Trong giai đoạn đấu tranh giành độc lập, Việt Minh đã áp dụng một chiến lược chính trị tinh vi để che giấu bản chất cộng sản nhằm thu hút sự ủng hộ rộng rãi từ các tầng lớp xã hội. Ngày 11 tháng 11 năm 1945, Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố giải tán, nhằm giảm nhẹ vai trò của chủ nghĩa cộng sản và buộc Đảng Cộng sản Đông Dương hoạt động ngầm để thu hút thêm sự ủng hộ từ quần chúng.
Chính sách trong nước của họ là đoàn kết tất cả các lực lượng có thể cho cuộc kháng chiến và độc lập, bao gồm nông dân, công nhân, sinh viên và một số thương gia cũng như trí thức. Chiến lược này cho phép họ huy động tối đa lực lượng dân tộc trong cuộc kháng chiến, kể cả các thành phần tư sản, trí thức và địa chủ yêu nước.
Đầu thập niên 1950, bối cảnh Chiến tranh lạnh leo thang tạo ra áp lực lớn đối với lãnh đạo Việt Nam. Việc chưa thực hiện cải cách ruộng đất ban đầu là một trong những lý do khiến Stalin không hài lòng với các cộng sản Việt Nam. Để đảm bảo sự ủng hộ của Liên Xô, vốn đồng ý để Trung Quốc trực tiếp hỗ trợ trong chiến tranh, Đảng Cộng sản Việt Nam quyết định thực hiện cải cách ruộng đất ngay cả trước khi họ đánh bại người Pháp.
Mao Trạch Đông chấp nhận quan điểm của Stalin về "cách mạng cộng sản toàn thế giới" và đồng ý chia sẻ "trách nhiệm quốc tế" ủng hộ các cộng sản Việt Nam. Stalin cam kết rằng "Đối với Việt Nam, chúng tôi cảm thấy mối quan tâm ngang bằng với Trung Quốc" và "Từ bây giờ, anh [H] có thể tin tưởng vào sự hỗ trợ của chúng tôi".
Vào ngày 14 tháng 4 năm 1953, lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam khởi động chiến dịch cải cách ruộng đất theo khuyến nghị của cố vấn Trung Quốc La Quý Ba (Luo Guibo). La Quý Ba sau đó trở thành đại sứ Trung Quốc đầu tiên tại Việt Nam vào tháng 9 năm 1954 và đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển giao kinh nghiệm cải cách từ Trung Quốc.
Theo chỉ thị của Mao và đồng chí Thiếu Kỳ, cố vấn Trung Quốc đã giới thiệu kinh nghiệm Trung Quốc cho Việt Nam và điều chỉnh cho phù hợp với tình hình địa phương. Hơn 100 cán bộ Việt Nam được đưa sang Trung Quốc đào tạo về cải cách ruộng đất từ năm 1953, và một bộ máy chuyên môn do Trương Đức Quần đứng đầu được thành lập để hỗ trợ.
Đánh giá tổng thể
Dựa trên các nguồn tài liệu quốc tế, cải cách ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam không phải là cuộc cách mạng nông nghiệp đơn thuần mà thực chất là một chiến dịch chính trị có hệ thống để loại bỏ đối thủ, phương tiện chứng minh lòng trung thành với khối cộng sản, công cụ tái phân phối quyền lực theo ý đồ chính trị, và cách thức tạo lập cơ sở xã hội cho chế độ mới.
Mô hình cải cách ruộng đất của Trung Quốc tuy thành công trong việc đáp ứng nhu cầu đất đai của nông dân nghèo, nhưng cũng tạo ra hậu quả tiêu cực đáng kể do Mao nhấn mạnh quá mức đấu tranh giai cấp và đàn áp. Việt Nam học tập máy móc mô hình này mà không nghiên cứu kỹ điều kiện cụ thể, dẫn đến những hậu quả thảm khốc hơn so với bản gốc.
Cải cách ruộng đất không đơn thuần là chính sách kinh tế mà là công cụ chính trị để loại bỏ các thế lực không cùng lợi ích, tạo nỗi sợ hãi trong dân chúng, củng cố sự thống trị tuyệt đối của đảng cộng sản và xây dựng hệ thống kiểm soát từ cơ sở. Cuộc cải cách đã tạo nền tảng cho sự thống trị lâu dài thông qua việc loại bỏ các thế lực đối lập và tạo ra một hệ thống kiểm soát chặt chẽ từ cấp cơ sở.
Cải cách ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam là minh chứng cho sự nguy hiểm của việc sử dụng bạo lực để thay đổi xã hội một cách triệt để, tầm quan trọng của pháp quyền và nhân quyền trong mọi quá trình cải cách, hậu quả lâu dài của việc hy sinh công lý để phục vụ mục tiêu chính trị, và sự cần thiết phải đánh giá lịch sử một cách khách quan để tránh lặp lại sai lầm.
