; }

CHIẾC GẠT TÀN VÀ ÂM MƯU BẮT CÓC HOÀNG ĐẾ ĐỨC NĂM 1919

Tháng 1/1919, đại tá Mỹ Luke Lea và 6 quân nhân có chuyến đi táo bạo đến một lâu đài Hòa Lan, nơi hoàng đế Đức Wilhelm II sống lưu vong.
Wilhelm II, hoàng đế cuối cùng của Đức đồng thời là quốc vương cuối cùng của Vương quốc Phổ, đã trị vì từ năm 1888 cho đến khi thoái vị ngày 9/11/1918. Sợ bị quân Đồng minh bắt, Wilhelm bỏ trốn khỏi Đức một ngày trước khi Đức bị đánh bại trong Thế chiến I ngày 11/11/1918.
Hòa Lan, quốc gia trung lập trong chiến tranh, miễn cưỡng cung cấp cho Hoàng đế nơi trú ẩn an toàn.
Click image for larger version

Name: am.jpg
Views: 0
Size: 136.4 KB
ID: 1639677
Luke Lea tại Mỹ năm 1912. Ảnh: Library of Congress.
Sau khi Mỹ tham gia Thế chiến I vào tháng 4/1917, Lea gia nhập Lực lượng Vệ binh Quốc gia Tennessee. Sinh ra trong một gia đình giàu có ở Tennessee, Lea có thời gian ngắn hành nghề luật, làm chủ biên một tờ báo và giành được một ghế trong thượng viện Mỹ ở tuổi 31. Ông chỉ tại chức một nhiệm kỳ.

Trong Thế chiến I, Lực lượng Vệ binh Quốc gia Tennessee được chuyển đổi thành Trung đoàn Pháo binh dã chiến số 114, hoạt động tại St. Mihiel và Meuse-Argonne ở Pháp. Sau chiến tranh, đơn vị của Lea được giao nhiệm vụ đóng ở Luxembourg. Khi đó, Lea ấp ủ kế hoạch bắt cóc Hoàng đế Đức.

Lea không bao giờ nói rõ lý do ông muốn bắt cóc Hoàng đế Đức, nhưng sau này ngụ ý trong một bài viết rằng động cơ của ông là lòng yêu nước và mong muốn trả thù.

Ngày 31/12/1918, Lea thuyết phục chuẩn tướng Oliver Spaulding cho ông cùng 6 người khác nghỉ phép 5 ngày. Lea nói với chỉ huy rằng họ không thích đến những nơi mà lính Mỹ thường đi, mà muốn tham quan càng nhiều quốc gia khác càng tốt, miễn là không vi phạm quy định. Spaulding đã ký lệnh nghỉ phép và cho phép 6 người này sử dụng ôtô công vụ.

Ngày 1/1/1979, Lea tập hợp đội ngũ lên chiếc xe 7 chỗ, trong đó có đại úy Larry MacPhail, người Lea đã quen biết từ thời còn ở Nashville. Lea không nói họ sẽ đi đâu, chỉ nói rằng "chuyến đi có thể nguy hiểm" nhưng "chắc chắn sẽ rất thú vị".

Hai ngày sau, họ liên lạc với văn phòng lãnh sự Mỹ ở Maastricht để làm hộ chiếu đi
Hòa Lan, quốc gia trung lập trong chiến tranh nhưng lính Mỹ vẫn không được đến. Không ai trong nhóm của Lea thắc mắc về ý định của ông. Khi Lea biết tin việc cấp hộ chiếu bị trì hoãn, ông thuyết phục đại sứ Mỹ tại Bỉ cấp cho họ giấy thông hành dưới danh nghĩa Nữ hoàng Hòa Lan, cho phép nhóm của Lea đến Hòa Lan để "tìm hiểu và viết báo".
Khi nhóm binh sĩ Mỹ đến biên giới
Hòa Lan, một lính biên phòng nói với họ "không sĩ quan Mỹ nào được phép ở Hòa Lan". Nhưng khi Lea đưa ra giấy thông hành của Nữ hoàng, lính biên phòng cho phép họ nhập cảnh.
Lea sau đó nói với nhóm của mình về mục đích thực sự của chuyến đi, nhấn mạnh rằng bất cứ ai cảm thấy không thoải mái với nhiệm vụ bắt cóc Hoàng đế Đức có thể quay về hoặc đợi ở biên giới
Hòa Lan. Không một ai rời đi.
Khi họ đến lâu đài vào đêm 1/1/1919, Lea nhảy ra khỏi xe, gõ dồn dập vào cánh cổng nặng nề của lâu đài, thu hút sự chú ý của lính canh Đức. Lea dùng tiếng Đức bập bẹ để yêu cầu gặp người phụ trách an ninh của lâu đài. Thay vào đó, nhóm người Mỹ được dẫn vào một thư viện lớn và gặp chủ nhân của lâu đài, Bá tước Bentinck. Ông truy hỏi vì sao nhóm của Lea xuất hiện tại đây.

Khi Lea từ chối trả lời, Bentinck ra khỏi thư viện và nói chuyện với Hoàng đế Đức trong một căn phòng liền kề.

