trình bày như một vị sĩ quan 
			thuyết trình về một đề tài, hình như không bận tâm về việc ông là 
			mục tiêu tấn công của phe Bình Xuyên. 
			
			Khi ông Lansdale hỏi về cựu tổng trưởng quốc phòng HoÀ thông Minh, 
			ông Diệm cười chua chát nói rằng ông Minh đã đi Đàlạt, nơi những 
			người thuộc phe Bảo Đại đang tụ ho.p. Ông Diệm cho biết ông thân 
			chinh nắm giữ bộ quốc phòng và các chỉ huy quân sự hài lòng về việc 
			này. Họ rất bất mãn về các tin đồn là họ sợ Bình Xuyên và không có 
			tinh thần chiến đấu. Thủ tướng Diệm đã tiếp xúc với các vị chỉ huy 
			của các đơn vị, họ xác nhận lòng trung thành với chính phủ và sẵn 
			sàng chiến đấu. Ông đã phái ông Trần trung Dung, tổng trưởng tại phủ 
			thủ tướng, sang làm việc tại bộ quốc phòng để điều hành công việc 
			hàng ngày. 
			
			Đại tá Lansdale cũng thảo luận với ông Diệm về những biện pháp nào 
			để tránh xung đột giữa Bình Xuyên và chính phủ. Ông Diệm đáp rằng 
			ông đã đề nghị điều đình với các lãnh tụ mặt trận. Nhưng Bảy Viễn 
			cho thấy rõ rằng y chỉ muốn ông Diệm bị giải chức hay làm vì và để ý 
			và phe y lên cầm quyền. Đây là vấn đề liêm chính và đạo đức cho đất 
			nước. Lâu nay Bảy Viễn đã làm giàu với sự độc quyền cờ bạc, đĩ điếm 
			và thuốc phiện lậu. Y đã củng cố vị trí bằng cách ăn chia với Bảo 
			Đại. Nay y và đồng lõa còn muốn dùng bạo lực để nắm chính quyền. Là 
			một người yêu nước, ông Diệm không thể nào để một việc như vậy xảy 
			ra đư ợc. Ông Diệm đưa dần vào Saigon các tiểu đoàn mà ông tin cậy 
			được vào các vị chỉ huy như 3 tiểu đoàn Nùng, rồi giữa tháng 3, hai 
			tiểu đoàn dù dưới quyền đại tá Đỗ cao Trí. Các đơn vị này cộng vào 
			số binh sĩ của tướng Thế, đại tá Huê và thiếu tá Đày làm cho thế 
			quân sự của chín hphủ vững mạnh hơn trước nhiều, so với số độ 
			4000-5000 quân Bình Xuyên tại Chợ Lớn – Saigon. 
			
			Từ lúc cầm quyền đến nay, thủ tướng Diệm vẫn được sự ủng hộ của Hoa 
			Kỳ. Mọi việc xảy ra tại Saigon đều được tòa đại sứ Mỹ và đại tá 
			Lansdale báo cáo về bộ ngoại giao và trung ương tình báo. Ngày 
			8/3/55, nghĩa là chỉ vài ngày sau khi Bảy Viễn và các giáo phái họp 
			ở Chợ Lớn lập mặt trận chống thủ tướng Diệm, ngoại trưởng Foster 
			Dulles xác nhận lại việc Hoa Kỳ ủng hộ thủ tướng trong một bài diễn 
			văn truyền hình. Cũng trong ngày này, 7 tiểu đoàn quân đội với trọng 
			pah1o và chiến xa đã hành quân dẹp chiến khu Ba Lòng trong tỉnh 
			Quảng Trị do đảng Đại Việt lập ra với một số quân nhân ly khai. Cuộc 
			hành quân này cho thấy quân đội sẵn lòng đánh dẹp các vụ nổi dậy 
			chống chính quyền hợp pháp. Ngày sau tức 9/3/55, TT Eisenhower gởi 
			thông điệp cảnh cáo Bảo Đại đừng làm khó dễ thủ tướng Diệm. 
			
			Nhưng đến ngày 25/3/55, tức 3 ngày sau khi mặt trận gởi tối hậu thư 
			đến ông Diệm, Bảo Đại kêu gọi ông Diệm hãy thống nhất, kết hợp và 
			liên kết với Bình Xuyên và các giáo phái, tức Bảo Đại muốn ông Diệm 
			nhượng bộ, hai ngày sau, tức ngay tối hậu thư của mặt trận hết hạn, 
			và khi chắc đã vận động tướng Nguyễn thành Phương của giáo phái Cao 
			Đài về phe chính phủ, thủ tướng Diệm ra lệnh cho các tiể đoàn dù 
			dưới quyền đại tá Đỗ cao Trí đánh chiếm trụ sở cảnh sát và tòa nhà 
			mật thám tức công an dưới quyền Bình Xuyên trên đại lộ Galliéne (sau 
			đổi tên là Trần Hưng Đạo). Quân dù đánh chiếm được sở cảnh sát nhưng 
			Bình Xuyên còn giữ được tòa nhà công an. Ngày sau, ông Diệm ra lệnh 
			đánh chiếm luôn tòa nhà công an. Nhưng trước khi vụ tấn công bắt 
			đầu, cao ủy Pháp tướng Ely can thiệp và ông Diệm phải hoãn lại vụ 
			tấn công một cách miễn cưỡng. Ngày 29/3/55, tướng Nguyễn thanh 
			Phương, tư lệnh các lực lượng Cao Đài, ra công khai ủng hộ chính 
			phủ. Đây là một thắng lợi chính trị đáng kể cho thủ tướng Diệm và 
			làm suy yếu mặt trận chống đối. Đến nữa đêm hôm ấy, Bình Xuyên cho 
			nã súng cối vào dinh Độc Lập. Quân đội chính phủ và Bình Xuyên xung 
			đột với nhau, súng nổ tại nhiều nơi, trên đại lộ Galliéni, gần tòa 
			nhà công an và rải rác vùng ranh giới Saigon – Chợ Lớn. Đại tá 
			Lansdale lái xe đi quan sát, thấy các đoàn xe chở binh sĩ Việt đến 
			các nơi xung đột bị xe tăng và thiết giáp Pháp ngăn chận và phải 
			quan đầu lại trở về. Cuộc đụng độ kéo dào độ 3 giờ, rồi tướng Pháp 
			Paul Ely với sự tán thành của tướng Lawton Collins, buộc thủ tướng 
			Diệm ngưng chiến. 
			
			Như thế ông Diệm cố gắng thiêt lập chính quyền cho toàn quốc và tại 
			ngay thủ dô thì bị 2 ngoại bang ngăn chận. 
			
			Về phần Pháp, tướng Pau Ely, cao ủy Pháp, lý luận rằng ông sợ nội 
			chiến lan rộng và ông có trách nhiệm bảo vệ Pháp kiều và ngoại kiều 
			khác nên ông can thiệp buộc hai bên ngưng chiến, dù ông chấp nhận 
			nước Pháp sẽ không còn liên hệ về chính trị với quốc gia VN và cố 
			vấn Mỹ sẽ thay thế cố vấn Pháp. Ông cảm thấy phải làm trọng tài 
			trong cuộc xung đột giữa thủ tướng Diệm và các giáo phái, ông muốn 
			tạo nên sự thông cảm và hòa hợp giữa ông Diệm và những người Pháp 
			còn có quyền lợi tại VN. Mối quan tâm khác của ông là sự bất mãn và 
			va chạm càng ngày càng gia tăng giữa người Pháp và người Mỹ tại 
			Saigon về những quan điểm bất đồng đối với ông Diệm và giáo phái. 
			Còn đa số người Pháp tại Saigon cũng như dư luận và báo chí tại Ba 
			Lê đều không hài lòng về việc nội các Menès France chấp nhận chính 
			sách của Hoa Kỳ về VN và ủng hộ chính phủ Diệm. Người Pháp thấy lòng 
			tự ái thực dân và những quyền lợi thống trị về kinh tế và chính trị 
			của họ bị tổn thương, vì lập trường quốc gia quyết liệt không nhân 
			nhượng của ông Diệm trong việc giành lại chủ quyền và chấm dứt chế 
			độ thực dân vàng son của họ. Đại đa số báo chí Pháp chỉ trích thủ 
			tướng Diệm và việc Hoa Kỳ ủng hộ ông, ngay cả trước khi sự xung đột 
			với Bình Xuyên giáo phái xảy rạ Một số thường xuyên phao tin bất lợi 
			và tiên đoán răng chính phủ Diệm gần sụp đổ. Thực dân Pháp biết rằng 
			họ chỉ còn hy vọng tạo nên một chính phủ tay sai kiểu Xuân, Hữu, Tâm 
			nếu ông Diệm thât bại, không dẹp được Bình Xuyên và các giáo phái. 
			Vì thế, họ mở một chiến dịch đả kích dữ dội thủ tướng Diệm. Nhiều 
			nhà báo Pháp miêu tả ông Diệm là cứng rắn, bất lực, ông sẽ làm nguy 
			hại cho sự sống còn của Nam VN. Họ tố ông là yếu kém, không được dân 
			chúng ủng hộ và không có khả năng ngăn chận CS. Đây là cố gắng cuối 
			cùng của thực dân Pháp để đối phó với thái độ quyết liệt của ông 
			Diệm giành lại chủ quyền. 
			