Cho đến ngày nay, đây vẫn là chủ đề nhạy cảm, như thể hiện qua việc triển lãm về cải cách ruộng đất tại Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam năm 2014 chỉ kéo dài ba ngày trước khi đóng cửa "vì lý do kỹ thuật". Điều này cho thấy tầm quan trọng của việc nghiên cứu và thảo luận cởi mở về lịch sử để rút ra bài học cho tương lai.
Quy mô cải cách
Cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam từ năm 1953 đến 1956 không chỉ là một chính sách kinh tế đơn thuần mà còn là một chiến dịch chính trị có hệ thống nhằm loại bỏ đối thủ và tái phân phối quyền lực.
Về số liệu thương vong, học giả Edwin E. Moïse ước tính tổng số người bị hành quyết là 13.500 người. Năm 1990, nhà kinh tế Võ Nhân Trí báo cáo đã tìm thấy một tài liệu trong lưu trữ trung ương đảng ghi số người bị hành quyết oan là 15.000. Tuy nhiên, một số nguồn khác ước tính con số này có thể cao hơn nhiều, từ 242.000 đến 922.000 người chết trong toàn bộ giai đoạn 1945-1956 nếu tính cả các nguyên nhân gián tiếp. Tài liệu Bộ Chính trị ngày 4 tháng 5 năm 1953 quy định tỷ lệ hành quyết "một người trên một nghìn dân", tương đương khoảng 15.000 người theo dự kiến ban đầu.
Đáng chú ý hơn là số lượng người bị phân loại sai trong cuộc cải cách. Theo ghi nhận của Radio Free Asia, có 172.000 người trở thành nạn nhân bị xét xử sai, nhiều người trong số này bị trầm cảm nghiêm trọng đến mức phải tự tử. Trong tổng số 172.008 người bị quy là địa chủ và phú nông, có tới 71,66% (tức 123.266 người) bị phân loại sai. Thậm chí 84.000 đảng viên và cán bộ cũng bị kỷ luật, chiếm hơn 55% tổng số, cho thấy quy mô rộng lớn của chiến dịch.
Cuộc cải cách đã tạo ra nhiều trường hợp oan sai đáng chú ý, thể hiện sự thiếu công bằng trong quá trình thực thi. Nguyễn Thị Năm trở thành người đầu tiên bị hành quyết vào ngày 9 tháng 7 năm 1953, mặc dù bà là người tích cực ủng hộ kháng chiến chống Pháp.
Thậm chí các lãnh đạo quân sự cao cấp cũng không thoát khỏi sự nghi ngờ. Thiếu tướng Vương Thừa Vũ, Tư lệnh Đại đoàn 308 và Chủ tịch Ủy ban Quân quản Hà Nội, đã bị một nhóm dân chúng bắt giữ ở ngoại thành Hà Nội vì bị tố cáo là địa chủ có xuất thân tư sản, lập trường chính trị không rõ ràng.
Phó Bảng Đặng Văn Hướng, Bộ trưởng phụ trách Thanh-Nghệ-Tĩnh của Chính phủ, khi về quê đã bị dân địa phương đấu tố vì lý do ông từng làm quan cho triều Nguyễn. Họ không hề biết ông là lãnh đạo cấp cao, và ông đã ốm chết tại quê nhà Diễn Châu vì căng thẳng từ việc bị tố cáo.
Ngay cả các cháu nội của Phan Bội Châu, trong đó có một trung đội trưởng với gia đình nghèo chỉ có 3 sào đất cho 3 mẹ con, nhưng cũng bị dân địa phương quy là địa chủ và bị giam một thời gian. Theo tài liệu điều tra của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thậm chí các lãnh đạo Trung ương cũng từng bị người dân ở quê nhà liệt vào danh sách đấu tố vì họ chỉ biết đây là con của quan lại, địa chủ phong kiến.
Cơ chế thực thi và kiểm soát tư tưởng
Một trong những đặc điểm đáng chú ý nhất của chiến dịch là việc áp đặt tỷ lệ phân loại cứng nhắc. Mức 5,68% địa chủ trong dân số địa phương cao hơn rất nhiều so với thực tế, khi mà địa chủ trung bình ở miền Bắc chỉ sở hữu 0,65 héc-ta đất. Các cán bộ phải thực hiện "kích thành phần", nghĩa là tìm ra đủ số lượng địa chủ theo tỷ lệ quy định từ trên xuống.
