Ngày 1 tháng 11 năm 1919, Anh đã thành lập cơ quan tình báo vô tuyến điện tử có tên gọi là Trường Mật mã và Cơ yếu Chính phủ (Goverment Code and Cypher School – GCCS) trong cục tình báo hải quân của Bộ Hải quân Anh và đặt dưới quyền chỉ huy của cục trưởng cục này.
Trong cục tình báo hải quân của Bộ Hải quân
Anh và dưới sự lãnh đạo của cục trưởng cục này, ngày 1 tháng 11 năm
1919, Anh đã thành lập cơ quan tình báo vô tuyến điện tử có tên gọi là
Trường Mật mã và Cơ yếu Chính phủ (Goverment Code and Cypher School –
GCCS). Trường này chịu trách nhiệm lập ra các hệ mã cho các bộ ngành của
Anh, cũng như đào tạo và cung cấp việc làm cho những nhân viên có trình
độ có thể sử dụng tốt trên thực tế các hệ mã của mình và giải phá các
hệ mã của nước ngoài. Dưới cái tên này, cơ quan tình báo vô tuyến điện
tử Anh đã tồn tại cho đến năm 1939, ngay đầu chiến tranh thế giới thứ
II, nó đã được đổi biển hiệu và được gọi là Trung tâm Thông tin Liên lạc
chính phủ GCHQ (Goverment Communications Headquarters).
Người được cử làm trưởng phòng Nga của GCCS là Ernest Fetterlein, có
biệt danh là Fetty, một người Nga lưu vong. Náu mình trên boong một
chiếc tàu Thuỵ Điển và thoát trót lọt khỏi sự lục soát, ông ta đã chạy
trốn được cùng vợ sang Anh. Theo lời Fetterlein, ông ta là chuyên gia
hàng đầu trong lĩnh vực mật mã ở nước Nga sa hoàng và có cấp hàm đô đốc.
Đồng nghiệp của ông ta ở GCCS thừa nhận Fatty là người xuất sắc nhất
trong giải phá các mật mã công việc đòi hỏi kiến thức rất rộng.Trên ngón trỏ tay trái của Fetterlein có đeo chiếc nhẫn gắn viên đá rubi lớn. Với những người tò mò đối với viên đá quý khác thường, ông ta sẵn lòng và tự hào kể rằng, chiếc nhẫn này đã được ban tặng cho ông ta theo thánh chỉ để khen thưởng công lao, thành tích phục vụ sa hoàng Nga cuối cùng Nikolai Aleksandrovich. Fatty nói tiếng Anh với giọng Nga đặc sệt. Ông ta học tiếng Anh chủ yếu bằng cách đọc những cuốn sách trinh thám rẻ tiền. Đôi khi Fetterlein làm vui đồng nghiệp của mình ở GCCS bằng những lời nói lạ tai với một người Anh có giáo dục như “Ai đã quét chiếc bút chì của tôi rồi?” hay “Đúng, anh ta đơn thuần đúng là một tên chỉ điểm!”.
Fetterlein ít khi nhớ lại nước Nga trước cách mạng. Nhưng đôi khi đồng nghiệp cũng làm ông ta cởi mở khi nói cái gì đó để được nghe ông ta phản đối. Chẳng hạn, đáp lại câu hỏi: “Thực tế là, thưa ngài Fetterlein, sa hoàng Nga là người có thể chất rất khoẻ phải không hạ?” – họ nghe thấy câu trả lời phẫn nộ: “Sa hoàng là thứ giẻ rách, không có lấy một ý tưởng trong đầu, còm cõi và bị tất cả khinh bỉ”. Điều đó không hề cản trở Fetterlein tự hào trưng ra cho mọi người xem phần thưởng của sa hoàng.
Chính phủ nước Nga Xô-viết không chịu sử dụng phần lớn các mật mã của “chế độ cũ” do chúng phức tạp và cồng kềnh. Có lẽ để phòng bất trắc vì người ta đoán Fetterlein là tác giả một số loại mã đó. Để thay thế các hệ mã được kế thừa từ chế độ sa hoàng đáng “nguyền rủa”, chính phủ Xô-viết bắt đầu sử dụng các loại mật mã mới yếu kém để bảo mật điện tín ngoại giao của mình. Chúng đã dễ dàng bị Fetterlein giải phá.
Điều người Anh rất quan tâm là điện tín ngoại giao của chính phủ Bôn-sê-vich ở Moskva với vùng Cận Đông chặn thu và giải mã được, qua đó, theo người Anh, cho thấy chính phủ Nga Xô-viết đang tài trợ cho phong trào đối lập ở thuộc địa ấn Độ. Những tuyên bố chính thức của chính quyền Xô-viết khác xa nội dung bức điện mật mã này đến mức chính phủ Lloyd George đã quyết định công bố nó trên báo chí với tính toán là bằng cách đó sẽ buộc Moskva không bao giờ còn can thiệp vào công việc nội bộ của Anh nữa.
Đại diện duy nhất của nước Nga Xô-viết ở Anh khi đó là phái bộ thương mại Xô-viết. Điện tín mật mã giữa Moskva và phái bộ thương mại ở London mà người Anh đọc được cho thấy phong trào công nhân Anh, nhất là các phần tử cực đoan của phong trào này, được tài trợ thông qua phái bộ thương mại ở London.
Đóng vai trò quan trọng trong quyết định công bố nội dung điện tín ngoại giao của Liên Xô trong thời gian các cuộc đàm phán thương mại Anh-Xô là ý muốn của Lloyd George đẩy chính phủ Bôn-sê-vich lâm vào tình thế khó khăn khi chính phủ Xô-viết không hề e ngại về từ ngữ để chỉ đạo các thành viên của phái đoàn thương mại. Chẳng hạn, ngay vào đầu các cuộc đàm phán vào tháng 6 năm 1920, Lenin đã viết cho phó trưởng đoàn Krasin: “Con lợn Lloyd George này sẽ sẵn sàng lừa đảo mà không hề xấu hổ hay ngờ vực. Đừng tin lấy một lời của gã và hãy đánh lừa y ba lần hơn nữa”. Lloyd George rõ ràng muốn trả thù vì sự sỉ nhục này.
Ngày 17 tháng 8 năm 1921, tờ báo London Times đã đăng một bài báo tố cáo tờ báo Anh khác là Daily Herald đã nhận tiền của chính phủ Liên Xô. Tờ Times đã trích đăng bản rõ của 8 bức điện mật mã của Liên Xô mà chính phủ Anh đã chặn thu được. Bằng cách đó, tờ Times đã vi phạm cam kết của mình: chính phủ Anh chuyển tài liệu này cho Times với điều kiện tờ báo sẽ nói là đã nhận được nó từ một nước trung lập. Khi cho phép đăng tài liệu này, nội các Anh toan tính rằng, chính phủ Liên Xô sẽ nghĩ tin tức bị rò rỉ sau khi các bức điện đã được giải mã.
