Một buổi trưa cuối tuần, quanh quẩn
trong khu Eden, khu chợ khang trang của người Việt vùng Northern
Virginia, vào giờ cao điểm tìm một chỗ đậu xe không phải là dễ dàng, cứ
chạy vòng quanh từ những con đường mang tên các tướng lãnh Việt Nam,
những người đã tuẫn tiết, đã tự kết liễu đời mình sau khi lệnh đầu hàng
được phát ra từ người lãnh đạo tối cao của Việt Nam Cộng Hòa. Nào Thiếu
tướng Nguyển Khoa Nam, nào Chuẩn tướng Trần Văn Hai, Chuẩn tướng Lê Văn
Hưng, nào Đại tá Hồ ngọc Cẩn… Tôi không bỏ qua cơ hội nói một chút Tiểu
sử của các Tướng lãnh anh hùng nầy cho các con tôi, những đứa trẻ sinh
trưởng tại đất nước nầy chỉ biết lõm bõm về lịch sử Việt Nam, và hầu như
không có chút hiểu biết gì về Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa.
- Tại sao phải tự tử? Sao cha không tự tử? Cha cũng là lính mà.
Tôi như ngẩn ngơ, tê dại, trí óc tôi như bị đông cứng sau câu hỏi ấy… và tôi không có câu trả lời cho đứa con trai nhỏ của tôi.
Trong mơ màng suy tưởng, trở về lại với những hình ảnh không bao giờ
quên được của những ngày cuối tháng 3 năm ấy (1975) tại cửa biển Thuận
An.
Theo chân đơn vị tôi, Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 147 TQLC di tản từ Phong
Điền, tôi trong nhóm người của Bộ Chỉ Huy nhẹ tạm trú trong chi khu
Hương Trà một ngày trước đó và hôm sau chúng tôi nhập theo dòng người di
tản xuôi nam về Đà Nẳng theo như kế hoạch, gặp lại Bộ Chỉ Huy tại Đập
Đá, một chút an tâm, không còn lo lắng nữa. Tâm trạng của một anh lính
mới tò te như gặp lại người thân sau thời gian thất lạc.
Lần mò cùng nhau trong một đêm trời tối như mực, lẳng lặng cùng đoàn
người bước nhanh chỉ nghe những tiếng động lụp cụp va chạm của khẩu súng
và dây ba chạc cùng tiếng sè sè thỉnh thoảng phát ra từ chiếc máy
truyền tin. Vững tâm đi bên cạnh Đại Bàng 416 vị Lữ Đoàn Phó của tôi.- Dừng lại! 416 khẽ ra lệnh.
Có tiếng máy nổ của xe tăng mỗi lúc mỗi rõ hơn, cảm giác sợ hãi chạy dài theo xương sống tôi, xe tăng của địch chận đường chăng?
416 một mình tiến về phía trước, vài phút sau ông trở lại và ngắn gọn nói:- Tiếp tục đi.
Thì ra đó là đơn vị bạn.
Rạng sáng hôm sau tất cả chúng tôi đã đến được bờ nam Cửa Thuận An
sau khi vượt phá, chiếc Duyên Vận Hạm 801 đang chờ đợi chúng tôi nhưng
vì tàu đậu quá xa bãi trong khi những ngọn sóng khá lớn khiến chúng tôi
không lên tàu được theo kế hoạch. Đại bàng Lâm Thao Đại Tá Nguyển Thế
Lương Lữ Đoàn Trưởng đang liên lạc tìm cách khác, sẽ có các LCU vào để
rước chúng tôi.Theo kế hoạch BCH Lữ Đoàn sẽ lên chuyến tàu thứ tư, bình
tĩnh và an tâm khi biết rõ ràng rằng khuya nay sẽ có tàu đón chúng tôi.
