* Đinh Yên Thảo (Danlambao) chuyển dịch -
Lời người dịch:
Xuất thân trong một dòng họ ba đời binh nghiệp danh tiếng khi có ông nội và cha là những Đô Đốc Hải Quân Hoa Kỳ,
Thượng
Nghị Sĩ John McCain là một trong các chính khách đương thời có những
trải nghiệm cá nhân sâu đậm với cuộc chiến tranh Việt Nam.
Trong
một phi vụ oanh tạc Hà Nội vào ngày 26 Tháng 10 năm 1967, phi cơ của
Thiếu Tá không quân lực lượng Hải quân Hoa Kỳ John McCain, 31 tuổi, bị
bắn hạ ngay trên bầu trời Hà Nội. Bị bắt sống, bị tra tấn và cầm tù
trong hơn 5 năm trời, TNS McCain được trao trả tù binh vào Tháng 3 năm
1973 và đã viết về những năm tháng tù tội tại Hỏa Lò Hà Nội ngay sau khi
được trả tự do.
Bài
viết được đăng lần đầu tiên trên tờ US News & World Report vào
Tháng 5 năm 1973 và được đưa lên trang mạng này vào năm 2008.
Để
tưởng niệm TNS John McCain vừa qua đời, xin được giới thiệu đến độc giả
một hồi ký giá trị và xác tín của ông về những ngày ngục tù này. Bản
dịch do người dịch đặt tựa và tiểu mục (ĐYT)
*
Phần 1: Sa vào tay địch
Đó
là ngày 26 Tháng 10 năm 1967. Tôi đang bay ngay trên bầu trời trung tâm
Hà Nội đan chéo đầy hỏa tiễn trong phi vụ thứ 23 của mình, thì bị một
hỏa tiễn Nga kích thước cỡ cột điện thoại bắn tung cánh phải chiếc
Skyhawk ném bom tôi bay.
Phi
cơ bổ nhào từ cao độ khoảng 4,500 feet xuống đất, bị đảo ngược lại, gần
như chúi thẳng đầu xuống đất. Tôi kéo cần bung dù thoát hiểm. Lực phóng
làm tôi bị bất tỉnh vì tốc độ gió đâu khoảng 500 knot (chú thích người
dịch: 926 km/giờ).
Lúc
đó tôi không nhận thức được, nhưng chân phải ngay quanh đầu gối và ba
nơi trên cánh tay phải cùng cánh tay trái của tôi đã bị gãy. Tôi tỉnh
lại ngay trước khi cánh dù của tôi rơi xuống một hồ nước ngay một góc
của Hà Nội, một trong những hồ họ gọi là Hồ Tây.
Mũ
phi công và mặt nạ dưỡng khí của tôi đã bị thổi bay đâu mất. Tôi chạm
mặt nước và bị chìm xuống đáy. Tôi nghĩ rằng hồ sâu khoảng 15 feet, cũng
có thể 20. Tôi chòi chân phía dưới để nổi lên mặt nước. Lúc đó tôi
không cảm thấy bất kỳ đau đớn nào.
Tôi
hít một hơi không khí và bắt đầu chìm xuống lại. Tất nhiên là vậy vì
tôi đang mang đồ bay và các thiết bị trên người nặng ít nhất cũng 50
lbs. Tôi chìm xuống và cố gắng chòi lên mặt nước lần nữa.
Tôi
không thể hiểu tại sao tôi không thể sử dụng chân phải hay tay của
mình. Tôi choáng váng, trồi lên lần nữa và lại bị chìm xuống. Lần này
thì tôi không thể trồi lên lại mặt nước. Mang chiếc áo phao cứu sinh
trên người, tôi cúi xuống dùng miệng kéo dây và cuối cùng cũng nổi lên
lại mặt nước.
Vài
cán binh Bắc Việt đã bơi ra kéo tôi vào bờ và ngay lập tức họ bắt đầu
lột đồ tôi ra, theo như thủ tục chung của họ. Tất nhiên vì đây là ngay
trung tâm thành phố nên có đông người tụ tập, và tất cả bọn họ đã hò
reo, gào hét, chửi rủa, phun nước miếng và đá tôi túi bụi.
Khi
họ đã cởi gần hết quần áo của tôi ra, tôi mới bắt đầu thấy đau nhói nơi
đầu gối phải. Tôi gượng dậy và nhìn xuống nó. Bàn chân phải nằm xéo lên
đầu gối trái của tôi, gần như vuông góc.
Tôi
thốt lên, “Chúa ơi! Chân tôi”. Dường như điều này làm họ điên tiết dù
tôi không biết lý do tại sao. Một kẻ trong số họ dộng báng súng trường
xuống vai tôi một cú khá nặng. Một kẻ khác đâm lưỡi lê vào chân tôi. Đám
đông này thực sự đang nổi cuồng.
Ngay
lúc đó, một thanh niên xuất hiện và hét nạt đám đông dạt ra. Một người
phụ nữ khác đỡ tôi dậy và kề lên miệng tôi tách trà, trong lúc có mấy
tay chụp hình bấm vài pô hình.
Điều
này làm đám đông dịu lại một chút. Thế rồi họ đưa tôi lên cáng, khiêng
vào một chiếc xe tải và chở thẳng đến nhà tù chính của Hà Nội. Tôi được
đưa vào một xà lim và đặt xuống sàn nhà. Tôi vẫn còn nằm trên cáng, chỉ
mặc đồ lót và có khoác cho một tấm chăn lên người.
Trong
ba hay bốn ngày sau, tôi tỉnh lại vài lần giữa cơn mê man bất tỉnh. Dù
vậy tôi cũng bị đưa ra khảo cung nhiều lần – điều mà chúng tôi gọi là
một cuộc “kiểm tra vấn đáp”.
Đó
là những lúc tôi bị đánh với đủ gán ghép về tội phạm chiến tranh. Bắt
đầu bị đánh ngay ngày đầu tiên. Tôi không thèm khai bất cứ điều gì ngoại
trừ họ tên, cấp bậc, số quân và ngày tháng năm sinh.
Họ
đánh tôi dập vùi, đánh tôi bất tỉnh. Họ liên tục hăm dọa, “Mày sẽ không
nhận được bất kỳ chữa trị thuốc men gì cho đến khi mày mở miệng”. Tôi
không tin lắm.
Tôi
nghĩ rằng nếu ráng cầm cự, thế nào rồi họ cũng đưa tôi đến bệnh viện.
Tôi được tên lính canh cho ăn một tí thức ăn và uống chút nước. Nước thì
tôi còn nuốt được, nhưng đồ ăn vẫn tiếp tục bị ói ra. Lúc đó, bọn họ
chỉ muốn khảo tin tức quân sự chứ không phải tin tức chính trị.
Nhưng
mỗi khi họ hỏi tôi một cái gì đó, thì tôi cũng chỉ khai tên họ, cấp
bậc, số quân và ngày tháng năm sinh chừng đó. Tôi nghĩ đến đâu ngày thứ
tư gì đó thì có hai tên bước vào, thay vì chỉ một.
Một
tên kéo tấm chăn để chỉ cho tên kia vết thương của tôi. Tôi nhìn xuống
đầu gối. Kích thước, hình dạng và màu sắc của trái banh sao thì nó cũng y
vậy.
Tôi
còn nhớ khi tôi còn là một sĩ quan huấn luyện bay thì một đồng ngũ của
tôi cũng đã bị đẩy ra khỏi máy bay của anh và bị gãy đùi.
Chân
bị tụ máu và rồi anh bị chết, một điều khá bất ngờ đối với chúng tôi –
khi có người chết vì bị gãy chân. Tôi nhận ra rằng tôi cũng đang bị y
hệt như vậy.
Khi
tôi nhìn thấy vậy, tôi nói với người lính canh, “OK, cho tôi gặp cấp
trên các anh”. Chỉ dăm phút, một sĩ quan tới, đó là người mà chúng ta sẽ
còn biết rõ về sau, tạm gọi là “Con Rệp”.
Hắn
ta là một kẻ tra tấn tâm thần, một trong những quái vật tồi tệ nhất mà
chúng tôi phải đối phó. Tôi nói, “OK, tôi sẽ cung cấp cho anh tin tức
quân sự nếu anh đưa tôi đến bịnh viện”.
Hắn
rời phòng và trở lại với một bác sĩ, một gã mà chúng ta gọi là “Zorba”,
một tên hoàn toàn không có khả năng. Hắn cúi xuống bắt mạch. Hắn không
nói được tiếng Anh, nhưng lắc đầu và lúng búng gì đó với “Con Rệp”.
Tôi
hỏi: “Các anh có đưa tôi đến bệnh viện không?” “Con Rệp” trả lời, “Trễ
rồi”. Tôi nói, “Nếu anh đưa tôi đến bệnh viện, tôi sẽ hồi phục”. “Zorba”
bắt mạch tôi lần nữa, và lặp đi lặp lại, “Đã quá trễ”.
Họ
đứng dậy và bỏ đi, để tôi nằm lại bất tỉnh. Chỉ một lúc sau, “Con Rệp”
ập vào phòng hét toáng lên, ” Cha mày là một đô đốc gộc. Bây giờ bọn tao
sẽ đưa mày đến bịnh viện”.
Tôi
kể lại chuyện này để nói lên điều này: Khó mà có tù nhân cụt tay chân
nào còn sống sót trở về vì bọn Bắc Việt sẽ chẳng mất thì giờ chữa trị
cho những ai bị trọng thương.
Chỉ
riêng việc chuyển từ kiểu đời sống tại Mỹ sang chốn lao tù bẩn thỉu,
bụi bặm và nhiễm trùng, cũng đã khó cho ai còn sống sót. Trong thực tế,
nội việc chữa trị tôi trong bệnh viện cũng đã xém làm tôi mất mạng.
Phần 2: Trong tay giặc
Tôi thức dậy một vài lần trong ba bốn ngày sau. Huyết thanh và máu đang được truyền cho tôi. Tôi trở nên khá tỉnh táo.
Căn
phòng mà tôi nằm không đến nỗi nhỏ lắm, khoảng đâu 15×15 feet, nhưng dơ
dáy bẩn thỉu và bị trũng, mỗi khi trời mưa thì nước ngập sàn cũng từ
nửa đến một inch.
Tôi
chẳng được tắm rửa lấy một lần trong bệnh viện. Tôi cũng gần như không
hề thấy bóng dáng một bác sĩ hoặc một y tá nào, ngoại trừ bác sĩ có ghé
liếc sơ tôi vài lần. Họ nói tiếng Pháp chớ không phải tiếng Anh.
Người
canh tôi là thằng bé khoảng 16 tuổi, chắc vừa lên khỏi ruộng lúa. Trò
tiêu khiển ưa thích của thằng bé là ngồi cạnh giường tôi và đọc một cuốn
truyện có vẽ hình một ông già cầm khẩu súng trường trong tay, đang ngồi
trên thân máy bay một chiếc F-105 bị bắn hạ.