N.K. Klyshko, tổ trưởng tình báo VChK (tiền thân của KGB) của Liên Xô, hoạt động trong thành phần phái bộ thương mại ở London, là người chẳng mấy hiểu dù là những điều sơ đẳng về mật mã. Hoặc ông đã lơ đễnh khi đọc tờ Times ngày 17 tháng 8, hoặc ông đã nghĩ loại mã duy nhất dùng để giải mã các bức điện mà bản rõ đã được tờ Times đăng tải đã bị giải phá, nhưng dù sao chăng nữa, Klyshko vẫn tiếp tục nhận định sai lầm rằng, các mật mã của Liên Xô vẫn vững chắc. Ông ta không lên tiếng báo động và tiếp sau ông ta, chính phủ Xô-viết cũng làm ra vẻ chẳng có gì xảy ra cả. Sự ầm ĩ trên báo chí tiếp diễn cho đến tháng 9 khi có những phát giác mới về việc Nhà nước Xô-viết bí mật tài trợ phong trào công nhân Anh “lọt” lên mặt báo.
Không thể nói rằng, các nhà lãnh đạo cơ quan đối ngoại của Liên Xô – Bộ Dân uỷ Ngoại giao đã không báo cáo cho chính phủ về tình trạng kém cỏi của cơ quan cơ yếu của bộ mình. Ngày 20 tháng 8 năm 1920, Uỷ viên Dân uỷ ngoại giao Chicherin đã viết báo cáo gửi Lenin: “Các chính phủ nước ngoài có những loại mật mã phức tạp hơn các mật mã chúng ta đang dùng. Do đó, tôi nghĩ việc các bức điện mật mã của chúng ta bị giải mã là hoàn toàn có thể”. Tuy nhiên, không phải ai cũng tán đồng ý kiến của Chicherin, người đã coi nguyên nhân rò rỉ thông tin là vì một số mật mã đang dùng không vững chắc, trong khi các chuyên gia thiết kế các mật mã khác thì sau cách mạng lại chạy ra nước ngoài. Còn đây là bức thư của Krasin gửi Lenin: “Ngay từ tháng 5, khi tôi ở Copenhagen, theo một số dấu hiệu, tôi bắt đầu ngờ rằng, không phải mọi chuyện đều ổn với liên lạc cơ yếu của Bộ Dân uỷ Ngoại giao. Tại Anh, những ngờ vực của tôi đã được củng cố và trong lần về Moskva sau đó, tôi đã lưu ý đồng chí Chicherin cần thanh lọc tận gốc ở bộ phận liên quan… Vấn đề không phải là mật mã hoặc khoá mã bị bẻ mà là ở chỗ sự bất hạnh ở Bộ Dân uỷ Ngoại giao có thể nói là tuyệt đối và cần phải điều trị nó một cách triệt để”. Lenin đã chú ý tới những thông báo này. Ngày 25 tháng 11 năm 1920, ông viết: “Đồng chí Chiecherin! Không được thờ ơ với việc kiểm soát nghiêm ngặt (cả bên ngoài lẫn bên trong) đối với các loại mật mã. Nhất định đồng chí phải viết cho tôi khi mọi biện pháp được áp dụng. Một việc cần làm nữa: phải quy định cho mỗi đại sứ một loại mật mã đặc biệt nghiêm ngặt để mã điện tín cá nhân, tức là ở đây người mã sẽ là một đồng chí cực kỳ tin tưởng, một đảng viên cộng sản (có thể tốt nhất là thuộc Uỷ ban Trung ương), còn ở đầu kia đích thân đại sứ (hoặc “điệp viên”) phải mã hoặc giải mã chứ không được phép giao cho các thư ký hay nhân viên cơ yếu”.
Người đầu tiên nhận thức đầy đủ mức độ lộ bí mật của các hệ mã Liên Xô là Mikhail Vasilevich Frunze, Tổng tư lệnh Cụm quân phía nam của Hồng Quân. Ngày 19 tháng 12 năm 1921, Frunze đã báo cáo về Moskva: “Qua báo cáo của cựu đài trưởng đài vô tuyến điện của bọn Vrangel là Yamchenko trình cho tôi ngày hôm nay, đã xác định được rằng, tất cả các mật mã của ta do quá thô sơ đang bị kẻ thù của chúng ta giải phá. Toàn bộ nội dung liên lạc vô tuyến điện của chúng ta đang là phương tiện định hướng tuyệt vời cho địch. Nhờ quan hệ gắn bó với phòng cơ yếu hạm đội của Vrangel, Yamchenko đã có điều kiện đích thân đọc một loạt các bức điện mật mã tác chiến và ngoại giao bí mật nhất của ta, trong đó điện tín tuyệt mật liên lạc giữa Bộ Dân uỷ Ngoại giao với các cơ quan đại diện của mình ở châu Âu và ở Tashkent đã bị người Anh biết đến từng từ, họ đã tổ chức riêng cả một mạng lưới đài vô tuyến điện đặc biệt để chặn thu vô tuyến điện đối với Liên Xô. Với những mật mã không thể giải phá ngay thì người ta gửi khoá mã từ London đến, nơi mà trưởng phòng cơ yếu là một người Nga tên là Fetterlein, người trước đây từng làm công việc này ở Nga. Tóm lại, tất cả các kẻ thù của ta, trong đó có nước Anh, đã thường xuyên nắm được hoạt động tác chiến và ngoại giao của chúng ta”.
Thông báo của một vị chỉ huy quân sự đầy uy tín đã thu hút được sự chú ý. Cuối tháng 12 năm 1921, toàn bộ liên lạc điện tín ngoại giao giữa London và Moskva bằng vô tuyến điện bất ngờ bị ngừng lại và được thay bằng giao thông viên ngoại giao. Còn tháng 4 năm 1923, phái bộ thương mại Xô-viết lại được trang bị hệ mã mới, vững chắc hơn hệ trước. Lúc đó, Lloyd George đã ký hiệp ước thương mại Xô-Anh, theo đó, lần đầu tiên ở phương Tây, chính phủ Xô-viết đã được thừa nhận là hợp pháp và cả hai nước cam kết từ bỏ các hành động thù địch đối với nhau. Ngoài ra, mỗi bên của hiệp ước cam kết không tiến hành ở bên ngoài nước mình hoạt động tuyên truyền chính thức trực tiếp hay gián tiếp nhằm chống lại các cơ quan chính phủ của nước kia.