			Còn về phần người Mỹ nói chung, họ có cảm tình với những cố gắng 
			giành lại chủ quyền của thủ tướng Diệm. Đại tá Lansdale, trưởng phái 
			đoàn quân sự Saigon, tức một toán đặc công đặc biệt của trung uơng 
			tình báo bặp ông Diệm hàng ngày, có thiện cảm với ông và hết lòng 
			giúp ông, tức thực thi chính sách của TT Eisenhower là ủng hộ ông 
			Diệm lập nên một chính quyền quốc gia vững mạnh chống lại được sự 
			bành trướng của CS. Nhưng người Mỹ có vai trò quyết định tại Saigon 
			là đặc phái viên của tổng thống, tức tướng Lawton Collins. Ông này 
			đã làm bổn phận cứu chính phủ Diệm trong tháng 11/1964, bằng cách 
			dùng áp lực với Pháp buộc tướng Hinh phải rời Saigon đi Pháp, rồi bị 
			giải nhiệm trở lại không quân Pháp. Nhưng tướng Collins không hiểu 
			gì về tình hình VN. Ông cho rằng ông Diệm bướng bỉnh, khó giao thiệp 
			và trao đổi ý kiến. Ông không hài lòng khi ông Diệm không nghe lời 
			ông cử bác sĩ Phan Huy Quát làm tổng trưởng quốc phòng, nhưng chọn 
			ông Hồ chí Minh. Ông ngả dần về quan điểm của cao ủy Pháp Paul Ely. 
			Tướng Collins đi đến kết luận là ông Diệm sẽ thất bại. Ông đệ trình 
			một khuyến cáo mật lên TT Eisenhower đề nghị bỏ rơi Thủ tướng Diệm. 
			
			Trong khi ấy ông Diệm vẫn cương quyết tiếp tục đối phó với phe Binh 
			Xuyên và giáo phái. Ngày 31/3/55, trong một buổi lễ long trọng, 
			tướng Cao Đài Nguyễn thành Phương đem lại 8,000 binh sĩ diễn hành 
			trong săn dinh Độc Lập và tuyên thệ về theo chính phủ Ngô Đình Diệm. 
			Trong hai tuần lễ tiếp của tháng 4/1955, tình hình Saigon – Chợ Lớn 
			bắt đầu căng thẳng. Quân đội chính phủ cũn gnhư phe Bình Xuyên củng 
			cố các vị trí của mìn với các bao cát, hàng rào dây thép gai hay bố 
			trí thêm binh sĩ. Có nơi lính hai bên gờm nhau hai bên đường, còn xe 
			cộ và bộ hành lưu thôg ở giữa đường. 
			
			Các lực lượng Pháp cũng kéo vào thành phố, đậu chiến xa trên các lễ 
			đường và dùng bao cát và giây kẽm gai đểâ lập các vùng gọi là khu 
			vực Pháp, và lính Bình Xuyên có thể di chuyển tự do và công khai với 
			sự bảo vệ của quân Pháp. Ngoài ra, người Pháp còn lập ra một khu vực 
			Pháp, sát cạnh ngay dinh Độc Lập, phe Bình Xuyên cũng tăng cường sự 
			phòng thủ trụ sở cảnh sát dưới quyền họ, sau này là bộ nội vụ, tại 
			đường Catinat, sau đổi tên là đường Tự Do. 
			
			Các khu vực Pháp chiếm độ ½ thành phố Saigon – Chợ Lớn với độ 30,000 
			lính chưa kể các đơn vị tại vùng ngoại ộ Dân chúng Việt thấy rõ ràng 
			là Pháp uy hiếp chính phủ Ngô Đình Diệm đang thu hồi lại chủ quyền 
			từ người Pháp, và ủng hộ phe Binh Xuyên lâu nay làm tay sai cho Pháp 
			và độc quyền cờ bạc, điẽ điếm và thuốc phiện lậu. Phe Bình Xuyên có 
			độ 4000-5000 lính chia ra chừng 16 tiểu đoàn, với quân số độ 400 
			người cho mỗi tiểu đoàn với nhiều vũ khí tự động. Pháp có thể đã cấp 
			cho Bình Xuyên loại súng cối 81 ly nguy hiểm hơn súng cối 60 ly mà 
			lauâu nay họ dùng pháo kích dinh Độc Lập. Pháp cấp cho Bình Xuyên 3 
			pháo thuyền nhỏ để hoạt động trên các sông vùng Saigon – Chợ Lớn. 
			Còn chính phủ Việt chỉ có một hải quâ ntí hon do sĩ quan Pháp chỉ 
			huy. Phòng nhì tức là sở phụ trách tình báo quân sự vẫn do sĩ quan 
			Pháp điều hành, nên thủ tướng Diệm phải tổ chức một hệ thống tình 
			báo riêng để biết về đối phương, do ông Ngô Đình Nhu phụ trách với 
			sự cộng tác của một số người như ông Nguyễn Ngọc Thơ, Mai hữu Xuân 
			và người Hoa như ông Lý Khai. Thủ tướng Diệm chỉ đạo sự bố trí các 
			đơn vị của quan đội quốc gia, chuẩn bị tấn công các vị trí Bình 
			Xuyên khi chiến cuộc bùng nổ, với tướng Lê văn Tỵ và các sĩ quan cấp 
			tá Trần văn Đôn, Dương văn Minh, Nguyễn văn Minh. 
			
			
 
			
			GIẢI PHÁP THỰC DÂN ELY & COLLINS 
			
			Trong khi ấy tướng Pháp Ely và tướng Mỹ Collins thỏa thuận với nhau 
			về một giải pháp cho vụ tranh chấp. Trước hết, đại tá Lansdale được 
			giao phó tổ chức một buổi họp Pháp – Mỹ với các giáo phái tại Chợ 
			Lớn. Từng lãnh tụ giáo phái được hỏi ý kiến về tình hình và nhận 
			định của họ đối với chính phủ, do sũ quan Pháp chủ to.ạ Lợi dụng 
			buổi họp, đại tá Lansdale tìm cơ hội tiếp xúc với đai tá Thái Hoàng 
			Minh, tham mưu trưởng của Bảy Viễn và lôi cuốn ông về với chính phủ. 
			Ông Thái hoàn gMinh nói sẽ đem về 4 tiểu đoàn cho thủ tướng Diệm vì 
			ông tin tưởng ông Diệm. Nhưng sau đó Bảy Viễn và Pháp nghi ngờ nên 
			ông Minh bị Bảy Viễn cho người đến nhà bắt giết, khi ông về nhà đem 
			vợ con đi theo chính phủ Diệm.
			
			Tình thế trở nên khó khăn cho thủ tướng Diệm. Tại thành phố Cannes, 
			Bảo Đại tỏ vẻ lạnh nhạt, không chịu tiếp kiến ông Ngô Đình Luyện do 
			thủ tướng Diệm phái sang, mặc dầu Bảo Đại và ông Luyện lâu nay thân 
			thiết với nhau. Các ngùi thân tín của Bảo Đại tại Saigon phao tin 
			rằng Bảo ĐaÏi sắp về nước. Tin này có phản ứng làm dân chúng nổi dậy 
			chống Bảo Đại vì họ thấy rõ sự liên hệ giữa Bình Xuyên và Bảo Đại. 
			Phe Bình Xuyên cũng gây ra tình trạng bất ổn trong thành phố bằng 
			cách cho nhiều xe “díp” chở lính mặc thường phục chạy qua các đường 
			hphố lúc hoàng hôn và bắn bừa bãi gây thuơng tích cho nhiều thường 
			dân. Họ còn khiêu khích các sĩ quan cao cấp của quân đội, khi cho 
			người đi xe díp bắn vào cổng bộ tham mưu đường Galliéne, sau đổi tên 
			là Trần Hưng Đạo, vào một buổi trưa, khi các vị này ra cổng đi ăn 
			cơm trưa, nhưng may không có ai bị gì. Quân Bình Xuyên lộng hành, 
			đại tá tham mưu trưởng Trần văn Đôn đi đường còn bị lính xung phong 
			của Bình Xuyên chọc tức, như ông kể trong hồi ký của ông. 
			
			Trong khoảng thời gian này, quân đội quốc gia còn phải nhận đạn được 
			và xăng nhớt từ quân đội Pháp với sự cung cấp rất hạn chế. Tướng 
			Collins còn khuyến cáo thủ tướng Diệm một cách gắt gao không được mở 
			lại cuộc tấn công phe Bình Xuyên. Một phát ngôn của chính phủ tuyên 
			bố ngày 7/4/55 rằng “sự can thiệp của tướng Collins trói buộc tay 
			chân của chúng tôi” 
			
			Thủ tướng cũng được 2 tướng Ely và Collins thông bào về giải pháp do 
			hai ông đề nghị đdể giải quyết vấn đề giáo phái. Giải pháp gồm 5 
			điểm chính: 
			
			1/ Chính phủ trở thành lâm thời và liên hiệp với một số người chống 
			ông Diệm. Thủ tướng Diệm trở thành lâm thời và liên hiệp và liên 
			hiệp với một số người chống ông Diệm. 
			
			
2/ Thủ tướng Diệm sẽ cứ một tổng giám đốc công an cảnh sát mới, 
			vị này phải được chín hphủ liên hiệp và phe Bình Xuyên chấp nhận để 
			khỏi đổ máu. 
			
			3/ Một hội đồng lâm thời, sẽ được đề cử và nhóm họp vào ngày 15/5, 
			các giáo phái đề cử 60 đại biểu, dân di cư 10, ông Diệm 10. Hội đồng 
			lâm thời này sẽ góp ý kiến với Bảo Đại nên cử ai làm thủ tướng. 
			