Quy trình thực thi được thực hiện có hệ thống qua nhiều giai đoạn. Trong giai đoạn chuẩn bị, các cán bộ áp dụng chính sách "3 Cùng" (cùng ăn, cùng ngủ, cùng làm) với bần cố nông để thu thập thông tin và tạo "rễ" ủng hộ. Tiếp theo là việc phân định và phân loại tất cả gia đình thành 7 thành phần từ địa chủ đến cố nông, trong đó địa chủ lại được chia thành các loại khác nhau.
Lớp "tố khổ" được tổ chức để đào tạo nông dân cách tố cáo tội ác của địa chủ, khuyến khích họ nhớ lại các hành vi bóc lột. Cuối cùng là các buổi đấu tố công khai diễn ra ban đêm với sự tham gia của hàng trăm đến hàng nghìn người từ các làng lân cận.
Theo sắc lệnh 150/SL ngày 12 tháng 4 năm 1953, các tòa án nhân dân đặc biệt được thành lập gồm toàn nông dân không hiểu biết pháp luật. Trong thực tế các tòa án này thường tự ý tuyên án dựa vào cảm xúc đám đông.
Sự thay đổi chính sách văn hóa phản ánh rõ nét tâm lý chính trị của giai đoạn này, điển hình là trường hợp tác phẩm "Số Đỏ" của Vũ Trọng Phụng. Trước năm 1954, tác phẩm này được đánh giá cao vì phê phán chế độ thực dân, nhưng sau năm 1954 lại bị cấm từ 1960 đến 1986 vì được coi là không phù hợp với chế độ mới. Điều này minh họa nguyên tắc khi chưa nắm quyền thì khuyến khích các tác phẩm phê phán chế độ, nhưng khi đã nắm quyền thì kiểm soát nghiêm ngặt mọi xu hướng tiếng nói bất đồng.
Khi người gia cấp cũ, tư sản rời đi năm 1954, hàng nghìn ngôi nhà được chính phủ cộng sản tiếp quản. Có gần 3.000 ngôi nhà khang trang ở Hà Nội được xây từ 1890-1930. Chính quyền yêu cầu chủ sở hữu còn lại phải chia nhỏ tài sản và trao phần cho cách mạng. Việc này không chỉ có ý nghĩa kinh tế mà còn là biểu tượng chuyển giao quyền lực từ tầng lớp cũ sang cán bộ nhà nước mới.
Chiến dịch chỉnh đốn
Đảng đã để Trường Chinh đứng ra chịu trách nhiệm chính. Trường Chinh phải từ chức Tổng Bí thư nhưng vẫn giữ các chức vụ khác. Đây là chiến thuật chính trị phổ biến khi có sai lầm lớn, lãnh tụ tối cao thường được bảo vệ bằng cách để cấp dưới đỡ đạn.
Chính phủ Bắc Việt Nam đã xin lỗi về những thái quá và cố gắng khắc phục sai lầm, nhưng tính chất hạn chế của việc sửa sai được thể hiện rõ ràng. Việc sửa sai chỉ phục hồi cho 70-80% số người bị kết án, chủ yếu tha cho những người từng theo đảng có địa vị. Đa số địa chủ thực sự vẫn không được phục hồi hoàn toàn tài sản, và mục tiêu loại bỏ giai cấp địa chủ vẫn được duy trì.
Hậu quả xã hội
Hậu quả của cải cách ruộng đất góp phần quan trọng vào làn sóng di cư lớn sau Hiệp định Geneva. Gần một triệu người Bắc Việt đã di chuyển vào Nam do cải cách ruộng đất và các chiến dịch triệt để khác. Cho thấy mức độ bất an sâu sắc trong dân chúng.
Tình hình càng trở nên căng thẳng khi nông dân bắt đầu nổi dậy chống lại chính quyền. Vào tháng 11 năm 1956, khoảng 20.000 nông dân ở Nam Đàn nổi dậy và bị đàn áp với 6.000 người thiệt mạng, như được ghi nhận bởi Alpha History. Tại Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, 20.000 nông dân gây bạo động, buộc chính quyền phải dùng Sư đoàn 324 để tái lập trật tự. Ngoài ra, các cuộc bạo động nghiêm trọng phản đối những thái quá của cải cách ruộng đất đã nổ ra vào tháng 11 năm 1956 tại một huyện nông thôn chủ yếu là Công giáo, dẫn đến 1.000 người chết hoặc bị thương, và vài nghìn người bị bỏ tù.
Cuộc cải cách không chỉ thay đổi cơ cấu kinh tế mà còn thay đổi cấu trúc xã hội một cách triệt để. Nhiều sách vở chữ Nho, chữ Nôm, hoành phi, câu đối bị đốt cháy. Các đình, chùa, đền, miếu bị phá hủy hoặc biến thành nơi khác.
Ảnh: Theo ông Chu Đình Xương, nguyên Giám đốc Sở Công an Bắc Bộ
No comments:
Post a Comment