Thằng
bé chỉ trỏ gì đó vào mình, rồi tát và đánh tôi. Nó làm điều đó một cách
đầy khoái trá. Nó đút tôi ăn vì cả hai cánh tay của tôi đã bị gãy. Nó
bưng vào chén mì gói có chút xương sụn, rồi đút tôi.
Các
xương sụn rất khó nhai. Tôi ngậm đầy miệng đâu ba bốn muỗng gì đó rồi
nuốt trộng. Tôi chẳng ăn thêm được nữa, thế là thằng bé bưng ăn hết. Mỗi
ngày hai lần tôi ăn khoảng ba hoặc bốn muỗng thức ăn như vậy.
Tôi
nằm đó đâu khoảng 10 ngày, thì một buổi sáng có một tên “gook”- kiểu
chúng ta gọi bọn Bắc Việt – đến. Gã này nói tiếng Anh rất giỏi. Hắn hỏi
thăm tôi rồi bảo, “Chúng tôi có một người Pháp đến thăm Hà Nội và muốn
mang tin tức về cho gia đình của anh”.
Đóng
chút ngây ngô vào lúc đó – vì cần phải khôn ngoan hơn với những loại
người này – tôi hình dung chuyện này cũng chẳng thiệt thòi gì, nếu anh
chàng này đến gặp tôi và quay về thông báo cho gia đình tôi rằng tôi vẫn
còn sống sót.
Khi
đó tôi chưa biết được rằng tên của tôi đã được công bố trong chiến dịch
tuyên truyền rầm rộ của Bắc Việt và bọn họ rất hí hửng vì đã bắt được
tôi. Họ nói với một số bạn của tôi khi tôi bị bắt rằng, “Chúng tôi đang
nắm thái tử trong tay”, làm tôi cũng mắc cười.
Họ
bảo tay người Pháp sẽ tới thăm tôi tối đó . Khoảng trưa, tôi được đặt
lên chiếc xe lăn và đưa vào phòng mổ để băng bột tay phải cho tôi. Họ
rất vất vả để nối xương lại với nhau, bởi vì cánh tay tôi đã bị gãy ba
nơi, có hai khúc bị trôi dật dờ.
Tôi
phải chứng kiến cảnh một gã vật lộn để sắp lại xương tay cho mình trong
khoảng một giờ rưỡi đồng hồ mà không có thuốc tê. Sự đau đớn tột độ làm
tôi xỉu đi nhiều lần.
Cuối
cùng hắn ta đành bỏ cuộc và gắn cái ngực băng bột vào tôi. Điều này làm
tôi kiệt sức và đó là lý do tại sao sau này, khi một số phim truyền
hình được quay, nhiều người xem thấy tôi như thể đang bị say thuốc là
vậy.
Khi
mọi chuyện đã xong, họ đưa tôi vào một căn phòng lớn với một chiếc
giường ra trắng tươm tất. Tôi nghĩ, “Boy, mọi thứ coi bộ thực sự khá
hơn”. Tay lính canh nói với tôi: “Bây giờ mày sẽ ở trong căn phòng mới
này”.
Khoảng
một giờ thì một gã đàn ông được gọi là “Mèo” đến. Về sau tôi mới biết
rằng hắn ta là người đã phụ trách tất cả các trại tù binh tại Hà Nội cho
đến cuối năm 1969.
Hắn
khá lanh lợi, một loại trí thức đang nắm quyền Bắc Việt. Hắn nằm trong
Cục chính trị của Đảng Lao động Việt Nam. Điều đầu tiên hắn làm là đưa
tôi nhận diện thẻ quân của Đại tá John Flynn – tức tướng John Flynn bây
giờ – viên chỉ huy cao cấp của chúng tôi.
Ông
cũng bị bắn hạ trong cùng một ngày với tôi. “Mèo” nói qua một thông
dịch viên, hắn không nói tiếng Anh lúc đó. “Người của truyền hình Pháp
đang đến”.
Tôi
nói, “Tôi không nghĩ rằng tôi muốn được quay phim”. Hắn xẵng giọng,
“Anh cần hai cuộc giải phẫu, và nếu anh không nói chuyện với anh ta thì
chúng tôi sẽ lấy lớp băng bột ở ngực anh ra và anh sẽ không được giải
phẫu gì thêm nữa”.
Hắn
tiếp: “Anh phải nói rằng anh biết ơn nhân dân Việt Nam và xin lỗi về
những tội ác của mình”. Tôi nói với hắn ta là tôi sẽ không làm điều đó.
Cuối cùng, một người Pháp tên là Chalais bước vào, một tay cộng sản, như tôi biết ra sau đó, cùng với hai phóng viên ảnh khác.
Ông
ta hỏi tôi về sự đối xử và tôi nói với ông là thỏa đáng. “Mèo” và
“Chihuahua”, một tên thẩm vấn khác, nhắc sau lưng tôi để nói theo rằng,
tôi rất biết ơn cho việc chữa trị khoan hồng và nhân đạo của họ.
Tôi từ chối, và khi chúng ép tôi, Chalais nói: “Tôi nghĩ rằng những gì ông nói với tôi cũng đủ rồi”.
Sau
đó Chalais hỏi tôi có nhắn tin gì về cho gia đình. Tôi bảo với ông là
hãy nhắn vợ và những người khác trong gia đình là tôi đang hồi phục và
rất yêu thương họ.
Một
lần nữa, từ đàng sau, “Mèo” khăng khăng bắt tôi nói thêm đại loại là hy
vọng rằng chiến tranh sẽ sớm kết thúc để tôi có thể được về nhà.
Chalais cứng rắn cắt ngang lời hắn ta, bảo rằng ông đã hài lòng với câu
trả lời của tôi.
Ông
đã giúp tôi thoát khỏi một tình huống đầy khó khăn. Chalais ở ngay
Paris. Vợ tôi sau đó đã bay sang đó gặp ông ta và ông đã cho cô ấy một
bản sao đoạn phim, về sau được chiếu trên đài truyền hình CBS tại Mỹ.
Ngay khi ông vừa đi khỏi, bọn chúng lập tức đưa tôi lên xe đẩy và tống về lại căn phòng bẩn thỉu trước đó.
Sau
đó, đã có nhiều người đã đến nói chuyện với tôi. Không phải ai trong họ
cũng đến để thẩm vấn. Có lần một nhà văn già có chòm râu dài như Hồ Chí
Minh và nổi tiếng của Bắc Việt đến phòng của tôi, muốn trò chuyện về
Ernest Hemingway (Chú: Đó là nhà văn Nguyễn Tuân, người đã đưa cuộc nói
chuyện này vào tập bút ký “Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi” theo chỉ thị đảng để
ca ngợi chính sách “nhân đạo” (!?) của đảng với tù binh chiến tranh).
Tôi
nói với ông ta rằng Ernest Hemingway chống Cộng bằng vũ lực. Nó cho ông
ta một điều gì đó để suy nghĩ. Những người khác đến để tìm hiểu về đời
sống ở Mỹ.
Họ
hình dung rằng cha tôi cấp bậc quân sự cao như vậy, tất tôi phải được
nhiều đặc quyền và trong vòng quyền lực. Họ không có khái niệm gì hết về
cách vận hành dân chủ của chúng ta.
Một
trong những người đàn ông đến gặp tôi là tướng Võ Nguyên Giáp, được gọi
là người hùng của Điện Biên Phủ mà tôi nhận biết qua ảnh sau này. Ông
đến xem tôi ra sao, mà không nói gì. Ông là Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng và
nằm trong Trung Ương Đảng cộng sản Bắc Việt.
Khoảng
hai tuần sau, tôi đã được đưa vào giải phẫu chân có quay phim. Họ chẳng
hề chữa trị gì cánh tay trái bị gãy của tôi. Nó tự lành. Họ bảo chân
tôi cần hai cuộc giải phẫu, nhưng vì tôi đã có một ” thái độ xấu” nên họ
sẽ không cho làm cuộc thứ hai.
Tôi
cũng chẳng biết họ đã làm cái quỷ gì trên chân tôi. Nhưng bây giờ quay
về Mỹ, một bác sĩ phẫu thuật chỉnh hình sẽ mổ và xem xét lại. Chưa gì
ông đã báo với tôi rằng họ đã rạch sai đường mổ và cắt hết gân chằng ở
một bên.
Tôi
ở trong bệnh viện khoảng đâu sáu tuần, sau đó được đưa đến một trại
giam ở Hà Nội tạm gọi là “Đồn Điền”. Nó là vào cuối Tháng 12 năm 1967.
Tôi
được đưa vào chung một xà lim với hai người khác là George Day và
Norris Overly, cả hai cùng là Thiếu tá Không quân. Tôi nằm trên cáng,
chân còn cứng đơ và bộ ngực băng bột mà tôi đã mang được khoảng hai
tháng.
Từ
trọng lượng bình thường 155 lbs, tôi tụt xuống còn khoảng 100 lbs. Sau
này Thiếu Tá Day kể họ không nghĩ tôi sống thêm quá một tuần. Tôi cố
gượng ngồi dậy được. Mỗi ngày tôi ngủ mê man khoảng 18 giờ, 20 giờ.
Họ
đã phải chăm sóc mọi thứ cho tôi. Họ được phép xách một xô nước để
thỉnh thoảng rửa ráy cho tôi. Họ đút tôi ăn và chăm sóc tận tụy, và tôi
hồi phục rất nhanh.
Chúng
tôi chuyển đến một căn phòng khác ngay sau lễ Giáng sinh. Vào đầu Tháng
Hai năm 1968, Thiếu Tá Overly được đưa ra khỏi phòng của chúng tôi và
được trả tự do cùng với David Matheny và John Black. Họ là ba người tù
binh đầu tiên được Bắc Việt trao trả.
Tôi
hiểu họ đã được khuyến dụ là không nên nói gì về việc đối xử tù nhân,
để không gây nguy hiểm cho những người của chúng ta vẫn còn đang bị giam
cầm.
Chỉ
còn lại Day và tôi một mình với nhau. Ông còn bó bột tay phải vì bị bắn
sau lần ông đã bị bắt tận phía Nam, định vượt trốn và bị bắt lại lần
nữa. Ngay sau khi tôi đã có thể đi được, vào khoảng Tháng 3 năm 1968,
thì Thiếu Tá Day bị chuyển đi.
Phần 3: Khí phách người lính
Tôi
bị biệt giam từ thời điểm 1968 đó trong hơn hai năm trời. Tôi không
được phép gặp mặt, nói chuyện hay giao tiếp với bất kỳ tù nhân đồng ngũ
nào. Phòng giam của tôi tạm vừa phải- khoảng 10×10, có cửa ra vào chắc
chắn mà không có cửa sổ.
Hệ
thống thông gió là hai lỗ nhỏ ở trên trần nhà, khoảng 6×4 inch. Mái nhà
bằng thiếc nên phòng nóng như thiêu. Phòng mờ mờ đêm cũng như ngày,
nhưng họ luôn bật một bóng đèn nhỏ để có thể quan sát tôi. Tôi bị nhốt
trong đó suốt hai năm.