Mấy tuần sau khi ký hiệp ước, Fetterlein đã giải phá được mật mã mới dùng cho kênh Moskva-London và người Anh biết rằng, nhà nước Xô-viết không định tuân thủ hiệp ước này – Liên Xô vẫn tiếp tục tài trợ cho các phần tử dân tộc chủ nghĩa ấn Độ và Đảng Cộng sản Anh. Sau các cuộc tranh luận ở nội các Anh tháng 5 năm 1923, ngoại trưởng Anh Lord George Nathaniel Curzon (1859-1925) đã gửi tối hậu thư cho Uỷ viên Dân uỷ ngoại giao Liên Xô Chicherin. Trong tối hậu thư này, những người Bôn-sê-vic đã bị buộc tội hoạt động lật đổ và người ta không chỉ trích dẫn từng từ trong bản rõ các bức điện mật mã của Liên Xô, mà còn đưa ra những lời châm chích ngoại giao về việc người Anh đọc được điện tín cơ yếu của những người Bôn-sê-vic: “Trong Bộ Dân uỷ Ngoại giao của Nga có lẽ người ta biết bức điện sau đây đề ngày 21 tháng 2 năm 1923 mà họ nhận được từ tay F. Raskolnikov”; “Trong Bộ Dân uỷ Ngoại giao cũng cần phải nhớ cả bức điện vô tuyến mà họ nhận được từ Kabul đề ngày 8 tháng 12 năm 1922″; “Rõ ràng là họ biết cả bức điện ngày 16 tháng 3 năm 1923 được trợ lý Uỷ viên Dân uỷ Ngoại giao L. Karakhan gửi cho Raskolnikov”.
Đáp lại, chính phủ Xô-viết tuyên bố rằng, tối hậu thư của Curzon được viết từ bản rõ của các các bức điện mật mã bị chặn thu, hơn nữa điều đó được làm một cách có dụng ý và bất nhã”. Có nghĩa là người ta để cho hiểu rằng, các bản rõ là thật, nhưng nội dung của chúng bị diễn giải xuyên tạc và tuỳ tiện. Uỷ viên Dân uỷ Ngoại giao Chicherin bị bất ngờ hoàn toàn. Biện pháp đối phó duy nhất là hạ lệnh ngừng tạm thời tất cả các cuộc tiếp xúc của công dân Liên Xô với công dân Anh để ngăn ngừa khả năng rò rỉ thông tin. Đối với người Anh, đây là sự bù đắp nào đó cho việc cơ quan ngoại giao Liên Xô nhất định sẽ thay đổi các hệ mã đang sử dụng. Việc thay đổi diễn ra vào cuối năm 1923. Rõ ràng là cho đến lúc đó, Liên Xô không hề còn phân vân gì về nguồn tin của người Anh nữa. Bản thân Curzon công khai thừa nhận không một bức điện nào mà ông ta trích dẫn được gửi ở dạng không được mã hoá.
Đồng thời, trong khi sử dụng một cách không suy nghĩ những đổ vỡ liên tục trong hệ thống bảo mật thông tin của Liên Xô, chính phủ Anh đôi khi tự lâm vào thế khó xử khi chặn thu những điện tín giả. Bọn bạch vệ ở Berlin, Revel (Tallin) và Varsava thường làm giả giấy tờ của Liên Xô. Với chất lượng làm giả khác nhau, những giấy tờ giả này đã trở thành phương tiện sinh nhai cho những kẻ làm ra chúng cũng như là cách để bôi nhọ những người Bôn-sê-vic. Wind Charles, từ năm 1921-1928 giữ cương vị trợ lý của đặc phái viên cơ quan tình báo Anh đã gọi những giấy tờ giả này là “điều bậy bạ không thể chấp nhận” bởi vì theo ông ta, “chúng cho phép người Nga hét toáng lên rằng đó là “đồ rởm” mỗi khi họ được trình cho xem các giấy tờ thật”. Người Anh thậm chí còn phải tiến hành xếp loại dữ liệu tình báo theo độ tin cậy. Điều đó xảy ra vì một nguyên nhân nhục nhã đối với người Anh.
Các nhân viên tình báo Anh đã móc nối với điệp viên có bí danh BP-11 ở Revel, tên này nói rằng hắn có cách tiếp cận Bộ Dân uỷ Ngoại giao và có thể cung cấp cho London tóm tắt nội dung của hơn 200 bức điện mật mã của bộ này. Đối với người Anh, đáng quan tâm nhất là những thông tin về sự tài trợ của những người Bôn-sê-vic cho phong trào dân tộc chủ nghĩa Ireland. Ngoài ra, việc biết từng từ trong bản rõ các bức điện mật mã Xô-viết có thể hỗ trợ rất nhiều cho các chuyên gia mã thám của GCCS trong công tác giải mã.
Tuy nhiên, không lâu sau, những tin tức thu được từ BP-11 đã bị bác bỏ, chủ yếu bởi chỉ huy cảnh sát Anh, người đã không thể xác nhận các dữ liệu này và tuyên bố rằng, trái lại, các phần tử dân tộc chủ nghĩa Ireland đang gặp khó khăn lớn về tài chính. Khi người ta đòi BP-11 cung cấp các bản rõ gốc của các bức điện mật mã theo yêu cầu của lãnh đạo GCCS và để so sánh với bản tóm tắt đã nhận được trước đó, BP-11 liền dùng mưu mẹo né tránh và vì thế đã mất hoàn toàn tín nhiệm. Việc kiểm tra cho thấy đại đa số tin tức của BP-11 là đáng ngờ, nhưng lại trùng khớp với các thông tin thu được từ các nguồn khả nghi.
Một lần nữa, Fetterlein mãi đến năm 1925 mới giải phá được mật mã của Liên Xô, và hai năm sau, một cơ hội tuyệt vời, hiếm có đã xuất hiện. Ngày 12 tháng 5 năm 1927, trụ sở công ty thương mại Xô-Anh Arcos đã bất ngờ bị cảnh sát chiếm giữ. Theo tuyên bố chính thức của chính phủ Anh, hành động này được tiến hành nhằm đoạt lấy những thông tin tuyệt mật mà tình báo Liên Xô đã thu được.
Máy mã Triton từ chiếc táu ngầm Đức
Đối với nước Anh, một quốc đảo, biển luôn có ý nghĩa sống còn. Không có lương thực, dầu mỏ và vũ khí nhập khẩu, nước Anh sẽ không thể đứng vững và người Đức hiểu rõ điều đó. Đô đốc Doenitz, tư lệnh Hải quân Đức, đã tuyên bố “cuộc chiến trọng tải” với nước Anh.
Những đoàn tàu vận tải ít ồn và chậm chạp của Anh đã trở thành miếng mồi ngon cho tàu ngầm đối phương. Đến mùa thu năm 1940, các tàu ngầm Đức hàng tháng đánh chìm xuống đáy biển gần 200.000 tấn hàng hoá đường biển của Anh. Từ một biệt thự ở bờ biển miền Tây nước Pháp, Đô đốc Doenitz duy trì liên lạc qua vô tuyến điện với hạm đội tàu ngầm của mình bằng các bức điện mật mã Enigma tinh quái.
Từ kênh liên lạc vô tuyến điện này, người Anh đã khai thác được nhiều tin tức có lợi. Bộ Hải quân Anh đã nhận được từ GCHQ tin tức về vị trí các tàu ngầm Đức, sau đó liên lạc bằng vô tuyến điện với các tàu Anh và hạ lệnh cho chúng khi gặp nguy hiểm thì thay đổi hướng đi hoặc chỉ dẫn phải đi theo đường nào. Điều đó luôn được thực hiện với cớ hợp lý, mà làm lộ nguồn tin. Thận trọng là hoàn toàn dễ hiểu bởi các máy mã chính của Hải quân Anh từ lâu đã bị lộ. Tuy nhiên, Đức nhanh chóng chú ý tới hiệu quả hoạt động ngày càng giảm của hạm đội tàu ngầm của họ.