			
4/ Một hội đồng tối cao danh dự, gồm các lãnh tụ các giáo phái 
			sẽ được cử làm hội đồng tư vấn. 
			
			
5/ Hai người em trai ông Diệm là ông Ngô Đình Nhu và ông Ngô 
			Đình Luyện phải rời xứ trong thời gian này. 
			
			Bất cứ người nào, Việt hay nước ngoài, khách quan một chút, đâu cần 
			gì bênh vực cho ông Diệm, cũng thấy rằng với giải pháp như thế, 
			tướng Mỹ Collins đã ngả về chính sách thực dân cố hữu của Pháp là 
			loại trừ ông Diệm, một người Việt yêu nước đang giành lại chủ quyền. 
			Như thế, Pháp có thể tiếp tục thống trị miền Nam qua nhóm tay sai 
			này cho đến tháng 7/1956 rồi tổ chức tổng tuyển cử theo hiệp định 
			Geneva, dâng miền Nam cho CS Hanoi. Pháp khai thác và bóc lột được 2 
			năm nữa, và sẽ được điểm tốt với CS Hanoi. Tướng Pháp Ely, thủ tướng 
			Menes France hay dân Pháp nói chung, thương gì dân Việt, hay để ý 
			bảo vệ quyền lợi và nền tự chủ của dân tộc VN đâu, người Mỹ Lawton 
			Collins cũng vậy mà thôi...!!
			
			Thủ tướng Diệm đã gởi một thông điệp trả lời thích đáng đề nghị của 
			hai tướng Pháp và Mỹ: nước Pháp đã tạo ra phe Bình Xuyên và các giáo 
			phái bằng cách trang bị vũ khí và nuôi dưỡng họ, nước Pháp lâu nay 
			chia rẽ để trị, nay nước Pháp cần phải giải giới họ là giải quyết 
			vấn đề. 
			
			Đại tá Lansdale gặp ông Diệm hằng ngày tại dinh Độc Lập và ông cho 
			tướng Collins biết là không bao giờ ông Diệm chấp nhận một giải pháp 
			như vậy. Đây là một sự khiêu khích với dân Việt hơn là một cách giải 
			quyết vấn đề giáo phái. Nếu công bố giải pháp này, dân Việt sẽ nổi 
			dậy đứng về phe ông Diệm và tình thế trở nên bất ổn. Tướng Collins 
			bảo rằng mục tiêu là làm cho một tình thế sôi bỏng nguội dần để 
			tránh đổ máu. Tướng Collins cần về HTĐ. Ông Lansdale hỏi tướng 
			Collins rằng nên trả lời thế nào với ông Diệm nếu một cuộc xung đột 
			xảy ra, và nếu ông Diệm hỏi rằng Hoa Kỳ còn ủng hộ ông không? Tướng 
			Collins đáp rằng ông Lansdale nên nói là Hoa Kỳ vẫn ủng hộ ông Diệm 
			vì ông là người cầm đầu chính phủ mà Hoa Kỳ thừa nhận và còn thêm 
			rằng nếu nghe tin đồn như Hoa Kỳ không còn ủng hộ ông Diệm nữa thì 
			cứ bỏ qua, và cứ bảo ông Diệm rằng Hoa Kỳ vẫn ủng hộ ông. 
			
			Tướng Collins về HTĐ ngày 23/4/55. Còn thủ tướng Diệm qua đài phát 
			thanh lên tiếng mời các lãnh tụ Bình Xuyên và các giáo phái đến gặp 
			ông để dàn xếp. Ông thừa nhận rằng chính phủ không còn trả lương cho 
			các lực lượng bổ túc tức Bình Xuyên và các giáo phái, nhưng ông sẽ 
			cố gắng giải quyết vấn đề này nếu họ sẵn lòng cộng tác với chính 
			phủ. Ông Diệm cũng công bố rằng trong 3 tháng nữa sẽ tổ chức tuyển 
			cử để bầu dân biểu vào quốc hội. Ông kêu gọi toàn dân hãy thống nhất 
			ý chí để thực hiện nền độc lập của xứ sở sau 80 năm bị ngoại bang đô 
			hộ. Ông cũng cho biết rằng quân đội quốc gia có đủ phương tiện chống 
			lại mọi mưu toan bạo động. Trong khi ấy, ông Diệm cũng lo việc tiếp 
			thu các tỉnh trung bộ là Phú Yên, Bình Định, Quảng Ngãi và một phần 
			Quảng Nam, khi quân kháng chiến rút dân về Quy Nhơn để xuống tài Ba 
			Lan đi ra Bắc. 
			
			Trong khi ông Diệm có thái độ dè dặt và nhân nhượng, một phần dân 
			chúng và một số người ủng hộ ông hay cả quân đội, lại hiểu lầm và 
			than phiền là ông kém cương quyết. Sao không thay thế Lai văn Sang 
			ngay trong chức vụ tổng giám đốc công an, cảnh sát và sao không tấn 
			công dẹp Bình Xuyên đang lộng hành giữa thủ đô như vậy? Họ cảm thấy 
			bất ổn. Thủ tướng Diệm cũng nhận được một điện tín của Bảo Đại bảo 
			nên kéo dài hưu chiến đến cuối tháng 4/1955 và đoài 30 triệu bạc. 
			Nhưng ông Diệm đâu có tiền gởi sang cho Bảo Đại. Trong khi ấy, phòng 
			nhì của quân đội Pháp và các giới thực dân Pháp va chạm nhau với 
			toán CIA dưới quyền đại tá Lansdale, vì các hoạt động đối nghịch 
			nhau. Pháp ủng hộ Bình Xuyên còn Mỹ giúp ông Diệm. Ông Lansdale có 
			bị mưu sát, bắn lén và suýt bị xe vận tải đâm vào xe ông? 
			
			THỜI GIAN CĂNG THẲNG 
			
			Tháng 4/1955 có thể em là thời gian căng thẳng nhất trong đời chính 
			trị của ông Diệm, nếu so với cả tháng 10/1963 trước khi ông bị đảo 
			chánh và ám sát. Thủ tướng Diệm có thể nói là không còn chính phủ 
			nữạ Các tổng trưởng Cao Đài và Hòa Hảo đã từ chức từ cuối tháng 
			3/1955. Tiếp theo, tổng trưởng quốc phòng Hồ thông Minh và tổng 
			trưởng ngoại giao Trần văn Đỗ cũng thôi việc. Còn tổng trưởng kế 
			hoạch Nguyễn văn Thoại đang làm trưởng đoàn dự hội nghị các quốc gia 
			không liên kết tại Bandung, Indonesia, cũng lên tiếng từ nhiệm và 
			đây là một bất lợi ngoại giao cho thủ tướng Diệm. Nhiều công chức 
			cao cấp trước kia do Pháp hay các nội các tay sai bổ nhiệm cũng xin 
			thôi việc. Nhiều vùng thôn quê ở Nam bộ cũng tiếp tục bị giáo phái 
			hay CS thống trị. Ông Diệm không có đủ người và đơn vị quân đội cần 
			phải gởi đến các vùng mới tiếp thu từ phe CS. Chỉ có một số đơn vị 
			quân đội sẵn lòng ủng hộ chính phủ và chiến đấu chống Bình Xuyên, và 
			chính phủ cần các đơn vị này taị Saigon. Còn các vị chỉ huy các đơn 
			vị khác hoặc thờ ơ, cầu an hoặc không thích ông Diệm hay có thái độ 
			thụ động, chờ xem. Một số chỉ huy quân sự cũng báo cho thủ tướng 
			rằng họ không muốn can dự vào nội chiến. Ông Diệm tìm cách đem thêm 
			vào Saigon vài tiểu đoàn mà ông có thể tin cậy được, nhưng tướng Ely 
			không chịu cấp phương tiên chuyên chở. Quân đội Pháp rất hạn chế 
			trong việc cấp nhiên liệu như xăng nhớt cho các đơn vị của quân đội 
			quốc giạ Tại Saigon, người Pháp tìm cách ngăn chận sự điều động các 
			đơn vị của quân đội Việt nữạ Họ để quân Bình Xuyên tự do di chuyển 
			và mở rộng phạm vi của Bình Xuyên tại Saigon – Chợ Lớn, và chiếm giữ 
			thêm các điểm chiến lược trong thành phố. Ngày 19/4, một phát ngôn 
			của Bình Xuyên tuyên bố với một phóng viên Pháp như sau: “Diệm đang 
			trở nên mỗi ngày một suy yếu thêm. Quân đội không theo ông và các 
			tướng bỏ rơi ông. Bảo Đại khuyến khích chúng tôi cầm cự cho đến khi 
			thanh toán được thủ tướng Diệm. Người Pháp đứng về phe chúng tôi và 
			người Mỹ đang thay đổi thái độ. Nếu Diệm gây chiến, ý sẽ sụp đổ càng 
			chóng hơn và tính mạng y sẽ bị đe dọa”. 
			