Ngồi xuống trên một triền đồi đầy những cội dương già nhìn ra biển xanh
mênh mông với những làn gió mát tôi đang thưởng thức cảnh đẹp của thiên
nhiên…
Hỗn loạn xảy ra, bắt đầu bằng sự xuất hiện của chiếc M113 chạy như
điên cuồng vào tuyến của Lữ Đoàn, địch quân đã rượt theo chúng tôi và đã
qua phà đang hướng về chúng tôi. Lệnh ban ra cho các tiểu đoàn bung xa
ra làm tuyến bảo vệ cho Lữ Đoàn và sau đó tiếng súng nổ dòn, tiếng nổ
của những viên đạn súng cối địch như rải đều trên đám đông chúng tôi.
Lần đầu tiên trong đời, tôi chứng kiến và kinh nghiệm những viên đạn
như xé gió, như ghim vào da thịt chúng tôi, lần đầu tiên trong đời, tôi
nhìn thấy những thân xác của con người bị hất tung lên cao và rơi xuống
bất động bởi những trái đạn súng cối 81 ly, lần đầu tiên trong đời, tôi
kinh nghiệm sự tàn phá của những quả đạn nổ tung mang theo thịt, da trộn
lẫn với máu tươi còn nóng hổi tung tóe vào mặt mũi của chúng tôi, như
là lần đầu tiên trong đời chứng kiến sự tàn phá và hủy diệt của chiến
tranh trước sự sống của con người.
Đêm xuống, những tiếng súng cùng các tiếng đạn súng cối cũng thưa
dần, không biết có phải trong các chiến trận khác khi đêm xuống khi mà
không còn ai nhìn thấy ai, khi mà không còn phân biệt bạn hay thù thì
không còn tiếng súng không? Hay tạm nghỉ ngơi để ngày mai đánh tiếp?Muốn nhắm mắt ngủ một giấc sau những giờ căng thẳng nhưng không tài nào làm được, cứ lo sợ vẩn vơ.
Tàu tới!!
Âm thanh động cơ của những con tàu tiếp rước chúng tôi nghe như dễ thương chi lạ, hình ảnh những khối sắt lù lù xuất hiện sau những lớp sương mù trong đêm khuya trên biển như đẹp đẽ làm sao!
Đại đội Quân Y lăng xăng, cùng các đơn vị khác như truyền tin, pháo binh lần lượt mang theo những người bị thương lên tàu và ra khơi.
Con tàu thứ hai xuất hiện, Đại bàng Lâm Thao Đại tá Nguyễn Thế Lương,
416 Trung tá Nguyễn Đăng Tống, Thiếu tá Nguyễn Văn Minh trưởng Ban 3,
Trung úy Châu trưởng ban 2 cùng Đại tá Thiệt Liên Đoàn trưởng liên đoàn
15 BĐQ, người chỉ huy một Liên Đoàn Biệt Động Quân mà bây giờ chỉ có mỗi
mình ông nhờ vào sự che chở của chúng tôi, cùng nhau sánh bước hướng về
con tàu đẹp đẽ nầy. Tôi nhớm mình như muốn theo chân Đại Bàng 416 nhưng
khi nhìn qua Đại úy Lương Văn Cường, Trưởng ban 5 vị Chỉ huy trực tiếp
của tôi thấy ông không có chút phản ứng làm tôi mất hứng, thôi chờ
chuyến kế tiếp và không bao giờ tôi nhìn thấy con tàu thứ tư như theo kế
hoạch.
Con tàu thứ 3 xuất hiện lệch một chút về hướng Bắc, ra ngoài khỏi
phạm vi phòng tuyến của Lữ Đoàn. Đây là con tàu định mệnh cho biết bao
nhiêu con người chúng tôi. Vào đến bờ, vì ngoài tuyến của Lữ Đoàn các
đơn vị khác nào Bộ Binh, nào Biệt Động Quân cùng TQLC tranh nhau lên
tàu, con tàu như không còn chứa đựng thêm nổi nữa vì đầy ắp những con
người như không còn chỗ trống nào, chưa kể không biết bao nhiêu người
đang bám víu vào chung quanh thành tàu.