Theo
cái kiểu bị biệt giam này thì điều quan trọng nhất để tồn tại là liên
lạc được với một ai đó, đôi khi nó chỉ là cái vẫy tay hoặc một cái nháy
mắt, gõ vào tường, hoặc có ai đưa ngón tay ra hiệu cũng làm mọi chuyện
khác đi.
Nó
cũng rất là quan trọng để giữ cho đầu óc mình làm việc và tất cả chúng
tôi đều làm việc này. Một số người thích toán học nên họ nhẩm các phép
toán phức tạp trong đầu vì chúng tôi chưa bao giờ được phép có giấy
bút.
Vài
người khác thì xây nhà trong đầu, xây từ tầng hầm lên trên. Tôi thì
thiên về triết học. Tôi từng đọc rất nhiều sách về lịch sử nên đã dành
hết ngày này đến ngày khác để ôn lại trong đầu những cuốn sách lịch sử
này, suy diễn nơi nào nước này hay nước khác đã sai đường, hay Mỹ nên
làm gì trong lĩnh vực đối ngoại.
Tôi
cũng suy niệm rất nhiều về ý nghĩa của đời sống. Cũng dễ dàng rơi vào
sự tưởng tượng. Tôi đã từng viết sách và kịch trong tâm trí mình, nhưng
tôi nghi ngờ rằng trong số này chẳng có cuốn nào hơn được mức tiểu
thuyết rẻ tiền nhất.
Người
ta đã hỏi tôi làm cách nào mà chúng tôi có thể nhớ được những chi tiết
như mật mã, con số, tên họ cùng mọi thứ khác. Thực tế là, khi anh không
có bất cứ điều gì khác để suy nghĩ, không bị chia trí thì nó thật dễ
dàng.
Kể
từ khi tôi đã quay lại đây thì lại rất khó cho tôi để nhớ cả những điều
đơn giản, ví dụ như tên của một người mà tôi vừa mới gặp. Trong thời
gian bị biệt giam, tôi nhớ tên của tất cả 335 tù nhân chiến tranh ở Bắc
Việt.
Tôi
vẫn còn nhớ chúng. Điều bạn phải chống chọi với nó là nỗi lo lắng. Nội
tình trạng thể chất mình cũng dễ gây căng thẳng. Một lần tôi bị trĩ và
đầu óc tôi bị chết dính vào nó khoảng ba ngày.
Cuối
cùng, tôi nhủ, “Coi McCain, mày có từng biết thằng nào chết vì bệnh trĩ
chưa?”. Vì vậy tôi bỏ mặc không nghĩ ngợi nữa và sau vài tháng thì nó
tự khỏi.
Câu
chuyện của Ernie Brace minh họa cho việc liên lạc là quan trọng với
chúng tôi thế nào. Lúc tôi đang bị nhốt tại “Đồn Điền” vào tháng 10 năm
1968, có một căn phòng phía sau phòng tôi.
Tôi
nghe vài tiếng động bên đó vì vậy tôi bắt đầu gõ nhẹ vào tường. Tín
hiệu mà chúng tôi gọi là “cạo râu và cắt tóc” để anh chàng khác sẽ gõ
lại hai tiếng. Trong hai tuần, tôi không nghe động tĩnh, nhưng cuối cùng
thì có hai tiếng gõ.
Tôi
bắt đầu gõ theo bảng chữ cái – một cái là “a”, hai cái là ” b ” và cứ
vậy. Rồi tôi bảo: “Áp tai vào tường”. Cuối cùng anh ta đến và tôi áp cái
cốc vào tường, nói cho anh ta nghe được.
Tôi
chỉ cho anh mã gõ và các thông tin khác. Anh nói tên mình là Ernie
Brace. Ngay lúc đó thì có tên lính canh lai vãng, tôi nói với Ernie,
“Thôi, ngày mai tôi gọi lại cho anh”. Cũng mất vài ngày anh ta mới quay
lại bức tường. Anh chỉ nói được “Tôi là Ernie Brace” rồi bắt đầu khóc
nức nở.
Sau
khoảng hai ngày thì anh dằn được cảm xúc của mình, và trong vòng một
tuần anh chàng này đã biết cách gõ, giao tiếp, nhắn tin và làm rất tốt
về sau. Ernie là một phi công dân sự bị bắn rơi ở Lào.
Anh
bị cùm chân trong một cái lồng tre trong rừng, cổ bị xích lại trong ba
năm rưỡi, hầu như chẳng sử dụng đến đôi chân. Anh trốn thoát ba lần và
sau lần thứ ba bị bắt lại, anh bị chôn đứng xuống đất, chỉ chừa lại cái
đầu.
Trong
những ngày đó, vẫn vào năm 1968, theo lẽ là chúng tôi được phép tắm
cách ngày. Nhưng cái trại này thiếu nước nên đôi khi hai ba tuần, cả
tháng cũng không được tắm.
Tôi
có một tên chuột cống canh ngục, lúc nào cũng đưa tôi ra sau chót. Bồn
tắm kiểu cái chuồng ngựa đổ bê-tông. Sau khi tất cả mọi người tắm,
thường là không còn nước dư nhưng tôi cũng bị tống vào đứng không năm
phút “tiêu chuẩn tắm” rồi bị đưa về lại phòng.
Chuyện
vệ sinh thì tôi được phát cho cái xô có nắp đậy không vừa miệng. Ngày
nào cũng phải đổ nhưng có người khác xách giùm vì tôi còn đi chưa nổi.
Từ lúc Day và Overly rời tôi,
Day
rời vào tháng 2 còn Overly thì tháng 3 năm 1968, việc đối xử căn bản là
có đỡ. Khi tôi bị bắt gặp đang gõ tín hiệu, liên lạc với người phòng
khác hay đại loại vậy thì chỉ bị tặc lưỡi “Tắc, tắc! Không được thế,
không được thế”. Thật vậy, tôi nghĩ cũng không đến nỗi nào.
Ngày
15 tháng 6 năm 1968, một đêm tôi bị đưa lên phòng thẩm vấn. “Mèo” và
một gã đàn ông khác mà chúng ta gọi là “Thỏ” đang ở đó. “Thỏ” nói tiếng
Anh rất giỏi. “Mèo” là chỉ huy của tất cả các trại tù tại thời điểm đó.
Với
tôi, hắn làm như không nói được tiếng Anh, mặc dù rõ ràng theo tôi thì
hắn biết, vì trong các cuộc trò chuyện, hắn đặt câu hỏi hoặc nói chuyện
trước khi “Thỏ” dịch những gì tôi nói. Như bạn biết, người phương Đông
hay nói vòng vo một chút.
Đêm
đầu tiên, “Mèo” nói chuyện với tôi khoảng hai tiếng. Tôi không biết ý
hắn ra sao nhưng đại loại hắn nói với tôi là hắn từng quản các trại tù
binh Pháp trong những năm 1950 và đã tha cho một vài người, và rằng gần
đây hắn gặp lại thì họ đã cám ơn về lòng tốt của hắn. Hắn bảo Overly đã
về nhà “với danh dự “.
Tôi
thực sự không biết phải nghĩ gì, bởi vì tôi đã từng có những cuộc thẩm
vấn khác mà tôi chẳng khai báo. Lần này thì họ không tra tấn tôi. Họ chỉ
nói rằng tôi sẽ không bao giờ được về nhà và sẽ bị xét xử như một tội
phạm chiến tranh.
Đó là đề tài thường xuyên của họ trong nhiều tháng. Đột nhiên “Mèo” hỏi tôi:
– Anh có muốn về nhà không?
Tôi
sững người và tôi nói với bạn rất thẳng thắn rằng, tôi đã trả lời rằng
tôi phải suy nghĩ về nó. Tôi trở về phòng và nghĩ ngợi khá lâu.
Tôi
đâu liên lạc được các sĩ quan cấp trên để có thể nhận được lời khuyên.
Tôi lo liệu tôi có còn sống hay không bởi vì tôi đang ở trong tình trạng
khá xấu.
Tôi
vừa bị kiết lỵ khoảng một năm rưỡi nay, bị sụt cân lần nữa. Nhưng tôi
hiểu quân cách sĩ quan rằng “không chấp nhận ân huệ hoặc ân xá ” và “sẽ
không chấp nhận ưu đãi đặc biệt nào”, vì đối với ai đó được về nhà trước
đó là một đặc ân đặc biệt.
Không
thể phá quân cách này. Ba đêm sau tôi được đưa trở lại. Hắn hỏi lại:
“Anh có muốn về nhà không?”. Tôi nói: “Không”. Hắn ta muốn biết lý do,
và tôi trả lời lý do.
Tôi
nói rằng, Alvarez (người Mỹ đầu tiên bị bắt) cần được thả đầu tiên, sau
đó là các binh lính. “Mèo” nói với tôi rằng Tổng thống Lyndon Johnson
đã ra lệnh cho tôi về nhà. Hắn đưa cho tôi một lá thư từ vợ tôi, trong
đó cô đã viết: “Em ước chi anh là một trong ba người đã trở về nhà”.
Tất
nhiên, cô không cách nào hiểu được những phức tạp phía sau. “Mèo” cho
biết rằng các bác sĩ đã nói với hắn rằng tôi không thể sống nổi trừ khi
tôi được chữa trị tại Mỹ. Chúng tôi cứ vờn nhau điều này và tôi vẫn mực
nói “Không”.
Ba
đêm tiếp sau đó cũng cứ như vậy. Trong sáng lễ Độc Lập 4 tháng 7 năm
1968, cùng một ngày cha tôi được thăng quyền Tổng Tư Lịnh Thái Bình
Dương các lực lượng Hoa Kỳ, tôi được dẫn vào một căn phòng thẩm tra
khác. “Thỏ” và “Mèo” đã ngồi ở đó. Tôi bước vào và ngồi xuống. “Thỏ”
nói:
– Cấp trên chúng tôi muốn biết câu trả lời cuối cùng của anh.
– Câu trả lời cuối cùng của tôi cũng vậy. Đó là “Không”.
– Câu trả lời cuối cùng của anh phải không?
– Đó là câu trả lời cuối cùng của tôi.
“Mèo”
đang ngồi với một đống giấy tờ trước mặt và một cây viết trong tay, hắn
bẻ đôi cây viết, mực văng tung tóe. Hắn đứng lên, đá sầm cái ghế phía
sau và nói: “Chúng dạy mày tốt lắm. Chúng dạy mày tốt lắm”.
Tôi
có thể thêm vào là, hắn nói bằng một giọng Anh rất chuẩn. Hắn quay
ngoắt người, bước ra ngoài và đóng sầm cửa lại, để lại “Thỏ” và tôi ngồi
lại. “Thỏ” nói: “Bây giờ, McCain, chuyện sẽ rất xấu cho anh đó. Về lại
phòng”.
Phần 4: Đòn thù
Tất
nhiên việc Bắc Việt muốn thả tôi đồng lúc khi cha tôi trở thành Tư lịnh
Thái Bình Dương để làm như họ nhân đạo khi trả tự do cho con trai bị
thương của một sĩ quan cao cấp của Hoa Kỳ.