Tháng 9 năm 1941, Đức thay đổi khoá mã ở tất cả các máy mã của hạm đội, còn trên các tàu ngầm thì họ bắt đầu thay các mã Enigma cũ bằng kiểu mới có 4 rotor thay vì 3 rotor. Máy Enigma 4 rotor đã đi vào lịch sử tình báo vô tuyến điện tử với tên gọi Triton. Trong đoạn đầu của mỗi bức điện mã gửi đi bằng máy mã này có tiền tố “BETA BETA”. Và thế là từ đầu năm 1942, trong các đoạn đầu các bức điện mã của Đức, người Anh bắt đầu thấy xuất hiện những tiền tố “khủng khiếp” (đối với GCHQ và hạm đội Anh) này. Chỉ trong tháng 11 năm 1942, Hải quân Đức đã đánh đắm 190 tàu của Anh và đồng minh với tổng lượng giãn nước 729.000 tấn và tất cả chỉ vì người Anh không thể đọc được các bức điện mã của tàu ngầm Đức.
Người Anh đã có được các khoá mã của máy Triton nhờ một số hoàn cảnh. Một là người Đức đã vi phạm quy định an toàn khi để một số bức điện mã chặn thu được có độ dài trùng với các bức điện đã gửi trước đó bằng máy Enigma kiểu cũ, nhưng cũng phải cần tới 6 chiếc máy Bombes làm việc không nghỉ trong 17 ngày để đọc các bức điện này. Hai là người ta phát hiện ra rằng, để mã hoá một số bức điện mật mã chẳng hạn các thông báo thời tiết thì rotor thứ tư không được sử dụng bởi vì người ta dùng tổ hợp 3 chữ cái để chỉ vị trí của các rotor.
Thế là sau khi chọn ra những bức điện được mã hoá bằng máy Triton chỉ bằng 3 rotor, việc đọc các bức điện mã bằng cả 4 rotor trở nên dễ dàng hơn. Nhưng kể cả khi trục rotor số 4 không thể đặt lại cùng với các rotor khác (tức là vị trí của nó được phép coi là cố định) thì việc đưa rotor thứ tư vào sơ đồ máy Enigma đã tăng số lượng hoán vị khác nhau tăng lên 26 lần!
Một điều an ủi đối với người Anh là hạm đội tàu nổi Đức không sử dụng Triton. Trong cuộc chiến chống hạm đội tàu nổi Đức, người Anh đã sử dụng đề xuất mà viên sĩ quan trẻ Ian Fleming đưa ra từ năm 1941. Nó cũng phiêu lưu như tất cả những gì ông ta nghĩ ra sau này khi nổi danh là tác giả của các cuốn tiểu thuyết trinh thám về James Bond (Điệp viên 007). ý tưởng của Fleming thật đơn giản: nếu khó giải phá mật mã thì phải đánh cắp nó.
Các tàu của cơ quan khí tượng Đức thường trực ở Đại Tây Dương theo ca ba tháng. Mỗi tàu có một máy Enigma trên boong với bộ khoá mã cho thời kỳ ba tháng đó. Thế là các tàu khu trục Anh được phái tới Bắc Đại Tây Dương để đánh bắt lấy một chiếc tàu khí tượng Đức đi lẻ nào đó. Một trong các khu trục hạm đó, tàu Somalia, ngày 7 tháng 5 năm 1941, đã phát hiện được ở mạn trái một cột khói nhỏ của tàu biển – đó là tàu khí tượng Đức Mỹnchen. Sau khi tàu Somalia khai hoả vào chiếc Mỹnchen, báo vụ viên Đức đã vứt xuống biển chiếc máy Enigma trên tàu, nhưng lại quên huỷ bảng các vị trí đặt khoá cho máy cho tháng sau và nó đã bị người Anh lấy được.
Hai ngày sau đã diễn ra một cuộc đụng đầu mới, lần này là không dự kiến: gần bờ biển Greenland, một tàu ngầm Đức tấn công đoàn tàu Anh và sau khi bị phản công quyết liệt đã buộc phải nổi lên mặt nước. Một nhóm đánh bắt từ chiếc khu trục hạm đi hộ tống đoàn tàu đã tìm thấy trên boong chiếc tàu ngầm bị đắm một máy Enigma và các tài liệu hướng dẫn sử dụng máy. Kết quả là từ tháng 7 cho đến tháng 12 năm 1941, bất cứ khoá mã tháng nào của tàu ngầm Đức cũng bị Bletchley Park giải phá chỉ trong vòng 2 ngày đêm. Thông tin thu được lập tức được chuyển về London, tới trung tâm theo dõi di chuyển của tàu ngầm Đức. Các đoàn tàu Anh liền đi vòng tránh xa các tàu ngầm Đức, còn các khu trục hạm thì theo dõi và đánh đắm chúng. Nhưng Triton đã thay đổi tận gốc tình thế.
Mỹ đã nêu với nước Anh những tổn thất lớn lao mà hạm đội liên hợp của họ phải gánh chịu. Về việc này, giám đốc GCHQ lạc quan tuyên bố rằng, trong số 50 khoá mã của Luftwaffe và Wehrmacht, 26 khoá mã đã bị giải phá và rằng điện tín mật mã bảo mật bằng Triton cũng sẽ đọc được. Sự lạc quan của ông đã thành hiện thực ngay vào ngày 13 tháng 12 năm 1942 nhờ các tài liệu tìm thấy trên một tàu ngầm Đức bị đắm ở Địa Trung Hải. Trong vòng 6 giờ, người Anh đã truy đuổi tàu ngầm này cho đến khi nó nổi lên rất gần chiếc chiến hạm Anh đang săn lùng nó. Thuyền trưởng chiếc tàu ngầm Đức đã hạ lệnh cho thuỷ thủ đoàn rời tàu. Lúc đó, ba thuỷ binh Anh đã cởi quần áo và nhảy xuống nước.
Khi các thuỷ thủ bơi đến chiếc tàu ngầm Đức bị bỏ lại, đèn trên tàu vẫn sáng. hai thuỷ binh Anh chui vào trong và kịp tìm ra chiếc máy Triton cùng cặp tài liệu chính là các bảng khoá mã cho chiếc Triton và đưa tất cả cho thuỷ binh thứ ba đang đứng gần cửa ra vào. Mang theo số chiến lợi phẩm, anh này khó khăn lắm mới rời khỏi được chiếc tàu ngầm. Trước khi rời tàu ngầm, các lính tàu ngầm Đức đã mở các van thoát nước và không lâu sau hai thuỷ binh Anh lại được phái vào tàu để cố tìm xem còn gì nữa đã bị chôn sống cùng chiếc tàu ngầm dưới đáy biển. Cả hai người này đã được truy tặng huân chương, còn người thứ ba còn sống sót thì khi làm giấy tờ khen thưởng đã phát hiện ra là anh ta nói dối về tuổi khi nhập ngũ. Bởi vậy, anh ta bị sa thải khỏi Hải quân Anh và không lâu sau đã chết trong một cuộc không kích London của Đức khi cố cứu chị gái mình khỏi đám cháy. Đúng là người có số chết cháy thì không thể chết đuối!