Có thể vì sức nặng của biết bao nhiêu con người đã làm con tàu bị
kẹt, phía sau tàu như bê sang trái, rồi bê sang phải tạo dịp cho sức hút
của chân vịt tàu hút vào những thân thể đang lội xung quanh phía sau
tàu và tôi như thấy màu đỏ của máu đang loang dần…
Một tiếng nổ kinh hồn ngay giữa tàu nơi mà dầy đặc những con người,
dầy đặc những thân thể bằng thịt, bằng xương, không biết rằng có bao
nhiêu người bị chết hay bị thương sau tiếng nổ ấy, rồi những thân thể
còn có thể di chuyển được lại tranh nhau rời khỏi tàu.
Hỗn loạn tiếp diễn với những quả súng cối, B40 và những tràng AK bắn
vung vãi vào chúng tôi tại bờ biển chỉ hơn 3 km tập trung hàng ngàn
người chúng tôi chạy ngược về hướng bắc khi hướng đạn đang hướng về phía
nam nhiều hơn, rồi lại chạy trở lại hướng nam để tránh bớt hỏa lực tập
trung của địch. Chung quanh tôi không còn ai quen chỉ thấy toàn những
gương mặt lạ mà bảng tên với những màu sắc khác nhau, tôi biết đó là các
đơn vị đang thất lạc trong hoàn cảnh hỗn độn nầy. Miệng khát, thân mỏi,
cảm giác rã rời, trong hoang mang cùng tột tôi cứ theo đoàn người khi
ngược bắc khi xuôi nam, khi chạy nhanh, khi lê lết với những bước chân
vô định, khi len lỏi sâu vào trong đám đông với hy vọng sẽ có những thân
người che chở cho mình từ phía ngoài, khi thẫn thờ lê những bước chân
mệt nhọc, thôi mọi chuyện phú cho Trời…
Trong vòng thời gian của ngược xuôi, xuôi ngược ấy có rất nhiều hình
ảnh đậm nét khó quên, nhiều hình ảnh thật bi thương, não nề của những
người lính chiến, họ đang góp nhặt những viên đạn, những băng đạn, những
trái lựu đạn vương vãi đâu đây, họ đang quải trên vai vài dây ba chạc
và mỗi người với một nón sắt trên tay chứa đựng những viên đạn, băng đạn
mà họ có thể tìm để mang về đơn vị mình để tiếp tục chiến đấu bảo vệ
cho chúng tôi, những người đằng sau chiến tuyến.- Anh Đống… Tôi mừng rỡ kêu lên khi thấy Trung Sĩ Nhất Đống của ban 4 đang một mình với cây đại liên 50 mà đã được tháo gỡ từ chiếc M113. Trên bờ cát một mình anh đang bắn cầm chừng như bảo vệ cho đoàn người đang chạy tới chạy lui như tôi.
- Ở đây với tao mậy, chạy chi cho mệt.
Nhìn nét mặt không một chút lo âu của anh tôi cảm thấy an tâm hơn nhiều.
- Được, tôi trả lời vỏn vẹn.
- Mầy ở đây nghe, bắn về đằng cái miểu đó, vừa nói vừa chỉ về những
bóng dáng khi ẩn khi hiện chung quanh cái miếu xa xa, tao đi kiếm cái
nón sắt, lạnh ót quá mậy…
Bắn cầm chừng về phía những bóng người xung quanh miểu khi mà dây đạn
cuối cùng cũng không còn bao nhiêu, vừa chờ đợi anh Đống trở lại, một
hồi lâu không thấy, nhớ lại tôi cũng không có cái nón sắt trên đầu, cảm
thấy phía sau ót lạnh dần, cảm giác lành lạnh nầy lan dần đến chân, mới
hiểu được “lạnh ót” và “lạnh cẳng “là như thế nào”.