Họ
cũng dùng điều này như một cách khích động đến các tù binh đồng ngũ của
tôi vì Bắc Việt luôn đặt nặng chuyện “giai cấp”, để có thể sẽ rêu rao
với người khác rằng, “Hãy xem kìa, đám quỷ tội nghiệp kia, quý tử của gã
đang nắm quyền cuộc chiến đã về nhà và bỏ rơi chúng mày, không ai quan
tâm đến đám lính thường chúng mày đâu”.
Lúc
nào tôi cũng xác quyết phải ngăn chặn bất kỳ sự lợi dụng vào cha và gia
đình tôi. Thêm điều nữa là, dù họ nói với tôi rằng tôi sẽ không phải ký
bất kỳ tuyên bố hoặc lời thú tội nào trước khi được trao trả, nhưng làm
sao tin được.
Họ
đưa đến chân máy bay và nói “Bây giờ ký vào bản tuyên bố này”, thì ngay
lúc đó tôi không biết mình có đủ sức chống chọi lại không, dù cho tôi
rất cứng rắn vào thời điểm đó.
Nhưng
điều chủ yếu là tôi không cho mình cái quyền hưởng tự do trước những
người như Alvarez, người đã từng bị giam ba năm trước khi tôi “bị tử
nạn” – kiểu chúng tôi nói thay cho việc “bị bắn hạ”, vì cái cách trở
thành một tù binh của Bắc Việt cũng giống như đang bị giết vậy.
Khoảng
một tháng rưỡi sau, khi ba tù binh được chọn để thả về đến Mỹ, tôi bị
đối xử dã man cả trong một năm rưỡi trời vì thái độ cứng rắn trước đó.
Một
đêm đám lính canh ập đến phòng tôi và nói: “Quản giáo muốn gặp mày”. Gã
này là một tay đặc biệt ngu ngốc. Chúng tôi gọi hắn là “Đầu Lệch”.
Một
điều tôi nên đề cập ở đây là các trại tù được tổ chức rất giống kiểu
quân đội của họ. Mỗi trại có một sĩ quan trưởng trại chịu trách nhiệm
chính về việc hoạt động, thực phẩm…
Họ
có thêm một cán bộ tuyên huấn, thực chất là một sĩ quan chính trị để
chuyên phụ trách các cuộc thẩm vấn và làm công tác tuyên truyền đã nghe
được qua báo đài.
Chúng
tôi cũng đã có một tay như vậy mà chúng tôi đặt tên là “Công tử”. Hắn
xuất thân từ một gia đình quan trọng tại Bắc Việt. Hắn mặc quân phục
chải chuốt, có oai trong trại. “Công tử” có phần nào ẻo lả nhưng là
người tốt, trong khi gã trại trưởng “Đầu lệch” là kẻ rất tàn bạo.
Mỗi
khi có điều gì xảy ra, thường “Công Tử” đến và nói: “Thế cơ đấy, tôi
không biết họ đã làm thế với anh. Anh cứ hợp tác cho tốt vào thì mọi
việc cứ đâu vào đấy”.
Trở
lại câu chuyện trên, thì họ dắt tôi ra khỏi phòng của tôi để gặp “Đầu
lệch”. Hắn nói “Mày dám vi phạm các nội quy trại. Mày là tên tội phạm
xấu xa. Mày phải thú nhận tội ác của mình…”. Tôi nói rằng tôi sẽ không
làm điều đó.
Hắn
hỏi “Tại sao mày láo lếu với các cán bộ thế?” Tôi trả lời: “Bởi vì họ
đối xử với tôi như một con vật”. Khi tôi nói vậy, các tên lính canh đứng
trong phòng – khoảng đâu 10 tên nhào vào đánh đấm tôi túi bụi.
Chúng
đá tôi từ phía này sang phía kia, vừa đánh đấm vừa cười cợt. Sau vài
tiếng thì chúng cột tôi bằng dây thừng rồi bị tống vào một căn phòng
nhỏ.
Để
trừng phạt, thường chúng đưa anh vào một căn phòng không có mùng chống
muỗi, không giường, không quần áo gì hết. Trong bốn ngày tiếp đó, tôi bị
đánh mỗi ngày khoảng hai ba tiếng như vậy bởi các nhóm lính canh khác
nhau.
Cánh
tay trái của tôi bị gãy lại và các xương sườn bị nứt. Họ muốn tôi viết
lời xin lỗi về những tội ác mà tôi đã gây ra với những người dân Bắc
Việt và tôi rất biết ơn về các chữa trị mà tôi đã nhận được từ họ.
Đúng là nghịch đời – rất nhiều tù nhân bị đối xử tàn nhẫn nhưng phải nói rằng họ biết ơn. Nhưng kiểu cộng sản là vậy.
Tôi
bị nhốt vậy bốn ngày. Cuối cùng, tôi xuống mức tận cùng trong 5 năm
rưỡi bị tù ở Bắc Việt, đến độ đã nghĩ đến chuyện tự tử, bởi vì tôi thấy
mình đã ở cuối đường hầm.
Tôi
nói, được, tôi sẽ viết cho họ. Họ đưa tôi đến một trong những phòng
thẩm vấn và trong 12 giờ tiếp đó, bọn tôi đã viết đi viết lại bao nhiêu
lần. Tên thẩm vấn là một tên khá ngu ngốc, đã viết những lời thú nhận
cuối cùng để tôi ký vào.
Nó
là giọng điệu của họ viết về tội ác xấu xa và những điều chung chung
khác. Bọn chúng thì chưa hài lòng lắm nhưng với tôi thì cảm thấy nó quá
khủng khiếp.
Tôi
cắn rứt, “Chúa ơi, con thực sự chẳng còn chọn lựa nào khác”. Tôi hiểu
một điều chắc ai cũng hiểu: mỗi người có một lúc yếu đuối nào đó của
mình. Tôi đã chạm đến mức của mình.
Nhưng
sau đó thì bọn “gook” đã phạm một sai lầm rất nặng, bởi vì họ cho tôi
quay lại xà lim và tịnh dưỡng một vài tuần. Thường thì chúng không làm
điều đó với những ai đã bị chúng biến thành tệ hại.
Tôi
nghĩ rằng chắc chúng thấy tay tôi bị gãy và chân sụm vì bị đánh đập và
tra tấn dã man như một con vật. Cánh tay tôi rất đau đớn, chẳng thể nhấc
lên khỏi sàn. Với bệnh kiết lỵ, đó là cả một thời gian cực hình.
Tạ
ơn Chúa, chúng để tôi yên vài tuần. Sau đó, chúng gọi tôi lên một lần
nữa và muốn cái gì khác đó. Bây giờ tôi không nhớ là gì nhưng đại loại
không phải viết lời nhận tội nữa. Lúc này thì tôi đã có thể chống chọi
lại. Tôi đủ sức đương đầu.
Chúng
không thể “hủy” tôi một lần nữa. Tôi đã nghiệm ra một điều là sự cầu
nguyện giúp mình nhiều lắm. Không phải kiểu cầu mong một sức mạnh siêu
nhân hoặc Thiên Chúa xuống tiêu diệt đám Bắc Việt đó.
Nó
là sự cầu nguyện để có được một tinh thần và thể chất cang cường, có
được sự dẫn dắt và khôn ngoan để làm điều phải đạo. Tôi cầu sự xoa dịu
mỗi khi tôi bị đau đớn và đôi khi tôi nhận được. Tôi đã được chứng
nghiệm điều này nhiều lần.
Trước
áp lực như vậy, có vẻ chỉ có hai chọn lựa. Hoặc khuất phục để chúng bẻ
cong mình dễ dàng hơn trong lần tới, hoặc chẳng làm được. Nói cách khác,
nếu mình chịu đựng được thì mình ngày càng lì đòn hơn theo thời gian.
Một
phần vì nó chỉ là một quá trình chuyển đổi từ cách sống của mình sang
cách sống kia. Nhưng phải biến căm ghét thành sức mạnh. Bây giờ tôi
không còn căm ghét những kẻ như vậy. Tôi ghét và ghét cay ghét đắng
những tên lãnh đạo.
Đám
lính canh chỉ biết làm công việc của họ. Khi họ được sai đánh bạn thì
họ đánh. Một số coi đó là chuyện khoái trá. Nhiều tên thì đồng bóng. Một
số thì tàn bạo, dường như luôn phấn khích trong chuyện đánh đập .
Từ
đó trở đi, tôi liên tiếp bị đối xử tàn nhẫn. Có lúc tôi bị đánh ba hoặc
bốn lần một tuần, có khi tôi được để yên vài tuần. Nhiều lần là do tôi
vì chúng đã nhận thức hơn trước về mối nguy nếu để các tù binh Mỹ liên
lạc được với nhau, nên mỗi khi bắt gặp thì chúng đánh kiểu đòn thù dã
man.
Tôi
bị bắt gặp rất nhiều lần. Một phần là tôi chẳng quá thông minh để né
được và lý do khác là tôi bị giam có một mình. Nếu bạn sống với người
khác, có ai đó phụ được mình, có lẽ cũng giúp mình chống đỡ được. Nhưng
tôi chưa bao giờ chùn tay.
Liên
lạc được với các tù nhân khác có giá trị tột bực, nó là sự khác biệt
giữa việc có khả năng để kháng cự lại hay không thể. Các tù nhân khác có
thể lập luận khác, rất nhiều, phụ thuộc vào mỗi cá nhân. Một số người
có khả năng tự sống còn cao hơn những người khác.
Nhưng
việc liên lạc chủ yếu để giữ vững tinh thần của mình. Chúng tôi chấp
nhận rủi ro bị đánh đập dù chỉ nhắn với một người khác rằng, có bạn tù
nào đó vừa nhận được một lá thư từ quê nhà.
Nhưng
nó cũng có giá trị thiết lập một hệ thống mệnh lệnh ngầm trong trại tù
để các sĩ quan cao cấp đưa ra những cố vấn và hướng dẫn cho chúng tôi.
Phần 5: Đời sống ngục tù
Giai đoạn Bắc Việt liên tục đối xử tàn nhẫn với tù binh Mỹ kéo dài đến khoảng Tháng Mười năm 69.
Họ
muốn tôi gặp các nhóm phản chiến đến Hà Nội, trong đó có rất nhiều
người nước ngoài như Cuba, Nga. Tôi nghĩ lúc đó chưa có nhiều người Mỹ
“phản chiến” sớm vậy, dù các năm sau đó thì nhiều hơn. Tôi từ chối gặp
bất kỳ nhóm nào.
Với họ thì giá trị tuyên truyền sẽ rất lớn khi cha tôi là Tổng tư lệnh Thái Bình Dương.
Nhóm
David Dellinger đến. Nhóm Tom Hayden đến. Ba nhóm tù nhân được thả,
trên thực tế, dưới sự bảo trợ của các “nhóm hòa bình” vậy. Những người
đầu tiên được thả về với một trong nhóm anh em Berrigan.
Nhóm
tiếp theo là toàn bộ một phi hành đoàn, có James Johnson , một trong
những Bộ Ba Fort Hood (Chú: Nhóm 3 Binh Nhất Mỹ phản đối việc bị đưa
sang Việt Nam) về cùng vợ của chủ biên tạp chí “Ramparts” và Rennie
Davis.
