Trong một bài viết trên báo Gíao dục Việt Nam (GDVN) ngày
31/08/2017, Nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ Cộng sản Việt Nam
(CSVN), Tiến sĩ Trần Công Trục viết rằng:”Chính phủ Cách mạng lâm thời
Cộng hòa miền Nam Việt Nam là chính phủ hợp pháp được ra đời từ thắng
lợi của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng nhân
dân Cách mạnh niền Nam Việt Nam và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam
Việt Nam.
Thắng lợi của đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân
dân miền Nam Việt Nam là đã lật đổ chính thể Việt Nam Cộng hòa, và lập
ra một cách hợp pháp Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt
Nam.
Tính chính danh của chính thể Việt Nam Cộng hòa về mặt đối
nội và đối ngoại đã bị xóa bỏ hoàn toàn ngay sau khi Tổng thống Việt
Nam Cộng hòa Dương Văn Minh đọc tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, ngày
30/4/1975.”
Nhưng điều được gọi là “thắng lợi” ấy từ đâu mà có ?
Chính phủ và quân độị của nhà nước Cộng sản đội lốt “Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa” ở miền Bắc đã đóng vai trò gì trong “thắng lợi” này. Và liệu
tổ chức gọi là “Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam” và “Chính
phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam” có thể làm nên cơm
cháo gì nếu không có quân miền Bắc xâm lược miền Nam ?
Vì vậy nếu
chỉ nói mà không nói cho hết ngọn nguồn của những Tổ chức hữu danh vô
thực như : Đảng nhân dân Cách mạnh niền Nam Việt Nam; Mặt trận Dân tộc
Giải phóng miền Nam Việt Nam (và) Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa
miền Nam Việt Nam thì lịch sử sẽ thành ngụy sử.
THẾ NÀO LÀ BÙ NHÌN, TAY SAI ?
Vậy trước hết hãy thử tìm hiểu thế nào là bù nhìn, là tay sai ?
Ta
hãy cùng nghe ông Phó Giáo sư Tiến sĩ Trần Đức Cường, nguyên Viện
trưởng Viện sử học, hiện là Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, đồng
thời là tổng chủ biên bộ sách Lịch sử Việt Nam mới phát hành ngày
18-8-2017, giải thích tại sao “các nhà sử học “ của đảng CSVN đã “thống
nhất bỏ tên gọi ngụy quyền đối với chế độ Việt Nam Cộng Hòa”
Ông
nói:”Bản chất chính quyền Sài Gòn và quân đội Sài Gòn theo chúng tôi
không có gì thay đổi cả. Đấy là một chính quyền được dựng lên từ đô la
và vũ khí, thực hiện chiến lược toàn cầu của Mỹ, ngăn chặn chủ nghĩa
Cộng Sản lan xuống vùng Đông Nam Á, đồng thời chia cắt đất nước Việt Nam
một cách lâu dài, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân
sự của Mỹ. Điều đó không có gì nghi ngờ cả".
"Thứ hai, quân đội
Sài Gòn thực chất được Mỹ trang bị hoàn toàn và quan trọng hơn là thực
hiện mưu đồ của Mỹ. Đó cũng là một đội quân đi đánh thuê. Thực chất các
nhà sử học không có một đánh giá nào khác so với thời gian trước đây".
"Nhưng
về cách gọi, chúng tôi nghĩ rằng trong một văn bản khoa học, mình gọi
trung tính vẫn hơn là ngụy quân, ngụy quyền. Bởi vì cách gọi này mang
tính biểu cảm, miệt thị cho nên chúng tôi gọi là quân đội Sài Gòn và
chính quyền Sài Gòn". (Lan Hương, RFA, 21/08/2017)
Lời nói sặc
mùi kỳ thị, chủ quan và xuyên tạc của ông Cường đã lột mặt gỉa tạo được
gọi là “trung tính” khi bỏ lối gọi xách mé, thù hận và mặc cảm “ngụy
quân, ngụy quyền” bằng “quân đội Sài Gòn và chính quyền Sài Gòn”.
Ông Cường cũng đã trắng trợn xuyên tạc vì Mỹ không biến miền Nam thành một “thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ”.