			Ngoài ra, ông Diệm hình như không còn có thể vận động, lôi cuốn, hay 
			mua chuộc các lãnh tụ các giáo phái được nữạ Ông hộ pháp Cao Đài 
			Phạm công Tắc đả kích việc tướng Cao Đài Nguyễn thành Phương về với 
			chính phủ và nói rằng binh sĩ Cao Đài sẽ không tuân lệnh tướng 
			Phương. Tướng Hòa Hảo Nguyễn Giác Ngộ nuốt lời hứa trong tháng 2 là 
			sẽ đem quân về với chính phủ. Còn các lãnh tụ Hòa Hảo khác như Năm 
			Lửa Trần văn Soái, Lâm Thành Nguyên và Ba Cụt đều bác bỏ sự vận động 
			mới về với chính quyền ngày 23/4/55. Trong khi ấy, thực dân Pháp vận 
			động ráo riết với Bảo Đại để loại trừ ông Diệm. Cựu phó cao ủy Pháp 
			là Jean Daridan chạy đôn đáo từ Saigon đến Cannes, về Paris để vận 
			động Bảo Đại và chính phủ Pháp chống ông Diệm hơn thế nữạ Giới thực 
			dân Pháp tại Saigon còn muốn quân đội Pháp can thiệp trực tiếp vào 
			vụ xung đột về phe Bình Xuyên. Trong khi ấy, dù ham mê cờ bạc và ăn 
			chơi, Bảo Đại vẫn theo dõi tình thế. Ông cảm thấy Hoa Kỳ không còn 
			ủng hộ thủ tướng Diệm như truớc, qua sự phản ảnh của các viên chức 
			cao cấp Mỹ trong báo chí, đài truyền hình, hoặc số ngừơi Mỹ tại Pháp 
			hay Saigon. Có lẽ vì vậy, Bảo Đại sẽ can thiệp vào cuộc xung đột 
			giữa chính phủ và Bình Xuyên. 
			
			Đến cuối tháng 4/1955, các quan sát viên cũng như các bao chí Pháp, 
			Anh hay Mỹ, đều cho rằng những ngày làm thủ tướng của ông Diệm không 
			còn bao lâu nữạ Báo chí Pháp nói chung, có thái độ thù nghịch chống 
			ông Diệm ra mặt, và cho rằng sự sụp đổ của ông Diệm là một điều may 
			mắn cho Nam VN. Báo chí Anh tỏ ra tiếc về những nhược điểm của ông 
			Diệm và nhấn mạnh rằng những điều này làm cho sự thất bại của thủ 
			tướng Diệm không thể tránh đư ợc. Tại Hoa Kỳ, chỉ một os61 ít báo 
			chí chống ông Diệm, nhưng hầu hết các ba ù okhông còn hy vọng gì 
			chính phủ Diệm có thể tồn tại đư ợc. Đa số báo chí, ngay những tờ 
			lâu nay ủng hộ ông Diệm, đều chấp nhận sự kết thúc không may mắn, 
			tức là sự sụp đổ của chính phủ Ngô Đình Diệm vì nội chiến, và sự sụp 
			đỗ này làm cho miền Nam sẽ mất vào tay CS. 
			
			Trong khi ấy, ông Diệm vẫn cương quyết đối phó. Ngày 25/4, ông cho 
			đại tá Lansdale biết ông không còn có thể giải quyết ôn hòa được nữạ 
			Hôm sau, ông ký nghị định giải chức Lai văn Sang và cử đại tá Nguyễn 
			Ngọc Lễ làm tổng giám đốc dông an cảnh sát, ông cũng ra lệnh tất cả 
			nhân viên công an cảnh sát lâu nay dưới quyền Lai văn Sang phải đến 
			trình diện đại tá tân tổng giám đốc trong vòng 48 giờ, nếu không, sẽ 
			bị truy tố ra tòa án binh. Qua ngày sau, chính phủ công bố lệnh cấm 
			Bình xuyên di chuyển trong thành phố. Bình Xuyên không tuân lệnh của 
			ch1nh phủ và quân hai bên bắt đầu xung đột tại các nới trong thành 
			phố. Trưa 28/4, quân nhảy dù bắn vao một tòa nhà của Bình Xuyên trên 
			đai lộ Galliéni (Trần Hưng Đạo) rồi sau đấy, 4 tiểu đoàn dù và một 
			đơn vị thiết giáp tấn công vào các vị trí Bình Xuyên, còn phe Bình 
			Xuyên nã súng cối vào dinh Độc Lập. 
			
			Tại Cannes, Bảo Đại đánh điện về ra lệnh thủ tướng cử Nguyễn văn Vỹ 
			làm tổng tham mưu trưởng thay thế tướng Lê văn Tỵ. Lúc bấy giờ tướng 
			Vỹ đang chỉ huy Ngự Lâm Quân tức các tiểu đòan phòng vệ quốc trưởng 
			tại ĐàLạt. Ông Diệm đoán không sai ý đồ của Bảo Đại là sẽ cử tướng 
			Vỹ làm quyền thủ tướng và trieu hồi ông đi Pháp. 
			
			Trưa ngày 28/4, đại tá Lansdale được điện thoại của dinh Độc Lập mời 
			vào gặp thủ tướng Diệm gấp. Theo ông Lansdale thuật trong hồi ký “In 
			The Midst Of Wars”, xin tạm hiểu là “Ở Giữa Những Cuộc Chiến Tranh”, 
			khi vào dinh Độc Lập, ông thấy ông Diệm đi tới đi lui dưới hiên lầu 
			2. Ông Diệm nói là vừa nhận được tin từ HTĐ cho biết là TT Eisnhower 
			đã cho tướng Collins thay đổi chính sách về VN, bỏ rời ông và thay 
			thế bằng một chính phủ liên hiệp. Ông Diệm nhìn thẳng mặt ông 
			Lansdale và hỏi rằng: “tin này có đúng hay không?” Đại tá Lansdale 
			đáp rằng ông không tin vì tướng Collins đã cam kết với ông ràêng Hoa 
			Kỳ vẫn ủng hộ ông Diệm dù có các tin đồn trái ngược, ông sẽ điện về 
			hỏi HTĐ và phải mất nhiều giờ mới có phúc đáp, vì buổi trưa tại 
			Saigon là độ nửa đêm tại HTĐ. Ông Diệm cũng cho biết là đã xảy ra 
			nhiều vụ nổ súng trên các đường phố. Khi lái xe đến dinh Độc Lập, 
			ông Lansdale và trung úy Redick đi với ông đã phải xuống xe để núp 
			khi súng nổ gần dinh Gia Long. Theo ông Diệm, BìnhXuyên đã gây hấn, 
			họ đã có súng cối 81 ly và đặt nhắm vào dinh Độc Lập. 
			
			Sau đấy, ông Lansdale lái xe về nhà ở đường Duy Tân. Vừa vào sân 
			nhà, ông nghe tiếng nổ lớn về phía dinh Độc Lập. Cuộc tấn công của 
			phe Bình Xuyên bắt đầu thì phải. Khi ông vào nhà, điện thoại đang 
			reo. Thủ tướng Diệm gọi ông, giọng bình thản. Ông Diệm nói sẽ kêu 
			điện đàm với tướng Ely và đã sắp xếp với tổng đài để ông Lansdale 
			nghe tiếng nói của tướng Ely và hỏi ông Diệm và Ely nói với nhau 
			bằng tiếng Pháp. Ông Diệm nói rằng Bình Xuyên đã nã súng cối vào 
			dinh Độc Lập, và vụ pháo kích này hủy bỏ cuộc hưu chiến. Tướng Ely 
			bảo không nghe tiếng nổ gì cả từ nhà ông ấy. Nhà tướng Ely ở gần 
			dinh Độc Lập hơn nhà ông Lansdale độ nửa đường và ông Lansdale nghe 
			có tiếng nổ. Ông Diệm có vẻ ngạc nhiên bảo rằng tướng Ely không nghe 
			gì hết về tiếng trái phá nổ tại dinh Độc Lập, rồi tiếng động… rồi 
			điện thoại ngưng nói, giọng ông Diệm trở lại trên đường dây điện 
			thoại, hơi run. Ông hỏi tướng Ely có nghe không? Một trái phá đã nổ 
			vào tường của phòng ngủ, nơi ông đang nói điện thoại, ông muốn tướng 
			Ely hiểu rằng ông đã không phá vỡ cuộc ngưng chiến, nhưng Bình Xuyên 
			đã làm việc này và ông đã ra lệnh quân đội đánh trả ngay lập tức. 
			Tướng Ely bắt đầu muốn nói gì nhưng ông Diệm chận lời, bảo rằng đã 
			cho tướng Ely biết hết tất cả các sự kiện rồi, và ông hành động. Ông 
			Diệm cúp điện thoại. 
 
			
			ĐÁNH DẸP BÌNH XUYÊN 
			
			Chiến sự đã bùng nổ trong thành phố. Các tiểu đoàn bộ binh và một bộ 
			phận thiết giáp đánh vào các vị trí của Bình Xuyên. Nhà báo John 
			Mecklin, phóng viên của tạp chí Time & Life và nhiếp ảnh viên Howard 
			Sochurek đã chứng kiến trận đánh đẹp mắt tại sở cảnh sát trên đường 
			Trần Hưng Đạo, sau đổi tên là Đồng Khánh. Một đại đội bị một tiểu 
			đoàn Bình Xuyên bao vậy và tấn công với súng máy. Nhưng khi quân 
			Bình Xuyên tiến sát gần, đại đội này phản công, làm cho tiểu đoàn 
			Bình Xuyên chạy tán loạn vứt bỏ mũ bê rê màu lục của họ đầy đường. 
			
			Quân đội quốc gia đánh vào vị trí Bình Xuyên tại trường trung học 
			Petus Ký và bắt giữ được 37 người Pháp đồng lõa với Bình Xuyên và 
			chiếm khu sòng bạc Đại Thế Giới. Các đơn vị quân đội đều có tinh 
			thần chiến đấu anh dũng, còn số lính Bình Xuyên là loại ô hợp, trước 
			kia là du đãng, tay anh chị, lâu nay cậy thế Pháp để mang vũ khí uy 
			hiếp đồng bào, chứ đâu có lý tưởng và tinh thần gì đâu. Đại tá 
			Lansdale lái xe đi nhiều nơi trong thành phố Saigon – Chợ Lớn, quan 
			sát tình hình để báo cáo về trung ương tình báo. Bình Xuyên đại bại 
			khắp nơi. 
			