Nói
chung, tôi nghĩ có tám hoặc chín người về kiểu đó. Sau đó là một nhóm
thứ ba. Bắc Việt muốn tôi gặp tất cả các nhóm này, nhưng tôi đã có thể
né được. Nhiều khi không thể làm họ mất mặt, vì vậy bạn phải cố gắng để
đu đưa với nó.
Bạn
biết là “mặt mũi” là chuyện lớn với loại người này, và nếu bạn để họ có
thể giữ thể diện thì được dễ dàng hơn rất nhiều. Ví dụ họ đánh tôi tàn
nhẫn và bắt tôi phải gặp một phái đoàn, tôi trả lời “Được, tôi muốn gặp
một nhóm vậy, nhưng tôi sẽ không nói bất cứ điều gì chống lại đất nước
mình và tôi cũng không nói bất cứ điều gì về việc đối xử với tôi, nhưng
nếu được hỏi, tôi sẽ kể sự thật về các điều kiện tôi đang bị giam giữ”.
Họ
bảo, “Anh đồng ý gặp một phái đoàn nên chúng tôi sẽ cho anh gặp”. Nhưng
như mọi người thấy, họ chưa bao giờ cho tôi gặp. Một lần, họ muốn tôi
viết vài hàng cho các tù nhân chiến hữu của tôi nhân dịp Giáng sinh.
Tôi
viết thế này: “Gởi đến các tù nhân chiến hữu mà tôi không được phép gặp
mặt hay nói chuyện, tôi cầu mong gia đình các chiến hữu được tốt lành
và hạnh phúc, và tôi hy vọng rằng các chiến hữu được phép viết và nhận
thư gia đình theo Công ước Geneva năm 1949 mà những người đang giam cầm
các bạn không cho phép. Xin Thiên Chúa ban phước lành đến các chiến
hữu”.
Họ
nhận thư nhưng tất nhiên là không bao giờ được công bố nó. Nói cách
khác, đôi khi viết cái gì đó ca ngợi chính phủ mình hoặc chống lại họ
thì tốt hơn chuyện cứ nói “Tôi sẽ không viết bất cứ điều gì”- vì đó cũng
có thể là cách câu giờ khi các điều viết ra này phải được thông lên đủ
loại cấp trên của chúng.
Bây
giờ để tôi kể với bạn câu chuyện của đại úy Dick Stratton. Anh bị bắn
rơi vào Tháng Năm 1967, lúc vài nhóm phản chiến Mỹ đã nhao nhao la làng
rằng Hoa Kỳ ném bom Hà Nội dù chúng tôi chưa làm vào thời điểm đó.
Dick
bị bắn rơi phía ngoài Hà Nội, nhưng họ muốn có một lời thú tội nhân lúc
một ký giả Mỹ đang có mặt. Đó là vào mùa Xuân và mùa Hè năm 67 – chắc
mọi người còn nhớ những câu chuyện rất giật gân về những thiệt hại do
bom Mỹ?
“Thỏ”
và những tên khác thẩm vấn Dick Stratton rất tàn bạo. Tay Dick đầy các
vết hằn dây thừng đã bị nhiễm trùng. Chúng thực sự bóp dẹp anh để có
được một lời thú nhận rằng, anh đã ném bom Hà Nội như một bằng chứng
sống.
Chúng
rút móng tay và gí tàn thuốc lá vào người anh. Dick bị dồn đến mức
không thể nói “không”. Nhưng khi chúng đưa anh đến buổi họp báo, anh làm
một hành động cúi chào – anh cúi chào 90 độ theo hướng này, anh cúi
chào 90 độ theo hướng khác, đủ bốn góc. Với đám “gook” thì không phải
điều gì quá lạ lẫm vì chúng quen với việc cúi chào vậy.
Nhưng
bất kỳ người Mỹ nào nhìn thấy hình ảnh của một người Mỹ gập mình đến
thắt lưng để cúi chào vậy cũng biết rằng có điều gì đó không ổn, có điều
gì đó đã xảy ra với anh ta.
Đó
là lý do tại sao Dick làm những gì anh đã làm. Sau đó chúng tiếp tục
tạo áp lực để anh ta nói rằng anh ta không bị tra tấn. Chúng tra tấn anh
để buộc phải nói rằng anh không bị tra tấn.
Dick
vừa ra tuyên bố mạnh mẽ tại cuộc họp báo một vài tuần trước ở đây rằng
anh muốn thấy Bắc Việt bị buộc tội là tội phạm chiến tranh. Anh ấy là
một người cao quý. Anh và tôi đã ở chung trại “Đồn Điền” với nhau trong
một thời gian dài và anh rất cang cường trong đó.
Anh
là một sĩ quan hải quân xuất sắc, một người Mỹ cống hiến hết mình và có
đức tin sâu sắc. Tôi nghĩ đến Dick Stratton rất nhiều. Anh rất, rất là
xui bị nhận những đối xử tàn tệ nhất mà đám “gook” có thể nặn ra.
Chúng
tôi đã trải qua một mùa Xuân và Hè 1969 đặc biệt xấu vì có một cuộc
vượt ngục tại một trong những trại tù. Hai người của ta là Ed Atterberry
và John Dramesi lên kế hoạch chuẩn bị rất tốt nhưng đã bị bắt lại.
Atterberry bị đánh đến chết sau cuộc vượt ngục bất thành này.
Chẳng
nghi ngờ gì về điều này khi Dramesi thấy Atterberry bị đưa vào một căn
phòng và nghe tiếng đánh đập rồi bị biệt tăm từ đó. Còn Dramesi, nếu anh
không phải là một người lì đòn thì cũng có thể đã bị đánh chết.
Anh
có thể là một trong những người gai góc nhất mà tôi từng gặp. Anh là
dân từ Nam Philly, từng là một võ sĩ quyền Anh chuyên nghiệp và là một
đô vật khi còn trong đại học. Các đòn thù lây sang tất cả các trại khác.
Họ
bắt đầu tra khảo chúng tôi về các kế hoạch vượt ngục. Thức ăn trở nên
tồi tệ. Việc kiểm tra phòng trở nên rất nghiêm ngặt. Anh không thể có
bất cứ điều gì trong phòng mình, không có gì.
Họ
không cho cả thuốc i-ốt xức ghẻ như trước vì Dramesi và Atterberry đã
bôi i-ốt cho sậm da như người Việt Nam trước khi vượt ngục.
Mùa
hè năm đó, từ Tháng Năm đến khoảng Tháng Chín thì cứ ngày hai lần, tuần
sáu ngày, tất cả chúng tôi được cho ăn chỉ là canh bí đỏ và bánh mì tại
trại mình.
Đó
là một chế độ ăn uống rất kham khổ, đầu tiên là ngán tận cổ thứ canh bí
đỏ đó, kế đến là nó không có bất kỳ giá trị dinh dưỡng thực sự nào.
Điều duy nhất để có thể giữ cho bất kỳ trọng lượng trên người là bánh
mì, một cục bột nhão nhoét.
Ngày
Chủ Nhật, chúng tôi được cho ăn món chè đậu, đậu nấu với đường, không
có chút thịt nào. Rất nhiều người chúng tôi ốm tong teo và hốc hác. Tôi
xui xẻo bị bắt gặp đang liên lạc bạn tù bốn lần trong Tháng Năm năm
1969.
Tôi
bị tống vào một phòng trừng phạt đối diện với xà lim của tôi nhiều lần.
Cũng Tháng Năm 1969 đó, họ muốn tôi viết, như tôi còn nhớ, một lá thư
cho các phi công Mỹ đang bay trên Bắc Việt để yêu cầu họ đừng làm điều
đó nữa.
Tôi
đã bị buộc phải đứng liên tục – đôi khi chúng phạt mình đứng yên hay
ngồi trên một chiếc ghế suốt một thời gian dài. Tôi bị bắt đứng vậy cũng
mấy ngày, chỉ được nghỉ vài tiếng khi một lính canh – một người thực sự
là con người duy nhất mà tôi từng gặp ở trong đó – cho tôi nằm xuống
cho một vài giờ khi ông gác trong một đêm khuya.
Một
trong những thủ thuật chúng tôi đối phó để chúng chẳng hủy được mình là
nếu cảm thấy đứng mệt quá thì tự ngồi xuống, để chúng buộc đứng lên
lại.
Vì
vậy, tôi ngồi xuống và bị một tên lính canh bé choắt đặc biệt đáng căm
ghét xông vào, nhảy giậm lên xuống đầu gối tôi. Vì chuyện này mà tôi đã
phải mang nạng trở lại cả một năm rưỡi sau đó.
Đó
là một mùa Hè dài đăng đẳng và khó khăn nhưng đến Tháng Mười năm 1969,
đột nhiên có những thay đổi lớn trong trại. Sự tra tấn ngừng lại. Một
ngày kia, gã “Công tử” đến phòng của tôi và thông báo tôi sẽ có được một
người bạn tù ở chung phòng.
Thức
ăn đỡ hơn và phần ăn cũng nhiều hơn, còn đám lính canh ra vẻ thân
thiện. Tôi cho rằng tất cả điều này trực tiếp nhờ vào các nỗ lực vận
động của chính phủ và người dân ở Hoa Kỳ vào năm 1969.
Em
trai tôi là Joe rất tích cực trong Liên Đoàn Quốc gia những gia đình
các tù nhân chiến tranh và mất tích người Mỹ tại Đông Nam Á. Tổ chức này
bao trùm tất cả các nhóm gia đình tù binh chiến tranh POW. Joe đã giải
thích cho tôi biết lý do tại sao thái độ Bắc Việt Nam đối với tù binh Mỹ
lại thay đổi vậy.
Vào
khoảng những năm 1965, 1966 trước đó, khi việc ném bom miền Bắc tăng
dần, Hà Nội trình diễn màn tuyên truyền đầu tiên của mình bằng cách điệu
các phi công Mỹ bị đánh đập diễn hành qua các đường phố.
Đáng
ngạc nhiên với họ là phản ứng của truyền thông thế giới nói chung là
tiêu cực. Kế đó Bắc Việt đã cố gắng chiến thuật buộc Thiếu tá Dick
Stratton xuất hiện và xin lỗi vì những tội ác chiến tranh.
Nhưng
rõ ràng là ông đã bị ngược đãi và buộc phải làm điều này chỉ dưới sự
cưỡng ép. Điều đó chỉ phản tác dụng. Họ làm tiếp việc trả tự do hai nhóm
ba tù binh vào Tháng Hai và Tháng Mười năm 1968. Những tù binh này bị
bắt dưới sáu tháng, chưa bị giảm cân đáng kể và nhìn còn khỏe mạnh.
Cho
đến khi Nixon lên nắm chính phủ đầu năm 1969 thì trước đó chính phủ ở
nhà còn giữ thái độ: “Không nói về tình trạng tù binh chiến tranh vì e
rằng sẽ làm nguy hại tù binh Mỹ đang bị giam”.