Và
Quân đội Việt Nam Cộng hòa chưa hề là “một đội quân đi đánh thuê” cho
bất cứ ai. Có chăng là khi VNCH bị miền Bắc xâm lược thì được Hoa Kỳ và
các nước Đồng mình giúp để chiến đấu tự vệ chống lại cuộc xâm lăng không
thể chối cãi được của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Nếu vẫn còn
nghi ngờ thì ông Phó Giáo sư Tiến sĩ Trần Đức Cường và các nhà viết sử
Cộng sản hãy đến khấn vái trước di ảnh nguyên Tổng Bí thư Lê Duẩn để
nghe ông nói:”Ta đánh Mỹ là đánh cả cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc,
cho các nước xã hội chủ nghĩa và cho cả nhân loại, đánh cho cả bọn xét
lại đang đâm vào lưng ta.” (Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày, Nhà xuất
bản. Văn Nghệ, 1997, tr. 422)
Như vậy thì lịch sử đã nói rõ “ai là kẻ đánh thuê”, phải không ?
Tại
sao như thế ? Bởi vì tất cả những tổ chức mang tên “miền Nam Việt Nam”
không hòan toàn do người miền Nam chủ động mà lại do những người Cộng
sản nằm trong đảng Lao Động Việt Nam (Cộng sản) , công khai thành lập và
chỉ huy.
Tên gọi đảng Lao Động Việt Nam, được sử dụng từ tháng 2
năm 1951 tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II ở Tuyên Quang, vì nhu
cầu chính trị để sửa sai những lỗi lầm khi còn mang tên Cộng sản Việt
Nam do Hồ Chí Minh thành lập ngày 3 tháng 2 năm 1930.
Sau đó tại
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, được tổ chức vào năm 1976 sau khi
chấm dứt Chiến tranh , tên Đảng lại được đổi lại thành Đảng Cộng sản
Việt Nam.
NGUỒN GỐC KHUẤY PHÁ TRONG NAM
Để chứng
minh cho tham vọng gây chiến, phá hoại Việt Nam Cộng hòa của ông Hồ và
đảng CSVN, tài liệu Bách kha toàn thư mở viết:”Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ III được tổ chức tại Hà Nội vào năm 1960 chính thức hóa công
cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa tại miền Bắc, tức Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa lúc đó và đồng thời tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tại
miền Nam. Tại miền Nam, đảng bộ Miền Nam năm 1962 công khai lấy tên
Đảng Nhân dân cách mạng Miền Nam, là thành viên và lãnh đạo Mặt trận Dân
tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam , tuyên truyền chủ nghĩa Marx - Lenin
(thành phần Mặt trận còn có Đảng Dân chủ, và Đảng Xã hội cấp tiến và các
tổ chức,... do những người cộng sản chủ trương thành lập).”
Nghị
quyết của Đại hội III của Đảng Lao động Việt Nam,từ ngày 5 - 10/9/1960
đã viết :”Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện tại có hai nhiệm vụ
chiến lược:
“Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
Hai
là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay
sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong
cả nước.
Hai nhiệm vụ chiến lược ấy có quan hệ mật thiết với nhau và có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau.
Đưa
miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội là một nhiệm vụ tất yếu sau khi đã
hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đưa miền Bắc tiến lên chủ
nghĩa xã hội, làm cho miền Bắc được ngày càng vững mạnh về mọi mặt thì
càng có lợi cho cách mạng giải phóng miền Nam, cho sự phát triển của
cách mạng trong cả nước, cho việc gìn giữ và củng cố hòa bình ở Đông
Dương, Đông - Nam á và thế giới.
Vì vậy, tiến hành cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự
phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam, đối với sự nghiệp thống nhất
nước nhà. Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc tiến hành trong khi
ở miền Nam phải ra sức tập hợp mọi lực lượng dân tộc và dân chủ, mở
rộng và củng cố khối đoàn kết dân tộc, cô lập đế quốc Mỹ và bọn tay sai
của chúng, thúc đẩy sự nghiệp đấu tranh củng cố hòa bình, thống nhất Tổ
quốc. Vì vậy phương châm tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc
là: xây dựng miền Bắc, chiếu cố miền Nam.”