Từ cuối năm 1942, người Anh đã lại đọc được thường xuyên các điện mật mã của tàu ngầm Đức nhờ chiếc máy Triton và giấy tờ lấy được trên chiếc tàu ngầm bị đắm ở Địa Trung Hải. Những tổn thất của Anh ở Bắc Đại Tây Dương đã giảm hai lần, các đoàn tàu buôn đến được đích nhiều hơn là bị đánh đắm trên đường đi. Tiếp đó, tiềm năng trí tuệ của các chuyên gia mã thám Anh đã được tăng cường bằng tiềm lực công nghiệp của nước đồng minh của Anh – nước Mỹ. Những con tàu và máy bay mới, được chế tạo chuyên dùng để chống tàu ngầm Đức nhanh chóng giành thắng lợi hoàn toàn với tàu ngầm Đức: ngày 24 tháng 5 năm 1943, trước những tổn thất lớn lao phải gánh chịu, Đô đốc Doenitz đã hạ lệnh cho các tàu ngầm của mình rút khỏi Bắc Đại Tây Dương. Công lao không nhỏ trong chiến thắng trên biển này thuộc về các chuyên gia mã thám Anh, nhưng người đã làm việc cực kỳ táo bạo và sáng tạo, khôn khéo giăng bẫy kẻ thù và không dung thứ cho những sai lầm của kẻ địch.
Nếu người Đức chọn và đặt một khoá mã nào đó không thể giải phá thì người Anh liền áp dụng thủ đoạn sau. Không quân Anh dùng máy mã kém vững chắc để chuyển một số bức điện mật mã nào đó. Hành động này chỉ có một mục đích: các bức điện mật mã sẽ bị người Đức đọc được. Ngay khi bản rõ của dù chỉ một trong các bức điện đó được phát lên mạng lưới liên lạc của Đức và được bảo mật bằng máy Enigma bằng khoá mã không thể phá giải đó thì bản rõ này được các chuyên gia mã thám Anh chọn ra trong toàn bộ luồng điện tín mật mã chặn thu được và theo đó tìm ra khoá mã “khó xơi” kia. Từ tháng 6 năm 1943 đến tháng 2 năm 1944, bằng cách đó, người Anh đã bẻ được 15 khoá mã Enigma mà Luftwaffe sử dụng.
Tháng 12 năm 1943, GCHQ được trang bị máy Bombes mới cải tiến có tên gọi Colussus. Đó là máy tự động có lập trình thực hiện các phép tính số học và logic trên những con số nhị phân. Nó được trang bị máy dò lại từ băng đục lỗ, làm việc với tốc độ 5000 ký tự/giây và máy chữ điện bảo đảm tốc độ đánh chữ đạt tới 15 ký tự/giây. Việc lập trình được thực hiện từ bảng đảo mạch. Cũng phải nói thêm là từ khi chế tạo được Colussus, GCHQ luôn được trang bị kỹ thuật tính toán hiện đại nhất. Ví dụ, trong thập niên 1980, ở đó đã sử dụng các siêu máy tính dòng Cray mặc dù theo các chuyên gia GCHQ, chúng có một nhược điểm lớn – độ tin cậy kém – chúng hỏng chỉ sau 300 giờ làm việc.
Để hiểu được quy mô tình báo vô tuyến điện tử của Anh chống nước Đức, ta phải biết rằng, trên thực tế trước khi chiến tranh thế giới thứ II kết thúc, người Anh biết rõ phong cách, thói quen và đặc điểm của tất cả các báo vụ viên Đức. Với mỗi mạng thông tin liên lạc Đức, GCHQ cử một nhân viên đặc trách theo dõi toàn bộ liên lạc điện tín của mạng lưới đó để lập bức tranh chi tiết có liên quan đến nhân sự, cơ cấu, vị trí và ý định của từng bộ ngành dân sự và quân sự hay của các đơn vị quân đội Đức sử dụng mạng thông tin liên lạc đó.
Kết quả chủ yếu của chiến tranh thế giới thứ II đối với tình báo vô tuyến điện tử là nó đã tạo cơ hội chứng minh trên thực tế hiệu quả các phương pháp của nó được áp dụng lần đầu tiên từ trước chiến tranh. Người ta đã bắt đầu sử dụng kỹ thuật máy tính để đẩy nhanh quá trình giải phá khoá mã. Các phần tử thông tin nhỏ có trong tay các cơ quan tình báo vô tuyến điện tử đã được tính cực bổ sung bằng tin tức của điệp viên. Kẻ địch thường xuyên bị nhồi cho những bức điện để truyền đi trong các kênh liên lạc cơ yếu để sau đó lọc chúng ra từ luồng thông tin chặn thu nói chung và sử dụng thông tin thu được bằng cách đó để giải mã các bức điện mật mã khác. Tất cả những thay đổi và các biện pháp mới trong tổ chức liên lạc cơ yếu của đối phương bị theo dõi chặt chẽ. Các hoạt động chiến sự được tiến hành với mục đích chỉ để chặn lấy các máy mã hay khoá mã của chúng. Kinh nghiệm có được thời chiến tranh rất có ích cả cho thời bình.
Những quả trứng vàng
Tại Anh, trung tâm của các hoạt động mã thám Enigma là lãnh địa thời Victoria Bletchley Park cách London 100 km. Cho đến đầu thập niên 1990, nó chẳng thay đổi mấy so với thập niên 1940 khi nó trở thành nơi trú ngụ của những bộ não xuất chúng nhất Anh quốc.
Bletchley Park trở thành một thứ thành phố đại học giành cho các nhà toán học Anh đặc biệt tài năng. Đó là một công ty nhiều vẻ của những nhà bác học chói sáng, lập dị, đa số đã tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Cambridge. Những trò đùa muôn thuở của họ, cho đến tận những trò nhại âm nhạc, đang tạo ra ở Bletchley Park một không khí đặc thù có một không hai.
Người đầu tiên trong số đó là nhà toán học có phép lạ trẻ Alan Turing (1912-1954), người đã gia nhập GCHQ khi mới tròn 27 tuổi. Ông đã đi vào lịch sử như người sáng lập bộ môn khoa học máy tính. Ngay từ trước chiến tranh, ông đã viết nhiều công trình về lý thuyết máy tự động (tất cả những người có liên hệ ít nhiều đến lĩnh vực toán học này đều biết đến “chiếc máy Turing” (Turing machine). Theo ông, nước Anh trông cậy chính vào những chiếc máy này để giải phá các hệ mã của Đức và đã không chọn nhầm.
