Ðặt chân tới Sài Gòn năm
1954, lúc ấy tôi là đứa bé 9 tuổi, theo gia đình từ miền Bắc di cư vào
miền Nam tự do. Ký ức của đứa bé 9 tuổi hẳn nhiên không thể ghi nhận
được gì nhiều; nhưng đứa bé lớn lên và sinh sống tại Sài Gòn từ thuở ấy
tới bây giờ, đã giúp tôi dễ dàng gợi dậy trong ký ức, ít nhất là những
hình ảnh đậm nét của Sài Gòn, 50 năm về trước.
Ấn tượng về Sài Gòn trong
tôi từ lúc ấy tới bây giờ cũng không phai nhạt bao nhiêu, dù đã hơn nửa
thế kỷ trôi qua. Ấn tượng sâu đậm, bởi Sài Gòn những ngày tháng ấy quá
mới lạ trong tâm trí tôi, đứa trẻ đã trải qua một đoạn đời ấu thơ tại Hà
Nội.
Ðiều đầu tiên tôi nhận biết
lúc ấy, tôi nói với cha tôi, là Sài Gòn có vẻ rất Tây so với Hà Nội..
Cha tôi bảo, bởi vì một trăm năm Pháp thuộc, Sài Gòn và miền Nam là
thuộc địa; trong khi Hà Nội của miền Bắc là bảo hộ.
Cha tôi làm thông ngôn trong
quân đội Liên Hiệp Pháp, dạy tiếng Pháp cho các con từ nhỏ; nên tôi nhớ
được rành rõ những tên Pháp ngữ đặt cho nhiều đường phố lớn của Sài Gòn
lúc ấy. Căn nhà đầu tiên của gia đình chúng tôi khi vào Sài Gòn ở đường
Bà Hạt, quận 10. Ðường Bà Hạt là đường phố nhỏ, một đoạn chạy ngang
đường phố lớn mang tên Tây, là Lacaze – tức đường Nguyễn Tri Phương.
Vài năm sau, Tổng Thống Ngô
Ðình Diệm cho thay thế tên Tây; vẫn giữ lại tên những danh nhân thế
giới, dù danh nhân ấy là người Pháp, như Calmette, Pasteur, Alexandre de
Rhodes… Những đường phố mang tên Tây, đa số là quan chức Pháp, được
thay thế, như: Bonard – Lê Lợi; Charner – Nguyễn Huệ; Galliéni – Trần
Hưng Ðạo; De la Grandrière – Gia Long; Catinat – Tự Do; Lacaze – Nguyễn
Tri Phương… Tuy nhiên, nhiều năm sau đó, dân Sài Gòn vẫn nói: Ði bát phố
Bô-na, Catinat; đi mua hàng ở thương xá Charner…, luôn là gọi tên Tây,
cho 3 đường phố đẹp bậc nhất của Sài Gòn.
Phố phường Sài Gòn lúc ấy đa
số là những con đường lớn rộng, dài dằng dặc. Và rất nhiều cổ thụ. Ðặc
biệt loại cây có tên rất bình dân là cây dái ngựa – tên khoa học là
Meliaceae – thân to nổi mấu gồ ghề, tỏa rộng cành lá, bóng mát ngợp
đường Lê Ðại Hành, trước mặt Trường Ðua Phú Thọ, quận 11. Hàng cây me
xanh mát mắt suốt con đường Gia Long, con đường có bệnh viện Grall do
người Pháp lập nên, giữa vườn cây rộng rinh. Rừng cao su bát ngát, chạy
dài theo con đường Nguyễn Văn Thoại, từ Trường Ðua Phú Thọ tới ngã tư
Bảy Hiền…
Năm tôi còn nhỏ tuổi, cha
vẫn dẫn đi chơi mỗi Chủ Nhật. Vào Vườn Ông Thượng, còn có tên Tây là
Bờ-rô, sau đó mới gọi tên là Vườn Tao Ðàn; dẫn đi chơi ở Sở Thú-Thị
Nghè… Cây trồng ở Sài Gòn phong phú là nhờ công sức của vị giám đốc Sở
Thú đầu tiên, người Pháp; ông từng là chuyên viên nghiên cứu về cây
trồng ở nhiều nơi trên thế giới; nhất là vùng nhiệt đới ở Phi Châu, có
nhiều loại cây thích hợp với thổ nhưỡng Sài Gòn. Những năm sau này, lớn
thêm vài tuổi, lại được anh cùng cho đi “bát phố Bô-na,” để thấy rõ Sài
Gòn quả là rất Tây; tôi tha hồ thưởng ngoạn vẻ đẹp “Paris” của nó.
Tản bộ trên đường Catinat,
từ nhà thờ Ðức Bà tới bến Bạch Ðằng, nhìn ngắm các cửa hiệu sang trọng
thời thượng dọc con phố. Và Passage Eden, rất nên gọi là “Hành Lang Ði
Bộ,” chính diện nhìn ra đường Catinat. Passage Eden gồm trong đó: bát
phố; xem chiếu phim – trong rạp Eden giữa lòng hành lang; mua sắm; ăn
kem uống cà phê ăn tối ở quán Givral liền bên… và để ngắm nhìn trai
thanh gái lịch, quý ông quý bà Sài Gòn, cũng ở trong đó.