Trong lúc chờ đợi, nhóm của Lea để ý thấy một số chiếc gạt tàn của Hoàng đế Đức trên bàn. Mỗi chiếc đều có quốc huy của Đức và tên viết tắt của Hoàng đế.

Bentinck quay lại, nói với nhóm của Lea rằng ông sẽ không tiếp họ trừ khi họ có nhiệm vụ chính thức với Hoàng đế. Trước khi tình hình trở nên tồi tệ, Lea quyết định rời đi, nhưng đại úy MacPhail đã kịp nhét một chiếc gạt tàn vào túi áo khoác.

Khi nhóm binh sĩ Mỹ ra khỏi lâu đài, họ thấy hàng trăm thường dân tụ tập gần cổng. Lea lo lắng ra lệnh cho các thành viên lên xe ngay lập tức và rời đi.

Ngồi bên cạnh Lea ở ghế sau, đại úy MacPhail thò tay vào túi áo và nói: "Thưa đại tá, tôi đã thó được một món quà lưu niệm cho ông và các thành viên khác trong nhóm". Lea không nhìn xuống mà nói: "Tôi không muốn nghe và cũng không muốn biết anh đã làm gì".

Hai ngày sau, nhóm binh sĩ Mỹ trở lại nơi đóng quân. Lea không đề cập với tướng Spaulding về Hà Lan, Hoàng đế Đức hay cái gạt tàn.

Vụ bắt cóc bất thành của đại tá Lea lẽ ra sẽ bị quên lãng nếu MacPhail không lấy trộm chiếc gạt tàn. Tùy viên quân sự Mỹ ở The Hague thông báo cho Phòng Tình báo Quân sự (MID) ở Washington rằng Hoàng đế Wilhelm khiếu nại về nhóm người Mỹ không mời mà đến đã lấy trộm một chiếc gạt tàn. MID tin rằng Lea có liên quan.

Lo ngại về một sự cố quốc tế đáng xấu hổ, tướng John J. "Black Jack" Pershing, chỉ huy Lực lượng Viễn chinh Mỹ, ra lệnh cho tổng thanh tra điều tra khiếu nại nhanh hết sức có thể.

Trong nhiều tuần, chuẩn tướng Andre W. Brewster và các nhà điều tra thẩm vấn tất cả người tham gia chuyến đi và nhân chứng. Brewster muốn biết liệu nhóm của Lea có vi phạm quy tắc trung lập khi đến
Hòa Lan, có vi phạm điều lệnh khi sử dụng phương tiện của quân đội hay họ có lấy trộm gạt tàn của Hoàng đế Đức không. Lời khai của Lea rất quan trọng nhưng ông không cung cấp nhiều thông tin và bác bỏ cáo buộc vi phạm điều lệnh.
Lea sau đó ăn trưa với MacPhail. Họ đang dùng bữa thì MacPhail nhận được yêu cầu đến thẩm vấn. Lea nói với MacPhail: "Tôi sẽ làm cố vấn pháp lý cho anh".

MacPhail đã không khai báo trung thực. "Tôi nhìn thấy cái gạt tàn và cầm nó một lúc", MacPhail nói. "Nhưng giờ tôi không giữ cái gạt tàn và không biết nó ở đâu". Khi được hỏi ai đã lấy gạt tàn, MacPhail trả lời: "Tôi không biết".

Sau khi xem xét bằng chứng, Brewster muốn đưa Lea ra tòa án binh vì nhập cảnh trái phép vào
Hòa Lan với lý do giả và cố gắng liên lạc với kẻ thù. Tuy nhiên, cố vấn quân pháp Walter A. Bethel cho rằng không cần đưa Lea ra tòa án binh vì hành vi không nghiêm trọng. Tướng Pershing là người có tiếng nói cuối cùng và quyết định chỉ khiển trách nhóm của Lea.
Thời hậu chiến, Lea gặp nhiều rắc rối nghiêm trọng hơn. Ông sở hữu một số tờ báo ở Tennessee do một ngân hàng ở Bắc Carolina tài trợ. Khi ngân hàng phá sản, các nhà điều tra phát hiện Lea và con trai cả đã có hành vi gian lận. Lea ngồi tù tháng 5/1934 nhưng được ân xá hai năm sau đó. Ông qua đời năm 1945 ở tuổi 66.

Cuộc sống thời hậu chiến của Hoàng đế Wilhelm ít kịch tính hơn. Ông sống ở
Hòa Lan cho đến khi qua đời vào năm 1941 ở tuổi 82.
Còn chiếc gạt tàn đã được MacPhail tự hào trưng bày như một "món quà lưu niệm" trên bàn làm việc khi là giám đốc điều hành giải bóng chày Major League Baseball. MacPhail chết năm 1975, để lại chiếc gạt tàn cho một người cháu. Ngày nay, gần một thế kỷ sau khi bị lấy trộm, chiếc gạt tàn được cho là nằm trong một két sắt tại một ngân hàng ở Mỹ.

No comments:

Post a Comment