Với kinh nghiệm thành công đầu tiên trong việc đọc điện tín mật mã liên lạc của Đức vào đầu thập niên 1940, một vấn đề đặt ra trước người Anh là một mặt không được để lộ; mặt khác phải tận dụng tối đa nguồn tin. Bởi vậy, người ta đã quyết định giả đò như dữ liệu là do một điệp viên cao cấp ở Berlin có bí danh Boniface cung cấp. Tuy nhiên, trong số những người được nhận thông tin này, có người không thật tin vào Boniface: GCHQ rất cần những quân nhân bởi họ là những người có thể nhận thức được giá trị của các dữ liệu tình báo vô tuyến điện tử và chuyển nó theo cách phù hợp cho ban lãnh đạo cấp cao của nhà nước. Các sự kiện năm 1940 đã làm thay đổi tận gốc tình hình.
Mùa xuân năm 1940, Hitler đã bắt tay vào chinh phục Tây Âu. Theo nguyên tắc domino, các nước Đan Mạch, Nauy và Bỉ lần lượt thất trận. Đầu tháng 5 năm đó, Đức tiến hành cuộc tấn công ồ ạt chống quân Anh, Pháp. Dấu hiệu đầu tiên của cuộc tấn công này là hoạt động gia tăng của các đài vô tuyến điện của Đức. Sau 20 ngày chiến sự, GCHQ đã đọc được điện tín mật mã của Luftwaffe ngày 20 tháng 5 năm 1940. Sau đó, việc đọc được điện mã trở nên thường xuyên hơn với khoảng 1 nghìn bức điện mã một ngày. Mặc dù thông tin thu được chỉ liên quan đến Luftwaffe, nhưng nó đã cho phép hình dung bức tranh chiến sự một cách đầy đủ bởi vì Không quân Đức hoạt động có hiệp đồng chặt chẽ với Wehrmacht. Tuy vậy, quân Anh, Pháp đã rút chạy hỗn loạn đến mức họ không thể lợi dụng được thông tin này.
Trong lúc đó, giai đoạn mới của cuộc chiến đã bắt đầu với GCHQ. Cho đến mùa hè năm 1940, Anh chỉ còn một mình đối chọi với Đức. Các đơn vị của GCHQ làm nhiệm vụ đọc điện mã của Nhật đã chặn thu và giải mã được bức điện do đại sứ Nhật gửi từ Hungary về Tokyo nói rằng, khi thảo luận với thủ tướng Hungary Horti, ông ta đã nhận được tin quân Đức chuẩn bị đổ bộ lên nước Anh.
Vũ khí khủng khiếp của người Anh trong cuộc đấu quyết tử để sống còn này là những thiên tài trẻ tuổi tập trung tại Bletchley Park. Chính họ sẽ tìm ra con đường đúng đắn trong mê cung bằng điện rắc rối của Enigma. Tháng 5 năm 1940, nhiệm vụ của họ thêm khó khăn hơn” vì Đức áp dụng những thay đổi trong công tác liên lạc điện cơ yếu và đã gây ra những hậu quả rất tiêu cực. Những thay đổi này có liên quan đến đoạn mở đầu bức điện và có ý nghĩa như sau.
Trước ngày 1 tháng 5, quy trình là khá đơn giản. Người gửi điện mã kiểm tra xem khoá có được đặt đúng không: 3 rotor nào được chọn, chúng được đặt theo trình tự nào, việc đảo mạch trên bảng phích cắm có được đặt đúng không. Tiếp đó, anh ta gửi điện viết rõ để yêu cầu người nhận điện mã thiết lập liên lạc. Sau khi được xác nhận sẵn sàng thiết lập liên lạc, người gửi đặt các rotor vào vị trí cần cần thiết được quy định bằng 3 chữ cái Latinh (ví dụ như HTC) tuỳ theo ý mình. Ba chữ cái này tạo thành phần đầu bức điện mã. Để truyền 3 chữ cái này, nhân viên cơ yếu còn phải chọn hú hoạ thêm 3 chữ cái nữa, chẳng hạn như BLG. Sử dụng BLG để đặt vị trí ban đầu cho các rotor, nhân viên cơ yếu gõ phím máy Enigma hai lần các chữ cái HTC và nhận được chuỗi chữ RWSANW. Người nhận lấy các chữ cái BLG từ đoạn mở đầu bức điện và tiến hành đặt các rotor trên máy Enigma của mình ở vị trí cần thiết. Tiếp đó phần văn bản RWSANW được giải mã và nhận được khoá mã để giải mã toàn bộ bức điện mã nhận được.
Từ ngày 1 tháng 5 năm 1940, HTC chỉ được mã hoá một lần và thay cho hai tập hợp 5 chữ cái BLGRW SANW… trong bức điện chặn thu được chỉ hiện lên các chữ cái BLGRW S… Trưức khi áp dụng yếu tố mới này thì trước khi xác định vị trí của các rotor, các chuyên gia mã thám của GCHQ phải xác định các yếu tố còn lại của hệ khoá, việc này được tiến hành dựa vào đoạn mở đầu bức điện chỉ gồm 9 chữ cái bằng cách sử dụng máy Bombes. Việc bỏ đi 3 chữ cái trong đoạn mở đầu bức điện có ý nghĩa quyết định. Dần dần, do người Đức mở rộng áp dụng thủ pháp mới nên Enigma không còn giải phá được nữa.
Nhóm chuyên gia ở Bletchley Park chỉ còn lại vài tháng để vượt qua vật cản xuất hiện bất ngờ này. Sự vội vàng đó còn là do chính vào mùa hè năm 1940, Không quân Đức tràn đầy quyết tâm đánh gục nước Anh ngay trước khi đổ bộ quân Đức lên quần đảo này. Thống chế không quân phát xít Goering đã sử dụng rộng rãi Enigma trong các chiến dịch tiến công của mình bởi gã tin chắc rằng, đối phương không thể đọc được các bức điện mã của y. Nhưng hắn đã lầm: ngay trước khi chiến dịch quy mô lớn của Luftwaffe bắt đầu, nhóm chuyên gia ở Bletchley Park đã dùng kỹ thuật tính toán đơn giản, phương pháp phân tích thông tin chặn thu và cả các báo cáo của các cơ quan điệp báo Anh để giải phá bí mật thay đổi đoạn mở đầu bức điện và lại bắt tay vào giải phá cách đặt khoá cho máy Enigma của Không quân Đức. Họ đã thành công rất đúng lúc.
Tháng 7 năm 1940, cuộc chiến nhằm chinh phục nước Anh bắt đầu. Goering đã hứa với Hitler rằng, các phi công của hắn sẽ bắt nước Anh quỳ gối trong vòng một tháng. Nhưng hắn đã xem thường sức mạnh của Không quân Anh và cũng giống như các tên đầu sỏ lãnh đạo Đức quốc xã khác, hắn đã phóng đại độ vững chắc của Enigma. Tin chắc rằng đối phương không thể đọc được các bức điện mã của mình, bộ chỉ huy Luftwaffe đã sử dụng khắp nơi máy Engima để bảo mật nội dung nhiệm vụ tác chiến của mình. Thông tin cực kỳ quan trọng này lập tức được chuyển từ Bletchley Park cho tư lệnh Không quân Anh Hughes Downing. Các bức điện được giải mã này được đặt mật danh là “Ultra”. Trong boongke của mình, cả Thủ tướng Anh Winston Churchill cũng bắt tay vào nghiên cứu Ultra. Các hồ sơ tin Ultra đã được ông gọi đặt tên là “những quả trứng vàng”, còn nhóm chuyên gia của Bletchley Park được ông gọi là những con ngỗng thần âm thầm đẻ ra những quả trứng đó.