Bộ
trưởng Quốc phòng Melvin Laird, đầu năm 1969, đã có các cuộc đàm phán
hòa bình với Bắc Việt và Việt Cộng tại Paris (đàm phán đã bắt đầu dưới
thời Tổng thống Johnson vào cuối năm 1968).
Laird
đem hình ảnh của những tù binh bị đánh đập tàn nhẫn mà các hãng tin
nước ngoài chụp được, chẳng hạn như Frishman, Stratton, Hegdahl – tất cả
đều bị xuống ký trầm trọng. Ông nói với Bắc Việt: “Công ước Geneva nói
rằng các ông phải thả tất cả các tù binh bị bệnh và bị thương.
Những
người này đang bị bệnh và bị thương, tại sao họ không được trả tự do?”.
Tháng Tám năm 1969, Hà Nội thả Frishman. Anh không còn khuỷu tay, chỉ
được gắn cánh tay cao su khập khiễng và sụt mất 65 lbs.
Hegdahl
ra tù và sụt 75 lbs. Wes Rumbull cũng được thả, phải bó bột vì gãy sống
lưng. Frishman được phép tổ chức một cuộc họp báo và kể ra các chi tiết
sự tra tấn và ngược đãi.
Tin
tức này xuất hiện trên toàn thế giới, và từ đó, bắt đầu từ mùa Thu năm
1969, việc đối xử tù binh đỡ hơn. Chúng tôi nghĩ tác động trực tiếp là
đến từ thực tế Frishman là một nhân chứng sống thực về sự ngược đãi tù
binh Mỹ của Bắc Việt.
Phần 6: Những kẻ phản chiến
Tôi
tự hào về các hoạt động tranh đấu cho tù nhân chiến tranh của em trai
tôi là Joe và Carol-vợ tôi, bên nhà. Sự khao khát của những người vợ có
chồng tù tội theo thời gian thường là “Lạy Chúa, bất kể sao cũng được,
con chỉ muốn chồng con được về”.
Với
Carol thì câu trả lời của cô ấy là, “Chỉ cần có được chồng tôi trở về
không đủ đối với tôi và không đủ với John, mà tôi muốn anh ấy đứng thẳng
người trở về”.
Tôi
được nhận khá ít thư từ Carol. Chỉ có ba thư trong bốn tháng đầu tiên
tôi bị bắn hạ. Đám “gook” cho tôi nhận chỉ một lá thư trong bốn năm tù
cuối.
Gói quà đầu tiên được nhận vào Tháng Năm 1969, sau đó họ cho mỗi năm một lần.
Lý
do tôi nhận rất ít thư từ Carol vì cô khăng khăng chỉ sử dụng các tổ
chức hoạt động theo Công ước Geneva về việc đối xử với tù nhân chiến
tranh, mà từ chối gửi thư thông qua Ủy ban liên lạc với các gia đình tù
nhân do các nhóm phản chiến điều hành.
Điều này mang lại cho tôi vài điều cần nói chi tiết hơn.
Như
mọi người biết, trở lại thời điểm 1954, Bắc Việt đã ở thế tay trên
trong việc lật đổ chính phủ Pháp tại Paris vì các cử tri Pháp đã chẳng
còn quan tâm đến cuộc chiến Việt Nam mà chính phủ của họ đã dự phần.
Đó
là cách Bắc Việt chiến thắng vào năm 1954, thắng ngay tại Pháp chớ
không phải tại Việt Nam. Pháp đồng ý rút khỏi Đông Dương mà không đặt
vấn đề gì khác khi ký thỏa thuận và kết quả là họ chỉ nhận lại một phần
ba số tù binh chiến tranh của mình.
Tôi
tin rằng Hà Nội cũng hy vọng sẽ giành chiến thắng trong trường hợp
chúng ta bằng cách làm suy giảm tinh thần dân Mỹ như vậy. Họ phải dẫn
đưa dư luận thế giới về phía họ.
Tôi
nhớ vào năm 1968 hoặc 69, trong bài phát biểu của Phạm Văn Đồng với
Quốc Hội VN, chúng ta bị banh tai với diễn văn có tiêu đề “Cả thế giới
ủng hộ chúng ta” chớ không phải kiểu “Chúng ta đã đánh bại quân Mỹ xâm
lược” hoặc bất cứ điều tương tự vậy.
Năm
1969, sau khi ba tù nhân được trả tự do về đến Mỹ và kể lại sự tàn bạo
trong các trại tù binh chiến tranh thì Tổng Thống Nixon đã bật đèn xanh
cho công bố điều này. Nó tác động mạnh đến việc đối xử với chúng tôi.
Cảm
tạ Chúa cho điều này, bởi nếu không phải vậy thì rất nhiều người trong
chúng tôi sẽ chẳng bao giờ còn cơ hội sống sót trở về. Một ví dụ nhỏ về
cách thay đổi như sau: trên cửa xà lim tôi là các chấn song sắt, thường
bị che bởi một tấm ván để tôi khỏi nhìn ra ngoài và để chặn sự thông
gió.
Một
đêm, vào khoảng cuối Tháng Chín năm 1969, “Đầu Lệch”- tên trưởng trại
tù đích thân đến và lấy nó ra để tôi bắt đầu có chút thoáng gió. Tôi
chẳng tin vào mắt mình. Từ đó, mỗi đêm họ hé ô cửa trên để tôi có được
chút thông gió.
Chúng
tôi bắt đầu được tắm thường xuyên hơn. Thiệt hết sức là ngạc nhiên. Vào
Tháng 12 năm 1969, tôi được chuyển từ “Ngũ Giác Đài” sang “Las Vegas”,
là một khu vực nhỏ tại Hỏa Lò do người Pháp xây năm 1945.
Người
Mỹ thì gọi nó là “Hà Nội Hilton”. “Khách Sạn Tan Tác” cũng là ở đó – đó
là nơi đầu tiên mà ai cũng bị đưa đến thẩm vấn mở màn và sau đó bị đưa
đến các trại khác.
Toàn
bộ nhà tù này có diện tích khoảng hai block đường. Tại “Las Vegas “,
tôi bị đưa vào một nhà nhỏ gọi là “Gold Nugget” có ba phòng giam. Chúng
tôi đặt tên cho các ngôi nhà theo tên các khách sạn tại Las Vegas như
“Thunderbird”, “Stardust”, “Riviera”, ” Gold Nugget” và “Desert Inn “.
Bị chuyển đến “Gold Nugget” và ngay lập tức tôi có thể tạo sự liên lạc
với những tù nhân quanh trại, vì khu vực tắm ở ngay cửa sổ phòng tôi nên
tôi có thể nhìn qua kẽ trên cửa phòng tắm và liên lạc với nhau.
Tôi bị biệt giam ở đó cho đến Tháng Ba năm 1970.
Họ
ép tôi gặp các đoàn phản chiến Mỹ đã bắt đầu tăng dần nhưng không bị
bất kỳ sự tra tấn nào để ép buộc. Vào Tháng Giêng năm 1970, tôi được đưa
đến “Mèo” để thẩm vấn.
Hắn
nói với tôi rằng, hắn muốn tôi gặp một khách nước ngoài. Tôi lặp lại
điều đã luôn nói với hắn trước đó rằng, tôi sẽ gặp họ nhưng tôi sẽ không
nói bất cứ điều gì chống lại đất nước mình và nếu được hỏi về việc đối
xử, tôi sẽ kể với họ về sự khắc nghiệt của nó.
Rất
ngạc nhiên cho tôi, hắn nói: “Tốt, anh không cần phải nói bất cứ điều
gì”. Tôi nói với hắn tôi sẽ suy nghĩ về đề nghị này. Tôi trở về phòng và
tìm cố vấn từ một sĩ quan cấp trên trong khu vực tù của mình và ông
khuyên tôi cứ đi gặp.
Vì
thế tôi đã gặp một tay nói rằng hắn đến từ Tây Ban Nha, nhưng sau này
tôi nghe được là đến từ Cuba. Hắn chẳng hỏi tôi bất kỳ câu hỏi nào về
các vấn đề gây tranh cãi hoặc chuyện đối xử hay suy nghĩ của tôi về cuộc
chiến.
Tôi
nói với hắn là tôi chẳng hối hận gì về những gì tôi đã làm và nếu có
xảy ra lần nữa, tôi cũng sẽ làm lại y vậy. Điều đó dường như làm hắn nổi
giận vì hắn là một cảm tình viên của Bắc Việt.
Giữa
lúc đó, một phóng viên bước vào chụp vài tấm hình. Tôi đã nói với “Mèo”
trước đó là tôi không muốn có bất cứ sự công bố hình ảnh nào của tôi,
vì vậy khi tôi về phòng sau cuộc phỏng vấn kéo dài khoảng 15, 20 phút gì
đó, tôi nói với hắn là tôi sẽ không gặp khách nào khác vì hắn đã không
giữ lời hứa.
Sau
đó Đại Tá Jeremiah Denton, người đang điều hành khu tù chúng tôi lúc đó
đưa ra đường lối là chúng tôi không nên gặp bất kỳ đoàn nào khác.
Tới
Tháng Ba, tôi có được một bạn tù chung phòng là Đại tá Không quân John
Finley. Ông và tôi sống chung được khoảng hai tháng. Một tháng sau khi
ông nhập phòng, “Mèo” đến gặp tôi và bắt phải gặp một phái đoàn khác.
Tôi
từ chối nên bị phạt ngồi ghế ngoài trời trong ba ngày đêm liên tục. Sự
ép buộc lên chúng tôi liên tục để phải gặp các phái đoàn phản chiến. Đầu
Tháng Sáu tôi bị tách khỏi Đại tá Finley và bị đưa vào một xà lim gọi
là “Calcutta”, cách xa các tù nhân gần nhất cũng khoảng 50 mét.
Nó
rộng chỉ 6×2 feet, không có lỗ thông gió và rất, rất là nóng. Suốt mùa
hè tôi bị lả nhiệt vài ba lần và bị lỵ. Sức khỏe tồi tệ hẳn, tôi không
được tắm rửa và khẩu phần bị cắt giảm xuống còn một nửa, thỉnh thoảng
lại bị bỏ đói một ngày hay hơn.
Suốt thời gian này tôi bị đưa đi thẩm vấn và bị ép phải gặp những người phản chiến nhưng tôi từ chối .
Tháng Chín tôi bị chuyển đến khu gọi là “Riviera” nằm tách biệt sau trại. Tôi ở đó cho đến khi Tháng Mười Hai năm 1970.
Ở
đó tôi có thể liên lạc với bạn tù khá tốt vì có một cánh cửa có lỗ
thông gió quay ra ngoài. Tôi đứng lên cái xô rồi dùng bàn chải đánh răng
để quơ tín hiệu cho các tù nhân khác và họ sẽ quơ lại cho tôi.
Tháng
Mười Hai tôi bị chuyển đến “Thunderbird”, một trong những ngôi nhà lớn
với khoảng 15 phòng giam. Việc liên lạc với bạn tù rất tốt ở đây khi
chúng tôi gõ tín hiệu lên vách giữa các phòng giam với nhau.