			Nhưng sở cao ủy Pháp và tòa đại sứ Mỹ tại Saigon đã gởi báo cáo về 
			Ba Lê và HTĐ cho biết tình thế trái ngược, đổi trắng thay đen, do 
			chiến dịch truyền thông xuyên tạc dữ dội của người Pháp tại Saigon. 
			Ngay các bức điện tín đầu tiên của đại tá Lansdale về CIA trung ương 
			tại Hoa Kỳ ở Langley, Virginia, cũng không được cấp trên tin vì nội 
			dung trái ngược hẳn với tin tức mà chính phủ Mỹ tại HTĐ nhận được từ 
			các nguồn khác. HTĐ điện cho đại tá Lansdale rằng nếu qủa thật ông 
			Diệm còn sống, còn cầm đầu chính phủ, còn được quân đội ủng hộ như 
			đại tá Lansdale báo cáo, thì các tin này phải được các viên chức cao 
			cấp khác tại Saigon xác nhận. Trong khi ấy, vị sĩ quan tùy viên lục 
			quân tại tòa đại sứ Mỹ và tướng O’Daniel, trưởng đoàn cố vấn quân sự 
			MĂG, cũng có nhận xét như đại tá Lansdale. 
			
			Chiều 29/4 Lansdale và trung úy Redick đến dinh Độc Lập. Toàn cả 
			dinh giống như bãi chiến trường. Khu vườn rộng bao quanh dinh có 
			nhiều lỗ do trái phá nổ đào ra, vỏ đạn rải rác nhiều nơi và nhiều 
			bức tường trong dinh bị vỡ vì bị trúng các mảnh trái phá. Các cửa sổ 
			đều đóng kín. Khắp dinh trang có mặt tại nhiều nơi. Ông Diệm tiếp 2 
			người Mỹ trong một phòng nhỏ, gần phòng ngủ của ông. Trong phòng chỉ 
			có một bàn nhỏ đầy giấy tờ, một ghế cho ông Diệm và 2 ghế nhỏ được 
			mang đến cho 2 người khách Mỹ ngồi. 
			
			Thủ tướng Diệm ngồi xuống ghế, thay vì đi tới đi lui như thường làm, 
			có quầng đen quanh hai mắt, và giọng nói của ông chậm rãi hơn bình 
			thường. Ông cho biết về sự tiến quân của các đơn vị quốc gia, Bình 
			Xuyên chỉ còn giữ được cầu chữ Y và phía Nam Chợ Lớn, sáng mai quân 
			đội sẽ đánh qua vùng này, một số đơn vị Bình Xuyên dưới quyền đại tá 
			Thái Hoàng Minh đã qua được một con sông đào và trở về với chính phủ 
			như ông sắp đặt, một số khác còn phải tác chiến vượt qua phòng tuyến 
			Bình Xuyên để đến được vùng quân đội quốc gia kiểm soát. 
			
			Với giọng đầy xúc động, ông Diệm cho biết rằng đại tá Thái Hoàng 
			Minh đã bị các hộ vệ viên của Bảy Viên bắt giữ, khi ông về nhà để 
			đem vợ con về vùng chính phủ. Ông Diệm cũng lấy ra một bức điện tín 
			dài mà Bảo Đại vừa gởi đến và đọc lớn lên. Lời lẽ trong bức điện tín 
			cho thấy rằng tác gỉa giận dữ lắm. Bảo Đại nói rằng ông Diệm làm Thủ 
			tướng để đoàn kết và phục vụ an sinh của dân VN. Thay vì làm việc 
			này, ông Diệm đã bất tuân Bảo Đại, ông đã hủy hoại mất tình thân hữu 
			với nước Pháp, ông đã đưa người Việt yêu chuộng hòa bình vào cuộc 
			chiến tranh ghê tởm huynh đệ tương tàn. Hai tay ông Diệm đã dính đầy 
			máu của đồng bào vô tội. Hàng nghìn người đã mất nhà vì các hỏa tai 
			do ông gây ra. Ông Diệm đã gây ra đại họa. Vậy khi nhận được điện 
			tín này, ông phải đáp chuyến phi cơ đầu tiên rời Saigon đi Pháp 
			trình diện quốc trưởng và giao quyền chính phủ cho tướng Nguyễn văn 
			Vỹ. 
			
			Để có quyết định về bức điện tín của Bảo Đại, ông Diệm duyệt lại với 
			đại tá Lansdale và trước sự có mặt của trung úy Redick, cả qúa trình 
			tranh đấu của ông đưa đến vụ khủng hoảng hiện tại, và từ đấy rút ra 
			các nguyên tắc chỉ đạo con người của ông. Theo ông, quyền hành của 
			chính phủ phải dùng để phục vụ dân tộc. Giành lại quyền công an cảnh 
			sát từ Bình Xuyên là đúng, vì lâu nay bọn này làm giáu với sự độc 
			quyền về cờ bạc, đĩ điếm và thuốc phiện. Nếu ông Diệm rời Saigon đi 
			Pháp, quyền hành sẽ lọt vào tay Bảy Viễn và Bình Xuyên, và việc này 
			là một đại họa cho dân tộc. Chính phủ không thể đặt nền tảng trên 
			các tệ đoan mà dân chúng coi khinh. Chính phủ phải có căn bản vững 
			chắc về liệm chính, dân chúng mới tham dự sinh hoạt quốc giạ Nếu 
			không làm như thế, là không có tự do. 
			
			Ngay lúc ấy, ông Nhu bước vào và cho biết đài phát thanh Bình Xuyên 
			đang loan nội dung của bức điện tín của Bảo Đại đán về. Như thế, 
			Bình Xuyên đã nhận được bản sao từ Bảo Đại hay tay chân của Bảo Đại 
			tại Saigon. Ông Diệm nghiến răng, quốc trưởng Bảo Đại đã công bố bức 
			điện tín với những kẻ đang tìm cách đánh đổ ông. Như thế ông quyết 
			định ở lại lãnh đạo chính phủ. Ông Lansdale hỏi lại ông Diệm có dứt 
			khoát về quyết định của ông không? và ông Diệm đáp rằng “ông biết 
			ông đang làm một việc đúng.” 
			
			Sau đấy ông Lansdale về tòa đại sứ, tường trình cho xử lý Randy 
			Kiđer tạm quyền thế trưởng nhiệm sở tướng Collins đã về HTĐ. Ông 
			cũng đánh điện về CIA trung ương thuật những điều ông Diệm đã nói về 
			tình hình chiến sự với việc quân đội quốc gia đánh bại Bình Xuyên. 
			
			Bức điện của đại tá Lansdale được tổng giám đốc CIA Allen Dulles cho 
			người cầm tay đến bộ ngoại giao đệ trình ngay cho ngoại trưởng 
			Foster Dulles. Ông này nhận được bức điện trong khi đang dùng cơm 
			khách, ông xin cáo lỗi và ngay lập tức đi đến Bạch Cung để gặp TT 
			Eisnhower. Trước đấy, tướng Lawton Collins đã được tổng thống tiếp 
			kiến và ông cũng có thảo luận với tổng thống và ngoại trưởng về vấn 
			đề miền Nam VN. Tổng thống đồng ý với đề nghị của tướng Lawton 
			Collins là chấm dứt sự ủng hộ ông Diệm, lập một chính phủ liên hiệp 
			tại Saigon và cho tướng Collins toàn quyền giải quyết vần đề chính 
			trị tại Saigon. Ngoại trưởng Foster Dulles cho điện sang tào đại sứ 
			Mỹ tại Saigon về sự thay đổi chính sách này. Nay ông Diệm thắng, 
			tổng thống Mỹ ủng hộ ông trở lại. Trong khi ấy tướng Collins đang 
			trên đường bay về Saigon để thực thi chính sách mới. Ngoại trưởng 
			Foster Dulles cho đánh điện sang tòa đại sứ Mỹ tại Saigon ra lệnh 
			đốt bỏ bức điện tín trước về sự thay đổi chính sách đối với ông 
			Diệm. 
			
			Tuy chiến sự tiếp diễn có lợi cho chính phủ, nước Pháp vẫn còn cố 
			gắng tấn công thủ tướng Diệm. Ngày 29/4/55, thủ tướng Pháp Edgar 
			Faure, người thay thế ông Mendès France trong chức vụ thủ tướng từ 
			2/1955, ra một tuyên ngôn nói rằn gông Ngô Đình Diệm không có khả 
			năng lam thủ tướng và Pháp cũng thừa nhận Nguyễn văn Vỹ là tư lệnh 
			quân đội VN. Nhưng cũng trong ngày này, ngoại trưởng Mỹ Foster 
			Dulles cảnh cáo đại sứ Pháp tại HTĐ Couve de Murville rằng Pháp 
			không được có những âm mưu lật đổ ông Diệm nữạ Tại thủ đô Pháp, Ba 
			Lê, đại sứ Mỹ Dillon cũng hội kiến với thủ tướng Edgar Faure và đưa 
			ra lời cảnh cáo như thế. 
			
			Tại Saigon, người Mỹ yêu cầu người Pháp cung cấp đầy đủ phương tiện 
			vận tải, xăng, nhớt, đạn dược cho quân đội VN vì Hoa Kỳ chi tiền. 
			Ngày 30/4/55, thủ tướng Diệm nhận được một điện tín của bộ ngoại 
			giao Mỹ xác nhận là Hoa Kỳ vẫn ủng hộ ông. 
			