Không quân Anh liên tục đối phó thành công các cuộc không kích của Luftwaffe: nhờ có Ultra, Downing đã “đọc được ý đồ” của Goering. Với độ chính xác tuyệt đối, ông đã biết sử dụng hợp lý hơn lực lượng của mình, tấn công vào đâu, còn ở đâu thì nên thoái lui. Ngày 13 tháng 8 năm 1940, trong một nỗ lực tuyệt vọng để giữ lời hứa với Hitler, Goering đã có ý đồ tiến hành một cuộc tấn công tổng lực từ trên không để đánh tan hẳn Không quân Anh. Chiến dịch này có mật danh “Ngày Đại bàng”. Sử dụng Enigma, Goering đã sớm phát lệnh được mã hoá tổ chức các cuộc tấn công vào các mục triêu trên một vùng lãnh thổ rộng lớn. Kế hoạch của hắn là lôi cuốn vào cuộc không chiến càng nhiều càng tốt máy bay của kẻ địch và tiêu diệt chúng. Bức điện mã này đã bị người Anh chặn thu và giải mã và nội dung củaa nó đã được chuyển kịp thời đến cho Downing.
Khi chiến dịch của Đức mở màn, bộ chỉ huy Không quân Anh đã sẵn sàng ứng phó và khôn khéo tổ chức phòng ngự bằng cách sử dụng thông tin trong các hồ sơ tin Ultra. Mỗi thê đội máy bay địch đều bị một toán nhỏ máy bay tiêm kích Anh đón đánh để gây hỗn loạn đội hình tấn công của các máy bay Đức tấn công với tổn thất tối thiểu. Trong trận đánh này, lực lượng phối hợp của các phi công Anh và các chuyên gia mã thám đã chiếm ưu thế. Nhưng cuộc chiến trên không vì nước Anh vẫn chưa hề kết thúc.
Ngày 15 tháng 9 năm 1940, Goering đã hạ lệnh giáng đòn quyết định cuối cùng vào nước Anh. Các cuộc tiến công liên tục diễn ra liên tiếp. Và một lần nữa các chuyên gia mã thám Anh đã lại làm cho kế hoạch của Goering mất đi tính bất ngờ. Qua các tài liệu Ultra, Downing biết tinh thần chiến đấu của các phi công Luftwaffe đang giảm sút mạnh. Ông còn biết rằng chúng thiếu sự yểm trợ của các máy bay tiêm kích. Mà điều chủ yếu là Anh có số lượng máy bay chiến đấu nhiều hơn hai lần so với dự kiến của Đức. Lực lượng dự bị của Không quân Anh được tung vào trận đã mang lại chiến thắng cho nước Anh: tổn thất của Anh là hơn 900 máy bay một chút so với 2000 máy bay của Đức.
Phục vụ cho NKGB
Những thông tin tuyệt mật mà các chuyên gia mã thám Anh thu được thời chiến tranh thế giới thứ II từ các kênh liên lạc của Đức đã lọt cả vào tay Moskva.
Một là thông qua các điệp viên Liên Xô ở Anh được tiếp cận các thông tin này. Đã có hai điệp viên như vậy. Một trong số đó, Leo Long, nhờ kiến thức tiếng Đức tuyệt vời mà được nhận vào Phòng MI-14 của Bộ Quốc phòng Anh vào tháng 12 năm 1940. Phòng này làm nhiệm vụ đối chiếu và phân tích thông tin tình báo về đội hình chiến đấu của quân Đức. Tại đây Long đã tiếp cận các tin tức thu được nhờ các thành tựu của các chuyên gia mã thám Anh. Sau chiến tranh, Long chuyển từ MI-14 của Bộ Quốc phòng Anh sang Uỷ ban Kiểm soát của Anh ở Đức, thoái thác công việc và bắt đầu né tránh những nỗ lực nối lại quan hệ của tình báo Liên Xô. Việc Long từ chối hợp tác chủ yếu là do những thay đổi trong đời sống gia đình. Cuộc hôn nhân đầu với một nữ đảng viên cộng sản đã không thành công. Long lại cưới vợ và công việc gia đình choán hết anh ta khiến không còn thời gian để làm việc cho tình báo Liên Xô nữa.
Hai là chính London đã cung cấp tin tức thu được bằng tình báo vô tuyến điện tử cho Liên Xô ở dạng giấu giếm. Về kế hoạch Barbarossa (mật danh của kế hoạch tấn công Liên Xô) của Đức, người Anh đã biết rất lâu trước khi nó được thực hiện. Sĩ quan Anh Barclay là một trong một số ít nhân viên sứ quán Anh ở Moskva được biết về sự tồn tại của GCHQ. Không để lộ nguồn tin, ông ta đã cảnh báo một đại diện của bộ chỉ huy quân sự tối cao của Liên Xô về cuộc xâm lược đang được chuẩn bị của Đức. Còn việc người ta có chú ý đến lời cảnh báo này không và cái giá cho sự coi thường đối với tin tức tình báo vô tuyến điện tử được cung cấp một cách thiện chí như thế cho Liên Xô là thế nào thì ai cũng biết rõ.
Sau khi Đức tấn công Liên Xô, các khoá mã của Enigma giải phá được bắt đầu liên quan đến việc mã hoá các bức điện của Đức không chỉ ở mặt trận phía Tây mà cả mặt trận phía Đông. Chẳng hạn, người ta đã xác định được cách đặt khoá mã Enigma của Wehrmacht ngày 27 tháng 6 năm 1941 được sử dụng ở mặt trận Xô-Đức. Sau đó, đã tìm ra được khoá mã của Enigma mà Wehrmacht và Luftwaffe áp dụng khi tiến hành các hoạt động hiệp đồng tác chiến chống quân đội Xô-viết. Nhưng người Anh không vội chia xẻ các thành tựu đạt được với đồng minh phía Đông của mình trong liên minh chống Hitler. Vấn đề là ở chỗ Mỹ và Anh đã có quyết định chung mà họ kiên quyết trung thành trong suốt cuộc chiến.