Tôi
học được rất nhiều về âm học trong thời gian này, vì nếu bạn biết gõ
đúng chỗ trên vách thì có thể nghe được người khác ở cách xa bốn năm
phòng.
Cuối
Tháng 12 năm 1970, tôi đoán là khoảng ngày 20, tôi được cho ra ngoài
vào ban ngày với bốn người khác. Vào đêm Giáng Sinh, chúng tôi được đưa
ra khỏi phòng mình và chuyển đến “Trại Thống nhất “, một phần khác của
Hỏa Lò.
Khoảng
45 người, chủ yếu bị đưa từ “Vegas” bị nhốt chung vào một phòng lớn. Có
bảy phòng lớn như vậy và mỗi phòng giam 45 hoặc 50 tù nhân. Chúng tôi
có tổng cộng 335 tù nhân tại thời điểm đó.
Có
bốn hoặc năm người không trong tình trạng tốt nên bị nhốt riêng. Các
Đại Tá Flynn, Wynn, Bean và Caddis cũng bị nhốt riêng biệt, không được
chuyển vào với chúng tôi lúc đó.
Tên
giám thị của chúng tôi lại là “Con Rệp” mà chúng tôi rất căm ghét. Hắn
hành hạ chúng tôi đủ điều, không cho chúng tôi tụ tập hơn ba người cùng
lúc.
Chúng
sợ chúng tôi sẽ thiết lập sự truyền bá chính trị cho nhau. Chúng không
cho chúng tôi được làm Thánh lễ. Tháng Ba năm 1971, các sĩ quan cấp trên
quyết định rằng chúng tôi sẽ tổ chức một Thánh lễ.
Đó
là điều quan trọng với chúng tôi và cũng là điều đúng để tranh đấu.
Chúng tôi tiến hành và tổ chức lễ. Những người chủ Thánh lễ ngay lập tức
bị đưa ra khỏi phòng.
Chúng
tôi bắt đầu hát vang những bài Thánh ca và Quốc ca. Đám “gook” nghĩ đó
là một cuộc nổi loạn nên mang dây thừng và dùng judo vật trói chúng tôi.
Sau khoảng một hoặc hai tuần họ bắt đầu đưa các sĩ quan cấp trên ra
khỏi phòng chúng tôi đến nơi khác.
Cuối
Tháng Ba chúng lại đưa thêm ba hay bốn người mỗi một trong bảy phòng
ra, tổng cộng là 36 người. Chúng tôi bị đưa đến một trại chúng tôi gọi
là “Skid Row”, một trại trừng phạt từ Tháng Ba đến Tháng Tám, được trở
về khoảng bốn tuần khi có ngập lụt quanh Hà Nội, rồi sau đó chúng tôi
lại bị đưa ra đó lại cho đến Tháng Mười.
Ở
đó chúng không đối xử tệ lắm với chúng tôi. Đám lính canh được phép
đánh chúng tôi chỉ khi chúng tôi ngang ngạnh nhưng không được phép tra
tấn chúng tôi để có được các tuyên bố mang tính tuyên truyền.
Các
xà lim đều rất nhỏ, khoảng 6×4 feet và chúng tôi bị biệt giam lần nữa.
Đó là điều khó chịu nhất vì cứ làm mình nghĩ đến tất cả bạn bè đã từng
bị giam chung một phòng lớn với nhau.
Nhưng
so với những năm 69 và trước đó thì chẳng đáng gì. Lợi thế lớn nhất khi
bị giam chung phòng lớn là chỉ cần vài ba người trong nhóm phải đối phó
với đám “gook” còn khi bị biệt giam thì lúc nào cũng phải tự mình đối
phó với chúng, mà lúc nào chẳng có chuyện lục đục với chúng.
Lẽ
ra mình được phép có 15 phút để tắm nhưng mới năm phút thì tên “gook”
đã bắt về lại phòng, vì vậy phải cãi với hắn và thế là bị hắn nhốt lại,
không cho tắm một tuần. Nhưng khi ở trong một phòng lớn với những người
khác, chẳng thèm dòm ngó đến chúng sẽ làm mình dễ chịu hơn rất nhiều.
Suốt
giai đoạn này, bọn “gook” tấn công chúng tôi bằng các phát biểu phản
chiến từ một số nhân vật cao cấp ngay Washington. Đây là cách tuyên
truyền hữu hiệu nhất để tấn công chúng tôi khi dùng chính phát biểu,
tuyên bố của vài người nói chung là được trọng vọng tại Hoa Kỳ.
Chúng
dùng nhiều lời lẽ của Thượng Nghị Sĩ Fulbright, rồi TNS Brooke. Chúng
lặp đi lặp lại lời của TNS Ted Kennedy, cũng như Averell Harriman.
Chúng
cũng thích Clark Clifford, ngay sau khi ông trở thành Bộ Trưởng Quốc
Phòng thời Tổng Thống Johnson. Đến khi Ramsey Clark vào cuộc thì họ xem
đó là bước tuyệt vời cho mục tiêu của họ (Chú: Ramsey Clark, cựu Bộ
Trưởng Tư Pháp thời TT Johnson, người phản đối mạnh mẽ chiến tranh Việt
Nam và năm 1972 đã sang Hà Nội để phản đối việc ném bom Hà Nội).
Khi
công luận ồn ào sau vụ công bố Hồ Sơ Ngũ Giác Đài (Chú: Pentagon Papers
là tài liệu nghiên cứu mật của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ về sự can dự chính
trị và quân sự của Hoa Kỳ vào Việt Nam trong khoảng thời gian từ sau Đệ
Nhị Thế Chiến cho đến năm 1967, đã bị một nhân vật phản chiến trong nhóm
nghiên cứu tiết lộ cho báo New York Times vào năm 1971)
thì
đây là một bước đệm lớn lao cho Hà Nội để tận dụng nó như một bằng
chứng về những “âm mưu đen tối của đế quốc” mà họ vẫn thường rêu rao
trong nhiều năm.
Phần cuối: Tự do
Tháng
11 năm 1971, Bắc Việt chuyển chúng tôi từ trại trừng phạt “Skid Row” về
lại trại giam chung “Thống Nhất” trong phạm vi Hỏa Lò.
Từ
đó về sau thì hầu như chúng tôi bị nhốt chung với những người khác, kể
cả những người được đưa vào sau, cũng khoảng 40 tù binh. Tháng 5 năm
1972, khi Mỹ bắt đầu oanh tạc mạnh sau khi Tổng Thống Nixon ra lịnh ném
bom Bắc Việt và thả mìn các cảng, họ chuyển hầu như tất cả các sĩ quan
cấp nhỏ lên trại “Dogpatch”- Trại Chó Vá gần biên giới Trung Cộng, chừa
lại các sĩ quan cao cấp và nhóm chúng tôi.
Tôi
nghĩ rằng họ sợ Hà Nội sẽ bị đánh bom và nếu nhốt chung tất cả chúng
tôi cùng một trại thì chỉ một quả bom rơi trúng cũng có thể xóa sổ tất
cả.
Vào
thời điểm này, đám “gook” rất cộc cằn, hung dữ. Chúng từng kéo một tù
binh ra khỏi phòng chúng tôi và đánh anh ta một trận bán sống bán chết
vì anh đã làm lá cờ Mỹ trên lưng áo một tù binh khác.
Anh
là một thanh niên tốt, có tên là Mike Christian. Chúng thoi anh túi bụi
ngay ngoài cửa phòng giam chúng tôi, sau đó cứ kéo lê vài feet lại đánh
anh tàn nhẫn hết cả vòng quanh sân trại.
Anh bị bể một bên màng nhĩ và gãy xương sườn. Nó là một bài học dằn mặt tất cả chúng tôi.
Cuối
cùng đến cái ngày mà tôi sẽ không bao giờ quên được là ngày 18 tháng 12
năm 1972. Khắp nơi rền tiếng bom theo lịnh ném bom dịp Giáng Sinh của
Tổng Thống Nixon. Hà Nội bị đánh bom tức thời.
Từ
khung cửa sổ phòng giam nhìn ra trời, đó là cảnh tượng ngoạn mục nhất
tôi đã từng chứng kiến và tất nhiên, nhìn rõ những ánh chớp trong đêm.
Bom
thả rất gần làm rung chuyển cả tòa nhà. Hỏa tiễn SAM đất-đối-không đan
chéo bầu trời giữa tiếng còi hụ báo động inh tai quả thực là một cảnh
tượng dữ dội.
Khi
một chiếc B-52 trúng đạn, ở độ cao hơn 30,000 feet, nó nổ sáng rực cả
bầu trời, rồi ánh đỏ như ban ngày khá lâu vì rơi xuống từ trên không rất
cao.
Vào
thời điểm đó chúng tôi biết là chúng tôi sẽ không bao giờ được trả tự
do trừ khi chính phủ có hành động gì đó rất quyết liệt. Chúng tôi bị
giam ba năm rưỡi trời mà không có vụ ném bom nào xảy ra nên nhận thức
khá rõ cách duy nhất để chúng tôi được thả là chính phủ phải mạnh tay
với Hà Nội.
Vì
vậy chúng tôi rất vui mừng, hò reo cổ vũ. Đám “gook” thì không thích
điều đó chút nào, nhưng chúng tôi cóc để ý. Với chúng tôi thì rõ ràng là
đàm phán sẽ không giải quyết được vấn đề.
Lý
do duy nhất tại sao Bắc Việt bắt đầu chịu đàm phán vào tháng 10 năm
1972 bởi vì họ cũng có thể đọc được các thăm dò và biết rằng Nixon sẽ
chiến thắng áp đảo trong việc tái tranh cử nên họ muốn đàm phán Hiệp
định đình chiến trước bầu cử.
Tôi
ngưỡng mộ sự dũng lược của Tổng Thống Nixon. Có thể có chỉ trích ông
trong vài điều, như vụ Watergate chẳng hạn. Nhưng ông phải đưa ra những
quyết định không được ủng hộ lắm mà tôi có thể tưởng tượng như thả mìn,
phong tỏa, ném bom.
Tôi
biết làm điều đó rất, rất là khó khăn cho ông nhưng đó là điều để kết
thúc chiến tranh. Tôi nghĩ lý do ông hiểu điều này vì ông có kinh nghiệm
đối phó với cộng sản.
Ông
biết sử dụng chiến thuật cây gậy và củ cà rốt. Chuyến công du của ông
tới Trung Cộng và khi ký Hiệp ước Giới hạn Vũ khí Chiến lược với Nga
được dựa trên thực tế là chúng ta mạnh hơn Cộng sản nên họ mới đàm phán.
Họ
chỉ hiểu khi dùng vũ lực. Và đó là lý do tại sao bây giờ tôi vẫn còn
khó hiểu là trong khi mọi người đều biết rằng việc ném bom cuối cùng đã
dẫn đến thỏa thuận ngừng bắn, thì tại sao mọi người vẫn chỉ trích chính
sách đối ngoại của ông?
Sau cuộc tấn công Tết Mậu Thân 1968, Bắc Việt lên mặt hẳn. Họ biết Tổng Thống Johnson sẽ ngừng thả bom trước cuộc bầu cử 1968.