Sau Đại hội đảng III, theo tài liệu Bách khoa toàn thư mở thì:”
Mặt
trận Dân tộc Giải phóng miền Nam được chính thức thành lập vào ngày 20
tháng 12 năm 1960 tại xã Tân Lập, huyện Châu Thành (nay là Tân Biên)
trong vùng căn cứ của mình ở tỉnh Tây Ninh, với thành phần chủ chốt là
lực lượng Việt Minh (Việt Nam độc lập đồng minh (tên chính thức trong
nghị quyết Hội nghị lần thứ VIII Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Đông Dương ) hoạt động bí mật ở miền Nam. Lãnh đạo ban đầu là Võ Chí
Công, Phùng Văn Cung, Huỳnh Tấn Phát. Huỳnh Tấn Phát giữ chức vụ Phó Chủ
tịch kiêm Tổng thư ký Ủy ban Trung ương.”
Sau đó, tại tại Đại
hội lần thứ nhất khai mạc ngày 16 tháng 2 năm 1962 tại Tân Biên (Tây
Ninh) chính thức bầu Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ tịch.
Tuy nhiên ai cũng biết Tổ chức này được thành lập dưới sự hậu thuẫn của chính phủ và quân đội Cộng sản Việt Nam.
Vì
vậy, các tài liệu phổ biến trên Internet đã viết:”Mặt trận đặt dưới sự
lãnh đạo của Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam và Trung ương Cục miền
Nam. Những người Cộng sản miền Nam hoạt động dưới danh nghĩa Đảng Nhân
dân cách mạng Việt Nam, hoạt động công khai và là thành viên tham gia
Mặt trận. Trung ương Cục Miền Nam là tổ chức đại diện Đảng Lao động
trong Nam, hoạt động bí mật (đến 1969 công khai), thời kỳ chiến tranh
không công khai về vai trò chỉ đạo (trong khi Đảng Nhân dân Cách mạng là
đảng hoạt động công khai), trực tiếp chỉ đạo hay phối hợp với Trung
ương Mặt trận - Chính phủ, với Ban dân vận Trung ương Cục (phụ trách dân
vận - mặt trận - chính quyền) là cầu nối. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đặt
đại diện tại căn cứ địa của Mặt trận (và Chính phủ cách mạng sau này),
và Mặt trận (Chính phủ cách mạng lâm thời) đặt đại diện tại Hà Nội.”
Tài
liệu viết tiếp:”Từ ngày 6 đến ngày 8 tháng 6 năm 1969, Đại hội Đại biểu
Quốc dân miền Nam Việt Nam, mà Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam
Việt Nam là nòng cốt, cùng với Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ
và hòa bình Việt Nam do Luật sư Trịnh Đình Thảo làm chủ tịch, đã bầu ra
Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam do kiến trúc sư
Huỳnh Tấn Phát làm Chủ tịch, và Hội đồng Cố vấn Chính phủ do Luật sư
Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ tịch.”
Vậy cái chính phủ này quan hệ với miền Bắc như thế nào ?
Bách
khoa toàn thư mở viết:”Trong quan hệ với Việt Nam Dân chủ cộng hòa,
Cộng hòa Miền Nam Việt Nam khẳng định chủ quyền ở miền nam Việt Nam,
nhưng không từ chối các tuyên bố về chủ quyền cả nước của Việt Nam Dân
chủ cộng hòa (tình trạng một quốc gia nhiều nhà nước-mô hình liên bang).
Hai miền lập đại diện. Về phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, công nhận
Cộng hòa Miền Nam Việt Nam là chính quyền hợp pháp ở Miền Nam Việt Nam,
do đó các văn kiện của nhà nước này có lúc khẳng định có hai chính thể
độc lập nhau, nhưng có lúc vẫn khẳng định Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là
của cả nước, Cộng hòa Miền Nam Việt Nam có chủ quyền tại Miền Nam.”
Tài liệu cũng viết rõ:”Ngày nay Nhà nước Việt Nam khẳng định Mặt trận
Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, cũng như các mặt trận trước đó và
sau này là các tổ chức chính trị - xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam, thực hiện các nhiệm vụ đoàn kết toàn dân dưới lá cờ của
Đảng Cộng sản Việt Nam để đạt mục tiêu chính trị do Đảng đề ra.”
Về
những nhân vật Mặt trận GPMN được miền Bắc dựng lên, đáng kể hơn là là
Luật sư Nguyễn Hữu Thọ (1910-1996), Chủ tịch Mặt trận Giải phóng miền
Nam. Trước khi qua đời, ông được đảng CSVN cho giữ chức Phó Chủ tịch
nước rồi Chủ tịch Quốc hội.