			Việc Bảo Đại đứng về phe Bình Xuyên và Pháp trong vụ xung đột làm 
			cho ông cả uy tín. Nhiều đảng phái, nghiệp đoàn, tổ chức và nhân sĩ 
			lập Hội Đồng Cách Mạng lên tiếng đòi truất phế ông và đả kích Pháp. 
			Phe ông Diệm, dĩ nhiên, có vận động người ta làm việc này, nhưng lúc 
			bấy giờ dân chúng ủng hộ ông Diệm vì lâu nay BaÛo ĐaÏi cứ lo ăn chơi 
			chẳng làm gì cho xứ sở cả! Trong một tình trạng vô cùng gây cấn, có 
			khi hầu như tuyệt vọng nữa, vì Pháp và phe tay sai chống đối dữ dội, 
			đa số tổng trưởng bỏ rơi ông, còn Hoa Kỳ bên trong đã hết ủng hộ, 
			nhưng thủ tướng Diệm đã chiến thắng. Ông tượng trưng cho tình thần 
			dân tộc Việt giành lại quyền tự chủ và quyền độc lập từ người Pháp 
			tại miền Nam. Những người từ 1945-46, đi lính cho Pháp, đi đánh thuê 
			cho Pháp và dĩ nhiên giết hại đồng bào Việt trực tiếp hay gián tiếp, 
			vô dân Tây hay không, chắc cũng phần nào nhận định như trên khi chọn 
			lựa giữa sự thần phục Bảy Viễn – Bình Xuyên, hay đánh dẹp bọn này 
			dưới sự lãnh đạo của một người như ông Ngô Đình Diệm. Họ được ông 
			đưa lên làm tướng ngang hàng với các tướng Pháp rồi tướng Mỹ, thay 
			vì làm tay sai ở dưới quyền và đứng chào. Nhưng đến năm 1963, họ 
			nghe lời ngoại bang đảo chánh và cả đến giết ông Diệm, rồi lại làm 
			tay sai trở lại. Nhưng sự kiện này thuộc về phần sau. 
			
			Chiều 29/4/55, cao ủy Pháp tướng Ely vận động ngưng chiến để cứu 
			nguy cho Bình Xuyên nhưng bị thât bại. Cay cú, ông cho 400 xe tăng 
			chạy rầm rộ qua càc đường phố Saigon để thị uy. Ngòai ra, các mưu 
			toan của Bảo Đại lấy lại quyền hành với việc cử tướng Vỹ thay 
			tướngTỵ cũng bị thất bại, và tướng Vỹ bỏ trốn lên Đàlạt. Tướng Hinh 
			được Bảo Đại phái về Saigon đâu còn dám đáp phi cơ xuống Tân Sơn 
			Nhất nữa mà đến Phnom Pênh. Quân đội quốc gia tiếp tục đánh đuổi 
			quân Bình Xuyên ra khỏi Chợ Lớn rồi tiếp tục truy kích. Cuối cùng 
			tàn quân Bình Xuyên rút về Rừng Sát và đầu hàng. Phía quốc gia cũng 
			bị thiệt hại khi tướng Trình Minh Thế bị bắn tử thương trên cầu Tân 
			Thuận ngày 3/5/55 trong khi ông chỉ huy cuộc tiến quân qua cầu. 
			
			Hoa Kỳ hân hoan về sự chiến thắng của thủ tướng Diệm, qúa sự mong 
			đợi của họ. Trước kia, dù ủng hộ ông Diệm, họ có nhiều điều hồ nghi, 
			không tin ông Diệm có thể thành công đư ợc. Ngoại trưởng Mỹ Foster 
			Dulles cho rằng hy vọng thàn công cứu được miền Nam khỏi CS chỉ một 
			phần mười. Thượng nghị sĩ Mike Mansield ngày 7/12/54 nhận định rằng 
			triển vọng Hoa Kỳ giúp ông Diệm giữ vững được miền Nam có vẻ rất đen 
			tối. Đại sứ Donald Heath ngày 17/12/54 cũng gởi một bản tường trìn 
			bi quan về cơ may thành công của ông Diệm vì “có mọi bằng cớ cho 
			thấy rằng người Pháp không muốn ông Diệm thành công”. Đến tháng 
			1/1955, tướng Lawton Collins cũng đồng ý với 2 nhận định trên trong 
			một báo cáo gởi về hội đồng an ninh quốc gia Mỹ. Ngày 7/4/55, tướng 
			Collins lại điện về rằng theo ông nhận xét, ông Diệm thiếu những đức 
			tính lãnh đạo và khả năng hành chánh cần thiết để cầm đầu một chính 
			phủ có thể tranh đấu chống lại sự đồng nhất về mục tiêu và sự hữu 
			hiệu của Việt Minh dưới quyền Hồ chí Minh. Ngày 19/4/55 tướng 
			Collins lại điện về HTĐ rằng không có cách giải quyết nào khác hơn 
			là sớm thay thế sớm ông Diệm với bác sĩ Trần văn Đỗ hay bác sĩ Phan 
			huy Quát. Nay ông Diệm đã chiến thắng Bình Xuyên, các chính trị gia 
			Mỹ đổi gio.ng. Các thượng nghị sĩMike Mansfield, đảng dân chủ và 
			Knowland, đảng cộng hòa, ra tuyên ngôn ủng hộ ông Diệm. Ngày 2/5/55 
			thượng nghị sĩ Hubert Humphrey tuyên bố với đài truyền hình như sau: 
			
			“Thủ tướng Ngô Đình Diệm là hy vọng tốt nhất của chúng ta về VN. Ông 
			ta là người lãnh đạo của dân tôc. Ông xứng đáng và phải được ủng hộ 
			trọn vẹn của chính phủ Mỹ và nền ngoại giao Mỹ… ông là người độc 
			nhất trên khung trời chính trị VN có thể lôi cuốn được sự ủng hộ của 
			dân chúng một nước đến một mức đáng kể… Nếu chúng ta có điều bình 
			phẩm về sự lãnh đạo tại VN, những điều này nên hướng về Bảo Đại… Nếu 
			chính phủ VN không có đủ chỗ cho hai người này, Bảo Đại phải ra đi…” 
			
			Chính quyền Mỹ cũn glàm áp lực với Pháp đê dẹp bỏ những tàn tích 
			thực dân cò lại khi nào thủ tướng Diệ yêu cầu. Đầ tháng 5/1955, ba 
			nước Hoa Kỳ, Anh và Pháp họp tại thủ đô Pháp, Ba Lê, để bàn về sự 
			phòng thủ Aâu Châu, nhưng đề tài thật là vấn đè VN. Lập trường của 
			Hoa Kỳ và của Pháp về ông Diệm nay trở nên đối nghịch nhau. Theo 
			ngoại trưởng Mỹ Foster Dulles, ông Ngô Đình Diệm là người độc nhất 
			mà Hoa Kỳ thấy có thể cứu Nam VN chống lại trào lưu CS tại xứ này. 
			Dù có nhận định thế nào về ông Diệm trong qúa khứ, nay Hoa Kỳ phải 
			yểm trợ ông Diệm trọn vẹn, không để ông Diệm trở thành một Kerensky 
			(thủ túớng Nga sau ách mạng 1917 bị CS lật đổ và cuớp quyền). Theo 
			ngưòi Mỹ, Bảo Đại chỉ có thể làm quốc trưởng hư vị, người ta có thể 
			xử dụng Cao Đài và Hòa Hảo, chứ không thể dùng Bình Xuyên đư ợc. Hoa 
			Kỳ chi tiền để đài thọ quân đội VN và không tìm ra người nào khác để 
			có thể chi tiền trừ ông Diệm, để nhằm đạt mục đích bảo vệ miền Nam 
			chống CS. Cuộc cách mạng hiện tại ở Saigon (đây muốn nói về hội đồng 
			cách mạng tại Saigon đòi truất phế Bảo Đại) chưa thất bị CS giựt dây 
			hay ảnh hưởng đến mức độ đáng kể. Hoa Kỳ ủng hộ ông Diệm không có 
			nghĩa là Hoa Kỳ không thất những nhược điểm của ông. Dù trước kia 
			tướng Collins đã đồng ý với tướng Ely thay thế ông Diệm, nhưng bây 
			giờ tình thế đã đổi thay và ngoại trưởng Foster Dulles tin rằng phải 
			ủng hộ ông Diệm. 
			
			Thực dân Pháp thường ăn không được là tìm cách đập phá. Tổng trưởng 
			Pháp về các nước liên kết La Forest nêu ra vấn đề tham khảo vào 
			tháng 7/1955 giữa miền Bắc và miền Nam về tổng tuyển cử dự trù năm 
			1956 theo hiệp định Genevạ Ông bảo rằng nước Pháp cảm thấy Nam VN có 
			thể thắng cử năm 1956 nếu có được một chính phủ quốc gia ổn định và 
			có nền tảng rộng rãi trong cách cầm quyền và cai trị. Pháp muốn miền 
			Nam thắng tổng tuyển cử năm 1956. Ông thanh minh tiếp về chính sách 
			của Pháp giữa Bắc và Nam. Pháp còn có phái đoàn do ông Sainteny cầm 
			đầu tại Hanoi chỉ để bảo vệ quyền lợi kinh tế và văn hóạ Pháp đã từ 
			bỏ chủ trương lập các công ty hỗn hợp với CS vì Hoa Kỳ phản đối. 
			Pháp cụng đã bỏ luôn càc mỏ than tại miền Bắc nữạ Thật ra, Pháp tìm 
			cách vớt vát chút quyền lợi kinh tế tại miền Bắc nhưng bị CS hất. 
			