Trai thanh – quý ông thì áo
sơ mi quần tây trắng lốp; mũ flechet; giày deux couleurs; đồng hồ quả
quít đeo ở dây lưng. Gái lịch – quý bà thì áo dài Lemur-Cát Tường không
thua phụ nữ Hà Nội, hoặc vận jupe như “bà đầm”; tay xách porte feuille,
chân đi guốc cao gót; tóc búi cao hoặc uốn dợn sóng, cổ đeo kiềng vàng…
Ra vào Passage Eden nhiều
lối, ưa thích ra vào lối nào cũng được. Anh tôi dẫn tôi vào lối cửa ở
đường Charner, rồi đi vòng qua Bonard, rồi ra cửa Catinat… Rồi chúng tôi
ghé hiệu sách Albert Portail – sau có tên là Xuân Thu – sát cạnh đó,
toàn là sách từ bên Tây đưa sang, tha hồ mà đọc mà ngắm.
Rồi với bạn học cùng lớp
cùng trường Chu Văn An, Trường-Trung-Học-Di-Chuyển-Bắc -Việt (có ghi ở
bảng hiệu của trường như vậy, vì trường cũng di cư từ Hà Nội vào Sài
Gòn) đi chơi và chụp ảnh lưu niệm Sài Gòn.
Bất cứ buổi sáng Chủ Nhật
nào, góc thân thuộc nhất, tập trung nhiều nhất các “bác phó nhòm,” chính
là quảng trường trước mặt quán Givral. Mái hiên cong kiều diễm của quán
Givral, và con đường Catinat thẳng tắp, với hai hàng cây hai bên chạy
dài ngút mắt, đã đi vào không biết bao nhiêu tấm ảnh lưu niệm Sài Gòn.
Hoặc những tấm ảnh của cả gia đình, lưu niệm ngày đi mua sắm ở thương xá
Charner; buổi dùng bữa cơm Tây ở một nhà hàng Pháp trên phố Bonard…
Những ngôi đền Ấn Ðộ giữa
lòng Sài Gòn lúc ấy, cũng đi vào ký ức của đứa bé miền Bắc di cư khá đậm
nét. Sao mà Sài Gòn nhiều đền đài của Ấn Giáo, với kiến trúc tinh tế kỳ
công đến thế. Những ngôi đền uy nghi tọa lạc ở các con đường Tôn Thất
Thiệp-Trương Ðịnh-Công Lý của quận 1, trung tâm Sài Gòn. Người Ấn Ðộ
sinh sống tại Sài Gòn khá đông, chỉ không nhiều bằng người Hoa, ở cả một
vùng Chợ Lớn. Tôi nghe dân Sài Gòn gọi họ là Chà Và. Sau này tôi mới
hiểu, Chà Và là đọc trại từ Java, gọi chung cho người Ấn Ðộ và người Mã
Lai; họ thường làm nghề mại bản, quản lý nhà đất, cho vay tiền, làm
trung gian giữa người Việt và người Pháp…
Ðường Tôn Thất Thiệp, vào
năm 1954 vẫn được xem là một tiểu Ấn Ðộ, với những ông Chà Và cho vay
tiền, chủ quán cà ri nị, mở tiệm kim hoàn. Những người Ấn Ðộ gốc ở
Bombay thường kinh doanh ngành vải; họ có nhiều cửa hiệu ở đường
Catinat, Bonard, Hàm Nghi, Galliéni, và chợ Bến Thành. Từ lâu trước đó,
cộng đồng người Ấn Ðộ ở quận 1 còn đông đảo hơn nhiều; đã có một đợt
người Ấn Ðộ rời Sài Gòn sang định cư tại Pháp, vào năm 1945.
Có lẽ cái mới lạ, và thấy
thân thương nhất, đối với người miền Bắc di cư vào Sài Gòn như tôi, là
những quán tiệm bình dân, tiệm Hoa kiều. Hai thứ quán tiệm này khá giống
nhau.. Buổi sáng tới quán, những ông già Sài Gòn đọc-nhựt-trình, nói
chuyện ưa chêm tiếng Pháp, xưng tôi là mỏa (moi); những bà già hút thuốc
điếu; những anh tài xe xích lô máy chở cả vợ con trong lòng xe rộng bè,
tới quán ăn hủ tíu uống cà phê, xong chở về nhà rồi mới đi chở khách.
Một thời gian trong năm 1954-55, khi có xài tiền 5 cắc bằng kim loại;
thì tại Sài Gòn, cứ việc lấy giấy bạc một đồng – có hình Nam Phương
hoàng hậu – mà xé làm hai, xài một nửa tương đương 5 cắc! Thật là thuận
tiện, đơn giản.
Người Sài Gòn-Nam Bộ không
cần thiết phải biết tên người mới quen; chỉ hỏi người này là con thứ mấy
trong gia đình, để kêu anh Hai, anh Ba… Thân thương biết mấy! Chuyện
trò với người Sài Gòn-Nam Bộ, câu chuyện của họ giản dị, rõ ràng, không
úp úp mở mở; không bắt người cùng trò chuyện với mình phải chịu đựng sự
vòng-vo-tam-quốc, sự rào trước đón sau, như rất nhiều người miền Bắc và
miền Trung, trong đó có dân di cư năm 1954 thường như vậy.
Nguyễn Ðạt
No comments:
Post a Comment