Người thứ hai là Kỹ sư Huỳnh Tấn Phát
(1913-1989), nguyên Chủ tịch Chính phủ gọi là Cách mạng Lâm thời Cộng
hòa miền Nam Việt Nam đã được bí mật kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông
Dương ngày 5 tháng 3 năm 1945.
Người thứ ba là bà nguyên Bộ
trưởng Ngọai giao của Chính phủ Việt Cộng Nguyễn Thị Bình (sinh năm
1927), được kết nạp Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1948 vì vậy bà được
trao Huy chương 70 năm tuổi đàng ngày 31/08/2017.
Ngoài ba nhân
vật chóp bu này, nhiều trí thức miền Nam theo Việt Cộng đã quay ra chống
đảng CSVN sau khi chiến tranh kết thúc. Nổi bật nhất là Luật sư Trương
Như Tảng , nguyên Bộ trưởng Tư pháp trong Chính phủ Huỳnh Tấn Phát.
Nhưng
về sau, ông Tảng (sinh ngày 19/05/1923) công khai bất đồng với Chính
quyền Cộng sản vì không thi hành chính sách hòa giải hòa hợp dân tộc sau
1975.
Ngày 25 tháng 8 năm 1978, Trương Như Tảng xuống thuyền
vượt biển và hơn một tuần sau thì được một tàu hàng Singapore chở tới
đảo Galang, thuộc Indonesia. Sau này ông sinh sống ở Pháp.
Trong
hồi ký viết bằng tiếng Pháp, Mémoire d'un Vietcong (Hồi ký của một Việt
Cộng), ông đã tố cáo chính sách cai tri hà khắc của đảng CSVN đối với
“những người miền Nam thua trận”.
Người thứ hai phải kể là cựu chiến binh Nguyễn Hộ (1916-2009) trong Mặt trận Giải phóng miền Nam.
Theo
Bách khoa Tòan thư mở thì:”Ông là một trong số lãnh đạo hàng đầu của
“Câu lạc bộ Những người Kháng chiến cũ” cùng với các ông La Văn Lâm, Đỗ
Trung Hiếu, Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng, Tạ Bá Tòng và thượng tướng
Trần Nam Trung. Tờ báo Truyền thống Kháng chiến của nhóm này ra mắt số
đầu tiên vào tháng 9 năm 1988 nhưng sau đó vì quan điểm bị cho là chỉ
trích chính quyền nên báo buộc phải đình bản. Tổ chức này năm 1989 cũng
bị chính quyền giải tán.
Bất bình, ông từ bỏ Đảng năm 1991 sau hơn 53 năm trong đảng. Sau đó ông bị bắt và quản thúc tại gia vì tội "chống Đảng".
Từ
đó ông càng phản đối mãnh liệt hơn qua những văn bản như bài luận "Giải
pháp Hòa hợp Hòa giải" và cuốn sách “Quan điểm và cuộc sống”. Sách của
ông kêu gọi Đảng Cộng sản Việt Nam hãy từ bỏ Chủ nghĩa Marx-Lenin. Cũng
vì quan điểm của ông mà ông bị nhà chức trách bắt lần thứ hai năm 1994.
Theo ông Việt Nam ở thời điểm năm 2008 chỉ có độc lập chứ không có tự
do.”
Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (Human Rights Watch) đã trao ông giải thưởng Hammett-Hellman (Giải Tự do Phát biểu).
Ông mất ngày 2 tháng 7 năm 2009, thọ 93 tuổi.
Cũng
không nên quên, khi giao chiến ở miền Nam, các đơn vị quân miền Bắc đều
treo cờ Mặt Trận Giái Phóng miền Nam ở những vùng đất tạm chiếm để
tuyên truyền bịp bợm, hay trên cây ăng ten của xe Tăng để diễu hành phô
trương. Tiêu biểu cho hình ảnh này là chiếc xe tăng của quân đội miền
Bắc húc đổ cổng Dinh Độc Lập ngày 30/4/1975.
Như vậy rõ ràng
những gì mà sách báo của nhà nước CSVN viết về Tổ chức MTGPMN, hay Chính
phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (CMLTCHMNVN) cũng cần
phải “giảo nghiệm” xem chúng đã phản ảnh được bao nhiêu phần trăm “bù
nhìn” và “tay sai” cho đảng và quân đội CSVN.
Nếu cứ nhắm mắt nói bừa cho cái chính danh gỉa tạo thì lịch sử sẽ thành “nát sử”. -/-
Phạm Trần
(09/017)