Đêm dần xuống, lại nhập vào dòng người về chạy về hướng Nam, khi
chạy, khi dừng, khi đi, khi ngồi nghỉ cho đến khi đoàn người bị khựng
lại vì địch quân đã tràn ra và chận bắt chúng tôi. Cảm giác thật lạ
lùng, như có được một kết thúc cho tâm trạng hoang mang mấy ngày nay,
cho dù thế nào đi nửa đó có phải là một kết thúc?
Nhớ lại đoạn cuối của cuốn sách Tháng Ba Gãy Súng, Cao Xuân Huy viết:
“... Lại có rất nhiều người tự tử Bây giờ họ không tự tử từng người
mà họ tự tử tập thể. Không rủ, không hẹn và hầu như họ đều không quen
biết nhau trước hoặc có quen biết đi nữa, bạn bè đi nữa họ cũng không
thể nhận ra nhau trước khi cùng chết với nhau một lúc. Dòng người chúng
tôi đang chạy, một người tách ra ngồi lại trên cát, một người khác cũng
tách dòng người ra ngồi chung, người thứ ba, người thứ tư người thứ năm
nhập bọn, họ ngồi với nhau thành một vòng tròn nhỏ, một quả lựu đạn nổ
bung ở giữa.
Tôi không thể đếm nổi là đã có bao nhiêu quả lựu đạn đã nổ ở giữa vòng tròn người như vậy. Nhiều, thật nhiều quả lựu đạn đã nổ.”Đây không phải là hình ảnh của hư cấu mà là những hình ảnh thật, rất thật, đây không phải là những hình ảnh của tưởng tượng để thêm phần bi thảm cho câu chuyện của Anh mà là hình ảnh bi thương và hào hùng của những anh hùng vô danh mũ xanh còn được gọi là lính trừ bị Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam.
- Tự tử hôn mậy?
Lời đề nghị nghe kỳ cục làm sao! lạ lùng làm sao!Tôi như ngẩn ngơ, ngơ ngẩn, thẫn thờ, thờ thẫn, không biết phải diễn tả một cách thật chính xác cho tâm trạng của mình ngay thời điểm đặc biệt nầy.
“Thủy Quân Lục Chiến thà chết không hàng”
Sau câu nói đồng loạt nầy, lựu đạn nổ… màn khói tan nhanh để thấy rõ những xác người trong tư thế cúi gập người lại với nhau, những mái đầu xanh như chụm lại với nhau, cũng có xác bị xô lệch khỏi trật tự nầy, toàn những khuôn mặt như thật trẻ trung chỉ trong khoảng vừa trên 20, lứa tuổi của tôi.
Tôi như ngây dại, thẫn thờ trước hình ảnh bi thương đầy hùng tráng
nầy, tôi như không có một chút gì của lý lẽ, hay một chút nguyên nhân
nào để giải thích cho câu hỏi trong đầu tôi lúc ấy. Tại sao như vậy?
Cho đến bây giờ cũng thế, tôi cũng không biết phải giải thích như thế
nào cho mọi người hiểu được tại sao, vì tôi nghĩ rằng chỉ có những
người đã từng một lần mặc lấy bộ đồ sọc rằn với phù hiêu TQLC trên vai
mới hiểu được là tại sao! Vì đó là truyền thống TQLC Việt Nam.
Lịch sử có ghi lại những cái chết như thế nầy không?Chúng ta có biết nhiều về những câu chuyện như thế đó không?
Họ là ai?
Tôi là người trong tình cờ cạnh bên họ trong chính giây phút đó mà vẫn không biết họ là ai?
Chỉ biết rằng họ là những anh hùng mũ xanh cùng cái chết thầm lặng.
Những ai đã chết vì Sông Núi
Sẽ sống muôn đời với Núi Sông!
Mũ Xanh Huỳnh Thừa Dũng
No comments:
Post a Comment