			Tiếp đến, ông La Forest phân tích tình hình Saigon và miền Nam trong 
			4 tháng vừa qua theo quan điểm và quền lợi của Pháp. Theo ông, Pháp 
			đã thẳng thắn ủng hộ ông Diệm từ lúc ban đầu. Bắt cứ điều gì nói 
			khác là không đúng sự thật (chính trị và ngoại giao cần nhiều lúc 
			nói láo và vu khống không biết ngượng mồm và xấu hổ). Tháng 11/1954, 
			Hoa Kỳ đã đồng ý thuyết phục hay “buộc” ông Diệm mở rộng chính phủ 
			nhưng ông không làm việc này, và sau đấy xung đột với Bình Xuyên và 
			các giáo phái. HTĐ ban đầu tán thàn giải pháp Ely – Collins rồi thay 
			đổi ý kiến. Hội đồng cách mạng tại Saigon là do Việt Minh (CS) kiểm 
			soát. Ngoài ra còn có một chiến dịch dữ dội chống người Pháp và quân 
			đội viễn chinh Pháp. Cán bộ Việt Minh lợi dụng việc này, nhưng một 
			số người Mỹ không có ý thức đầy đủ. 
			
			Thủ tướng Pháp Edgar Faure tiếp lời và xác nhận: Pháp không đồng ý 
			với Hoa Kỳ và đã đến lúc cần nói thẳng. Ông Faure nói rằng ông Diệm 
			không chỉ “bất lực” nhưng còn “điên khùng” nữa, ông lợi dụng lúc 
			tướng Collins vắng mặt tại Saigon để làm một cú bạo động dành được 
			thắng lợi lúc ban đầu, nhưng không đóng góp vào giải pháp lâu dài. 
			Ông Diệm sẽ đem lại thắng lợi cho Việt minh, dồn sự thù ghét của mọi 
			người vào nước Pháp và gây cuộc đổ vỡ giữa Pháp và Hoa Kỳ. Ông Faure 
			cho rằng ông Diệm là “một sự lựa chọn tai hại”, một giải pháp mà 
			nước Pháp không chấp nhận được, không có cớ may thành công và cải 
			tiến tình thế, không có ông Diệm có thể tìm ra giải pháp, nhưng với 
			ông Diệm không có giải pháp nào cả. Nhưng theo thủ thướng Edgar 
			Faure, nước Pháp có sẵn một giải pháp hữu hiệu, hay có thể làm sáng 
			tỏ tình thế. Như thế, có sự bất động ý kiến về căn bản giữa Pháp và 
			Hoa Kỳ về vấn đề thủ tướng Diệm và VN. Pháp cay cú và thù hằn ông 
			Diệm vì ông thắng lợi trong việc giành lại chủ quyền. Thủ tướng Pháp 
			Edgar Faure hỏi tiếp: “nếu bây giờ Pháp rút quân đội viễn chinh về 
			nước để tránh tiếng thực dân, đáp lời yêu cầu của ông Diệm, Hoa Kỳ 
			có sẵn lòn gbảo vệ kiều dân và người tỵ nạn Pháp không? 
			
			
Ngoại trưởng Mỹ Foster Dulles nhắc lại rằng ông cũng biết những 
			nhược điểm của ông Diệm nhưng ông không đồng ý với thủ tướng Edgar 
			Faure, ông Diệm đã cho thấy có nhiều khả năng và bây giờ không thể 
			nào loại trừ ông được nữạ Lúc này ông Diệm mạnh hơn lúc Bảo Đại tìm 
			cách thâu hồi lại quyền hành lần đầu tiên. Theo ông Foster Dulles, 
			cạnh khía tai hai của vấn đề là sự bất đồng ý giữa Hoà Kỳ và Pháp về 
			ông Diệm. Vấn đề VN không đáng làm Hoa Kỳ và Pháp gây gổ với nhau và 
			ông thêm rằng Hoa Kỳ sẽ rút lui ra khỏi VN nếu việc này giải quyết 
			được vấn đề. Đối với Hoa Kỳ, sự lựa chọn là ủng hộ ông Diệm hay rút 
			lui. Quyền lợi của Hoa Kỳ tại VN giản dị chỉ là giữ vững miền này 
			khỏi bị CS thôn tính. Hoa Kỳ sẽ xét bất cứ đề nghị nào mà Pháp đưa 
			ra, nhưng ông cảnh cáo rằng Hoa Kỳ sẽ không đài thọ chi phí cho bất 
			cứ giải pháp nào mà ông Foster Dulles xét là xử dụng để thay thê ông 
			Diệm. 
			
			Ngoại trưởng anh ôg MacMillan phát biểu rằng việc đi đến một quyết 
			định về VN là khá quan trọng để đạt đến trong buổi họp đêm ấy, nên 
			ông đề nghị hoãn vấn đề đến phiên họp sau, vào ngày 11/5/55. 
			
			Đến phiên họp ngày 11/5/55, ngoại trưởng Mỹ Foster Dulles nhấn mạnh 
			rằng không nên để vấn đề VN, dầu có quan trọng đến đâu, làm sứt mẻ 
			bối bang giao Pháp – Mỹ và việc Hoa Kỳ ủng hộ ông Diệm không nên làm 
			đổ vỡ sự liên minh giữa hai nước. Ông đề nghị Pháp hãy tiếp tục ủng 
			hộ ông Diệm cho đến khi quốc hội miền Nam được bầy ra, và quyết định 
			về cơ cấu chính trị có thể bao gôm ông Diệm hay không. Ngoại trưởng 
			Anh MacMillan cũng ủng hộ đề nghị của Hoa Kỳ vì đặc phái viên của 
			Anh quốc tại ĐNA đã báo cáo rằng ông Diệm đã chiến thắng và nay nên 
			ủng hộ ông Diệm, dù trước kia viên chức này là một rong người phê 
			phán ông Diệm tàn nhẫn nhất! 
			
			Sau khi thấy ngoại trưởng MacMillan đồng ý vì ngoại trưởng Mỹ Foster 
			Dulles, thủ tướng Pháp Edgar Faure chấp thuận theo. Nhưng ông nhấn 
			mạnh rằng chính phủ Ngô Đình Diệm phải được mở rộng, cuộc tuyển cử 
			bầu quốc họi nên được tổ chức càng sớm càng hay, cần giải quyết vấn 
			đề giáo phái, chấm dứt sự tuyên truyền chống Pháp, phải giữ Bảo Đại 
			làm quốc trưởng, các viên chức Mỹ làm hại bang giao Pháp – Mỹ như 
			đại tá Edward Lansdale phải bị triệu hồi về nước và Hoa Kỳ bảo đảm 
			bảo vệ các quyền lợi, kinh tế, văn hóa và tài chánh của Pháp tại 
			miền Nam. Ông Foster Dulles bảo rằng nói chung ông đồng ý với các ý 
			kiến của thủ tướng Pháp, nhưng ông thêm rằng ông Diệm không phải là 
			bù nhìn của Hoa Kỳ, và ông không thể bảo đảm các vấn đề liên hệ về 
			VN đư ợc. Ông cũng đề nghị mỗi nước nêu ra chính sách của mình và 
			hành động theo đấy về vấn đề VN và không còn có sự thỏa hiệp giữa 
			Hoa Kỳ và Pháp. Thực chất của các điều trao đổi cho thấy Pháp và Hoa 
			Kỳ không còn có một chính sách chung về VN nữa, Hoa Kỳ sẽ hành động 
			độc lập trong tương lai. 
			
			Trong khi ấy, chính phủ Pháp cũng lúng túng và bối rối vì chính phủ 
			Diệm đã đưa ra một hồ sơ về các hành động giúp Bình Xuyên và chống 
			chính phủ của quân đội Pháp. Một số sĩ quan Pháp làm cố vấn cho Bình 
			Xuyên bị bắt giữ tại các vị trí Bình Xuyên, đài phát thanh Bình 
			Xuyên đã được đặt trong một doanh trại Pháp, một xe cứu thương Pháp 
			bị bắt qủa tang chở vũ khí cho Bình Xuyên tron gkhi chiến sự đang 
			tiếp diễn. Ngoài ra, sau khi Bình Xuyên bị đánh bại, quân đội Pháp 
			còn dựng lên những hàng rào chận đường, làm chậm trễ sự tảo thanh 
			các ổ kháng cự còn sót lại. Người Pháp bảo rằng các hành vi này 
			không được cấp trên cho phép. Lời bào chõa này giúp cho thủ tướng 
			Diệm có lý do mạnh hơn để đòi Pháp triệu ồi vê 2 nưóc những phần tử 
			đã phạm những hành động nói trên. 
			
			Thủ tướng Diệm cũng cải tổ chính phủ ngày 10/5/55 và tuyên bố dự trù 
			tổ chức tuyển cử vào ngày 4/3/56. Tướng Collins rời Saigon 4 ngày 
			sau để trở về chức vụ cũ của ông tại Liên Minh Bắc Đại Tây Dương ở 
			Aâu Châu. Vào lúc này, Hoa Kỳ hoàn toàn tín nhiệm thủ tướn gDiệm. Độ 
			hai tuần sau, đại sứ mới của Hoa Kỳ G. Frederick Rheinhardt đến 
			Saigon, và ông tuyên bố thực thi chính sách của Hoa Kỳ là ủng hộ 
			chính phủ hợp pháp Ngô Đình Diệm. 
			