Tháng Năm 1968, hai tướng Bắc Việt thẩm vấn tôi trong hai lần riêng biệt thì cả hai đều nói hầu như giống nhau từng chữ rằng:
“Sau
khi chúng tôi giải phóng miền Nam thì sẽ sang giải phóng Campuchia. Sau
Campuchia sẽ đến Lào và sau Lào, chúng tôi sẽ giải phóng sang Thái Lan,
Malaysia, Miến Điện. Chúng tôi sẽ giải phóng hết cả khu vực Đông Nam
Á”.
Họ
làm tôi chẳng còn nghi ngờ gì nữa về âm mưu của họ không chỉ riêng với
Nam Việt Nam. Một số người cười cợt bác bỏ “lý thuyết domino” nhưng Bắc
Việt tin vào nó, chưa bao giờ chối bỏ nó. Hồ Chí Minh đã phát biểu
nhiều, rất nhiều lần rằng, “Chúng ta tự hào ở tuyến đầu trong cuộc đấu
tranh vũ trang giữa phe Xã hội Chủ nghĩa và bọn đế quốc Mỹ xâm lược”.
Nó
hiện hình không còn là cuộc đấu tranh dân tộc, đấu tranh giành độc lập
cho miền Nam Việt Nam mà mang đúng nghĩa những gì ông ta đã nói. Đó là
tất cả những gì chủ nghĩa cộng sản nhắm tới: một cuộc đấu tranh vũ trang
để lật đổ các nước Tư bản Chủ nghĩa. Tôi đọc nhiều sách lịch sử của họ.
Họ
đưa chúng tôi khá các loại sách tuyên truyền. Tại thời điểm sau Tết Mậu
Thân này, Bắc Việt nghĩ rằng họ đã thắng cuộc chiến. Họ nghĩ họ làm
tướng Westmoreland mất chức.
Họ
tin rằng họ làm đắm cơ hội để Johnson tái đắc cử. Và họ nghĩ rằng đa số
người dân Mỹ đứng về phía họ. Đó là lý do tại sao họ oang oang tham
vọng của mình quá sớm vì đánh giá sai bản lĩnh của Tổng Thống Nixon.
Quay
trở lại vụ đánh bom Tháng 12 thì thoạt đầu, Bắc Việt có lẽ có rất nhiều
hỏa tiễn SAM trong tay nhưng ngày càng thấy bắn ít dần, có nghĩa họ đã
xài gần hết.
Ngoài
ra, trong vài ngày đầu tiên thì B-52 thả bom chủ yếu ngay quanh Hà Nội,
sau đó trải ra xa thành phố thì theo tôi nghĩ, ta đã phá hủy được tất
cả các mục tiêu quân sự trong Hà Nội. Tôi không biết số lượng phi hành
đoàn B-52 bị bắn rơi bởi vì họ chỉ đưa các phi công bị thương vào trại
của chúng tôi.
Thái
độ của các phi công chúng ta rất tốt. Tôi hỏi một phi công trẻ khóa
West Point 70 rằng “Anh nghĩ sao khi nhận lịnh ném bom Hà Nội?”. Anh trả
lời, “Tinh thần chúng tôi tăng vọt”. Tôi cũng nghe có một phi công B-52
khước từ nhiệm vụ trong vụ đánh bom Giáng sinh.
Bạn
luôn gặp chuyện kiểu đó, gặp những người khi khó khăn thì họ bị lương
tâm cắn rứt. Tôi muốn nói điều này với bất cứ ai trong quân đội rằng,
nếu anh không biết quốc gia mình đang làm cái gì thì nên tìm hiểu chúng
và nếu thấy mình không thích điều quốc gia mình đang làm thì hãy đứng
ngoài trước khi mọi chuyện được quyết định.
Một
khi trở thành một tù binh chiến tranh, anh không có quyền bất đồng
chính kiến, bởi vì những gì anh làm sẽ tổn hại đến quốc gia của mình.
Anh không còn nói với tư cách cá nhân, mà nói như một quân nhân của quân
đội Hoa Kỳ và mang trách nhiệm trung thành với Tổng Tư Lệnh chứ không
phải với lương tâm của mình.
Vài
bạn tù của tôi đã không làm vậy nhưng chỉ là một thiểu số rất nhỏ. Tôi
tự hỏi họ có nên bị truy tố không và thấy chẳng dễ dàng để trả lời chút
nào.
Nó
có thể phá hủy hình ảnh đẹp của phần lớn chúng tôi mang về từ địa ngục
đó. Hãy nhớ rằng, một số kẻ thay lòng đổi dạ sau chiến tranh Triều Tiên
đã làm phần lớn dân Mỹ nghĩ rằng hầu hết các tù binh trong cuộc chiến
này cũng là những kẻ phản bội.
Nếu
họ có bị xét xử thì không phải vì lập trường chống chiến tranh của họ,
mà vì họ đã hợp tác với Bắc Việt đến mức độ gây nguy hại cho các tù binh
khác.
Và
có điều này cần xem xét: Hoa Kỳ sẽ có những cuộc chiến tranh khác để
chiến đấu cho đến khi Cộng Sản từ bỏ chủ thuyết bạo lực lật đổ chúng ta,
những người này phải chịu sự lên án để sẽ không gây tiền lệ cho thái độ
làm tổn hại quốc gia trong những cuộc chiến tương lai .
Vào
cuối Tháng Giêng năm nay (1973), chúng tôi biết việc kết thúc chiến
tranh đã đến gần. Tôi bị chuyển đến “Đồn Điền” và được cho ở chung theo
nhóm được phân loại theo thời gian bị bắn hạ. Họ đã chuẩn bị sẵn sàng để
trả tù binh theo nhóm.
Đó
là ngày 20 Tháng Giêng. Kể từ đó, mọi chuyện trở nên dễ chịu, họ chẳng
sách nhiễu chúng tôi nữa. Nhưng theo kiểu của họ thì chúng tôi vẫn bị ăn
uống kham khổ trong khoảng hai tuần, chỉ đêm trước khi được trao trả
mới được ăn một bữa no nê ngon lành.
Có
một điều rất thú vị là sau khi tôi trở về, Henry Kissinger có kể với
tôi rằng khi ông ở Hà Nội để ký thỏa thuận cuối cùng, Bắc Việt có đề
nghị cho phép ông ta có thể mang một người cùng theo về Washington và đó
là tôi.
Tất
nhiên là ông từ chối và tôi đã cảm ơn ông về điều đó rất nhiều, vì tôi
không muốn là biệt lệ. Hầu hết mọi người đều cá cược rằng tôi là người
cuối cùng được thả, nhưng bạn không bao giờ có thể hiểu được bọn “gook”.
Không
có nghi lễ đặc biệt gì khi chúng tôi rời trại. Ủy ban kiểm soát Quốc tế
đến và chúng tôi được phép nhìn quanh trại lần cuối. Có rất nhiều phóng
viên ảnh, nhưng chẳng có gì trịnh trọng. Chúng tôi lên xe buýt và được
đưa ra sân bay Gia Lâm.
Người
bạn cũ của tôi là “Thỏ” đã ở đó. Hắn đứng phía trước và bảo chúng tôi:
“Khi nghe tôi đọc tên, các anh lên máy bay và về nhà”. Đó là ngày 15
tháng 3.
Cho
đến tận lúc đó, tôi cũng không cho phép bản thân mình có nhiều hơn một
cảm giác hy vọng đầy thận trọng. Chúng tôi đã mừng hụt rất nhiều lần
trước đó đến độ tôi quyết định rằng mình sẽ không được phấn khích cho
đến khi nào bắt tay được với một người Mỹ mang quân phục.
Điều
đó đã xảy ra tại Gia Lâm và tôi biết nó đã kết thúc thật sự. Tôi chẳng
thể nào diễn tả được cảm xúc của mình khi đi về chiếc phi cơ Không Quân
Hoa Kỳ.
Bây
giờ khi về nhà, tôi thấy có rất nhiều cuộc tranh cãi về quốc gia chúng
ta. Tôi không đồng ý lắm. Tôi nghĩ nước Mỹ ngày nay là một quốc gia tốt
đẹp hơn so với khi tôi rời nó sáu năm trước. Bắc Việt cung cấp cho chúng
tôi rất ít tin tức, ngoại trừ các tin xấu về Hoa Kỳ.
Chúng
tôi không biết cuộc đổ bộ thành công lên mặt trăng đầu tiên năm 1969
cho đến khi nó được đề cập trong bài phát biểu của George McGovern rằng,
Nixon có thể đưa con người lên mặt trăng nhưng ông không thể kết thúc
chiến tranh Việt Nam.
Họ
dội lên chúng tôi những tin tức về cái chết của Martin Luther King và
các cuộc bạo loạn sau đó. Thông tin như vậy cứ liên tục nhả ra khỏi loa.
Tôi nghĩ Hoa Kỳ bây giờ là một quốc gia tốt đẹp hơn vì chúng tôi đã
trải qua một quá trình thanh lọc, tái thẩm định chính mình.
Tôi
thấy một tinh thần tri ân về đời sống của chúng ta nhiều hơn, thấy tinh
thần ái quốc cao hơn và nhìn thấy Quốc kỳ tung bay khắp mọi nơi. Tôi
nghe thấy những giá trị mới đang được nhấn mạnh, như mối quan tâm về môi
trường chẳng hạn.
Tôi
nhận được rất nhiều thư từ các bạn trẻ và nhiều người đã gửi tặng tôi
những chiếc vòng đeo tay POW có tên tôi mà họ đã mang.
Một
số không biết gì nhiều về cuộc chiến, nhưng họ có lòng ái quốc mạnh mẽ,
các giá trị của họ đều tốt đẹp và tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ nhìn thấy
họ sẽ lớn lên thành những người Mỹ tốt hơn nhiều người trong chúng ta.
Những
tình cảm tuôn tràn này làm những người tù binh chiến tranh chúng tôi
choáng ngợp và có chút ngượng ngùng bởi vì trên căn bản, chúng tôi cảm
thấy rằng chúng tôi chỉ là người lính Hải Quân, Thủy Quân Lục Chiến và
Không Quân bình thường. Bất cứ ai khác ở vị trí của chúng tôi cũng làm
vậy.
Dự tính tương lai của tôi là vẫn tiếp tục phục vụ trong Hải Quân nếu tôi còn có thể bay được.
Điều
đó phụ thuộc vào sự thành công của các phẫu thuật chỉnh hình cho cánh
tay và chân tôi. Nếu tôi phải rời Hải Quân, tôi hy vọng sẽ phục vụ cho
chính phủ trong khả năng của mình, tốt nhất trong ban đối ngoại của Bộ
Ngoại Giao.
Tôi
đã có rất nhiều thời gian để suy nghĩ trong tù và nghiệm ra rằng, một
trong những điều quan trọng nhất trong cuộc đời mỗi người là, bên cạnh
gia đình, hãy đóng góp gì đó cho đất nước của mình.
Đinh Yên Thảo (Danlambao) chuyển dịch -
No comments:
Post a Comment