			Cao ủy Pháp tướng Paul Ely hết nhiệm vụ và về Pháp ngày 20/6/55. 
			Nhân dịp này, thủ tướng Diệm cũng đòi Pháp không được cử cao ủy sang 
			Saigon nữa, nhưng chỉ cử đại sứ và phải được Nam VN chấp nhận. Pháp 
			chưa chịu thỏa mãn lời yêu cầu này. Cũng trong ngày tướng Ely đáp 
			phi cơ về nước, người đồng ý rút quân đội ra khỏi Saigon, theo lời 
			yêu cầu của ông Diệm. Sau đấy, quân đội quốc gia cũng không còn phụ 
			thuộc bộ chỉ huy Pháp. Lúc bấy giờ, Pháp cần đưa các đơn vị tại miền 
			Nam sang đánh nhau với phe kháng chiếng Angêri. Vào khoảng giữa năm 
			1955, quân đội viễn chinh Pháp từ 175,000 binh sĩ giảm xuống còn độ 
			30,000 người và đóng xung quanh Vũng Tàu. Đến tháng 8/1955 thủ tướng 
			Diệm phái bộ trưởng Nguyễn hữu Châu sang thủ đô Pháp, Ba Lê, yêu cầu 
			Pháp rút hết các lực lượng quân sự về nước, theo lời Pháp hứa tại 
			hội nghị Geneva năm 1954. Pháp đồng ý vì cần dùng tất cả lực lượng 
			tại Angêri. Người lính Pháp cuối cùng rời lãnh thổ Nam VN vào ngày 
			28/4/56, và cũng trong ngày này bộ tư lệnh Pháp tại VN, Lào và Cao 
			Miên chính thức giải tán. 
			
			Thủ tướng Diệm cũng đặt một nền tảng hợp pháp cho chính quyền. Ngày 
			23/10/55, một cuộc trưng cầu dân ý truất phế Bảo Đại và bầu ông đến 
			98% số phiếu, một tỷ lệ qúa cao với số phiếu tại Saigon – Chợ Lớn, 
			nhiều hơn số cử tri đã được ghi danh, gây ra dư luận không tốt, tron 
			gnước và ở ngoại quốc một cách đáng tiếc. Ba ngày sau, thủ tướng Ngô 
			Đình Diệm công bố chế độ công hòa do ông làm tổng thống. Nuớc Pháp 
			cũng như Hoa Kỳ và các xứ khác đều công nhận chế độ cộng hòa Nam VN, 
			cử ông Henri Hoppenot làm đại sứ, kế vị cao ủy Paul Ely, đồng ý 
			không chấp nhận một đại diện ngoại giao Bắc Việt tại Paris và xác 
			nhận phái đoàn do ông Sainteny cầm đầu tại Hanoi chỉ có nhiệm vụ 
			kinh tế và văn hóạ Cũng trong tháng này, TT Diệm thình lình chấm dứt 
			các thỏa ước kinh tế và tài chánh ký với Pháp ở Ba Lê năm 1954, và 
			miền Nam chuyển từ khối đồng quan Pháp sang khối mỹ kim. Các doanh 
			thương Pháp phải tuân theo những điều lệ thương mại mới chặt chẽ 
			hơn, đâu còn dễ kiếm tiền như trong thời chiến trnah hay trước kia 
			trong thời Pháp thuộc. Một số bất mãn rời khỏi miền Nam. TT Diệm 
			cũng đưa ra một số điều kiện đoài Pháp phải thực hiện, nếu muốn bang 
			giáo trở lại với miền Nam. Nước Pháp phải: 
			
			“Từ bỏ hiệp định Geneva, không được nói đến tuyển cử năm 1956, chấp 
			nhận công khai và không dè dặt chính sách của TT Diệm, gián đoạn mọi 
			bang giao với chính phủ Hồ chí Minh và dĩ nhiên triệu hồi phái đoàn 
			Sainteny vê nước.” 
			
			Nước Pháp đâu chịu thỏa mãn hết các đòi hỏi trên của ông Diệm. Những 
			các đòi hỏi trên cho thấy ông Diệm nay là nguyên thủ của một nước tự 
			chủ và độc lập, ngang hàng với nước Pháp, bang giao bình đẳng qua 
			lại. Pháp còn nhiều quyền lợi kinh tế tại miền Nam như các đồn điền 
			cao su, trà và cà phê, thay vì mất hết tài sản như tại miền Bắc. 
			Tiếp theo đấy, TT Diệm triệu tập về nước các nghiï sĩ đai diện VN 
			tại hội đồng liên hiệp Pháp. Như thế ông Ngô Đình Diệm đã giành lại 
			quyền tự chủ của dân tộc từ tay người Pháp và Nam VN trở thành một 
			nưóc độc lập. Nước Pháp đâu có hài lòng nhưng không làm gì được. 
			
			Về phần hiệp đinh Geneva, TT Diệm ban đầu có thái độ cứng rắn, cho 
			rằng Nam VN không bị ràng buộc trên bất cứ phương diện nào bởi hiệp 
			định này. Trong khi ấy, Pháp là nước phụ trách thi hành hiệp định 
			Genevea và là thành phần của ủy ban đinh chiến với chính quyền Hanoi 
			và ủy hội quốc tế. Nhưng Pháp không còn có quân đội hiện diện ở miền 
			Nam, như khi hiệp định Geneva được ký kết vào năm 1954. Ban đầu, TT 
			Diệm không chịu liện hệ công khai với ủy hội quốc tế, nhưng đồng ý 
			lo cho ủy hội nếu Pháp để lại một phái đoàn nhỏ để làm nhiệm vụ của 
			Pháp và đóng góp phí tổn. Ngoại trưởng Mỹ Foster Dulles tán thành 
			lậtp trường của ông Diệm. Sau đây, ông Diệm mềm dẻo hơn: Nam VN chịu 
			tôn trọng các điều khoản của hiệp định Geneva và phụ trách an ninh 
			cho ủy hội quốc tế từ tháng 5/1955, Nam VN cũng chịu cử một phái 
			đoàn thay thế phái đoàn liên lạc Pháp với ủy hội quốc tế, còn nước 
			Pháp chỉ còn là thành phần của ủy ban đình chiến song phương với 
			chính phủ HoÀ chí Minh và đài thọ chi phí cho ủy hội quốc tế. TT 
			Diệm bác bỏ cuộc tổng tuyển cử dự trù trong bản tuyên ngôn kết thúc 
			hội nghị Geneva vì Bắc VN dưới chế độ CS đâu có tụ do mà tổ chức 
			tuyển cử tự do. Ông cũng từ chối không chịu thảo luận về vấn đề này, 
			dầu chính quyền Hanoi có yêu cầu nhiều lân. Hai nước đồng chủ tịch 
			hội nghị Geneva là Liên Xô và Anh quốc không đả động gì đến vấn đề 
			này, còn Hoa Kỳ ủng hộ lập trường của TT Diệm. 
			
			Tài liệu mật của Ngũ Giác Đài đã viết về ông Diệm trong giai đoạn 
			này như sau: 
			
			“Bất cứ lý do nào mà ông Diệm được chọn làm thủ tướng, lúc ông lái 
			chính quyền, ít người xem ông có triển vọng thành công, còn số người 
			sẵn lòng ủng hộ ông công khai còn ít ơn nữạ Thật vậy, từ ngày cầm 
			quyền 7/7/54 cho đến tháng 5 năm sau, ông thật là đơn độc. Bảo Đại 
			không trợ giúp, Pháp chống đối, còn những điều mà Hoa Kỳ cho ông là 
			khuyên răn, chỉ trích và hứa hẹn, nhưng viện trợ vật chất hiếm hoi. 
			Ngô Đình Diệm trong 10 tháng vượt qua sự phân chia xứ sở bởi các 
			cuờng quốc tại Geneva, hai mưu đồ đảo chánh của vị tham mưu trướng, 
			những cuộc xung đột điên loạn với Bình Xuyên và giáo phái, việc tiếp 
			thu các vùng Việt minh và số 900,00 dân di cư từ Bắc vào Nam.” 
			
			Mười tháng cầm quyền đầu tiên của ông Ngô Đình Diệm, tức 300 ngày 
			đầu, là những ngày oanh liệt và hào hùng nhất trong đời chính trị và 
			đối ngoại của ông! Sự thành công của ông đã làm cho Nam VN độc lập 
			như Aán Độ, Hồi Quốc như ông mong ước từ lâu nay. Ông Diệm tượng 
			trưng cho lòng yêu nước của người VN từ Nam ra Bắc, ông cũng mong 
			ước xứ sở thống nhất, thật sự độc lập và tự do không bị CS thống 
			trị, nhưng kẻ thù đâu để ông yên. Trong khi ông tranh đấu gay go, 
			chúng đã bắt đầu thực thi mưu đồ đánh phá chính quyền của ông mới 
			xây dựng, và thôn tình miền Nam. Phần khác ông cũng phải bảo vệ chủ 
			quyền của xứ sở với người đàng minh Hoa Kỳ, sau khi thiết lập nền đệ 
			nhất cộng hòa. 
			
			Hoàng Ngọc Thành & Nhân Thị Nhân Đức 
[Hoàng Ngọc Thành & Nhân Thị Nhân Đức, Những Ngày Cuối Cùng Của TT Ngô Đình Diệm, chương 3, trang 87-123]
 
 
No comments:
Post a Comment