Quyết định đó là không thông báo gì về Ultra cho Liên Xô. Một trong những nguyên nhân là do họ lo ngại các mật mã mà Liên Xô sử dụng kém vững chắc. Stewart Menzies người lãnh đạo GCHQ trong thời gian chiến tranh đã kiên quyết khuyên Churchill không chuyển cho Moskva các tin tức thu được nhờ đọc được điện mật mã của Đức bởi vì các mật mã của Liên Xô không tin cậy. Theo ông ta, thông báo cho phía Liên Xô biết rằng Anh đã giải phá được Enigma cũng có nghĩa là nói chính điều đó cho Đức. Đến cuối tháng 6 năm 1941, GCHQ đã phát hiện ra quân Đức đọc được một phần điện tín mật mã của các tàu và tập đoàn không quân số 17 của Liên Xô, và chúng biết rõ hệ thống tín hiệu của không quân Liên Xô triển khai gần Leningrad. Không có gì bảo đảm các mật mã của Liên Xô dùng để bảo mật các tin tức chiến lược không chịu cùng số phận đó.
Các cuộc thanh trừng trước chiến tranh đối với giới chỉ huy cao cấp Hồng Quân với cớ họ làm gián điệp cho Đức đã khiến phương Tây lo sợ rằng, các gián điệp Đức đã chui vào ban lãnh đạo Liên Xô. Hơn nữa, ban đầu Mỹ và Anh không chắc là Liên Xô có thể đứng vững trước sức mạnh vũ bão của cỗ máy quân sự Đức. Khi người ta bắt đầu hiểu rõ Liên Xô không chỉ có thể đứng vững mà còn có mọi cơ hội để chiến thắng trong cuộc chiến với Đức thì sự mất tin tưởng và cạnh tranh lẫn nhau giữa các nước đồng minh lại có vai trò của nó. Tuy nhiên, họ cũng không thể bỏ qua Liên Xô hoàn toàn nên ngay ngày 24 tháng 7 năm 1941, bất chấp mọi phản đối, Churchill đã hạ lệnh cho Menzies chuyển cho Liên Xô các tin tức thu được nhờ tình báo vô tuyến điện tử ở dạng không mã hoá thông qua phái bộ quân sự Anh ở Moskva với điều kiện loại trừ mọi khả năng làm lộ nguồn tin. Sau đó, mỗi khi thấy có tin tức chặn thu quan trọng liên quan đến các sự kiện ở mặt trận phía Đông, Churchill luôn hỏi: “Cái này đã chuyển cho người Nga chưa?”
Nguồn gốc của các tin tức tình báo đó, người Anh luôn che giấu bằng những câu dạng: “theo báo cáo của một nguồn tin cao cấp ở Berlin” hay “theo báo cáo của một nguồn tin rất tin cậy”, hay “theo tin báo của một nhân viên Bộ Quốc phòng Đức”. Số hiệu các đơn vị địch và các chi tiết khác có thể làm lộ ra là thông tin thu được bằng tình báo vô tuyến điện tử đều bị bỏ đi.
Chẳng hạn, ngày 11 tháng 7 năm 1942, GCHQ đã giải mã được bức điện mã sau đây của Đức:
“1. Cần phải chờ đợi địch áp lực gia tăng lên tập đoàn quân số 2. Cố gắng chống trả các lực lượng mạnh của địch trên mặt trận của tập đoàn quân có xét đến các chiến dịch của tập đoàn quân phía Đông nói chung.
2. Trong cụm quân của von Weichs có nhiệm vụ cùng với tập đoàn quân Hungary số 2 giữ vững mặt trận Donets giữa các cửa sông Potudan và Voronezh và cùng với tập đoàn quân 2 giữ vị trí bàn đạp Voronezh theo tuyến Olkhovatka-Ozersk-Borsk-ga đường sắt Kotysh”. Hai ngày sau, bức điện này đã được chuyển tới phái bộ quân sự Anh ở Moskva ở dạng sau: “Thông báo cho Bộ Tổng tham mưu Nga. Theo các tin tức thu từ nhiều nguồn khác nhau, chúng tôi thông báo: người Đức, gồm cả các đơn vị Hungary, có ý định kìm chân quân Nga trên mặt trận Livna-Voronezh-Svoboda, trong khi đó các lực lượng xe tăng sẽ tiến về phía Đông Nam giữa các con sông Don và Voronezh”. Đối với những người mong muốn thì đây một trắc nghiệm về sự nhanh trí và chú tâm khá độc đáo và họ sẽ tìm thấy không dưới 10 điểm trùng lặp trong hai văn bản được trích dẫn này.
Mùa hè năm 1941, viên sĩ quan Anh đã chuyển cho Moskva các mật mã tác chiến, các giáo trình hoa tiêu và tín hiệu gọi của Luftwaffe. Ông ta cũng nhận được những tài liệu trao đổi tương tự. Sau ông này, một sĩ quan Anh khác đã cung cấp tài liệu về liên lạc vô tuyến của Wehrmacht và hướng dẫn giải mã các mật mã bằng tay của cảnh sát Đức và nhận được một số tài liệu lấy được của Đức để trao đổi. Theo người Anh, những tài liệu này không đáng quan tâm lắm. ở London, người ta lo sợ kiểu trao đổi một chiều những thông tin hữu ích như vậy. Ngoài ra, GCHQ cũng cho rằng, Moskva đã sử dụng không hiệu quả các tin tức họ cung cấp. Một trong các chuyên gia mã thám Anh đã nhớ lại: Trong thời kỳ các trận đánh xe tăng lớn năm 1942, chúng tôi đã cảnh báo người Nga về cái bẫy của người Đức mà họ đang đưa sinh lực và binh khí kỹ thuật vào. Thật khó tin là họ đã tin vào những lời cảnh báo này bởi nếu không họ đã tránh được những tổn thất to lớn mà họ đã phải chịu”.
Từ mùa hè năm 1942, luồng thông tin tình báo tác chiến thu được nhờ giải mã Engima đưa đến Moskva đã giảm đáng kể. Chỉ có các bức điện quan trọng đặc biệt là ngoại lệ. Tháng 12 năm 1942, vào thời điểm gay cấn của trận đánh Stalingrad, bản hướng dẫn giải phá mật mã bằng tay của Abwehr đã được chuyển đến Moskva với hy vọng đổi lấy cái gì đó có giá trị tương đương. Nhưng sự trông đợi đã không thành hiện thực. Các liên hệ với tình báo Liên Xô trở nên lỏng lẻo hơn nữa, còn sau khi mặt trận thứ hai được mở thì hoàn toàn chấm dứt. Và điều đó cũng dễ hiểu. Các đồng minh Anh, Mỹ dĩ nhiên là sợ ảnh hưởng của Liên Xô gia tăng ở châu Âu sau chiến tranh, còn Liên Xô thì ngay từ đầu chiến tranh cũng đã có đủ lý do để không quá tin vào các đồng minh trong liên minh chống phát xít của mình.
Thế là vào mùa hè năm 1942, đồng thời với việc cắt giảm số lượng thông tin tình báo vô tuyến điện tử được cung cấp chính thức từ London cho Moskva thì thông tin này bắt đầu được John Cairncross, một điệp viên mà Liên Xô tuyển được năm 1935, bí mật chuyển cho Moskva. Tháng 3 năm 1942, Cairncross đã vào làm việc cho GCHQ. Và mặc dù ông chỉ làm ở đó dưới một năm, nhưng sự tồn tại của ông trong dinh luỹ tình báo vô tuyến điện tử Anh lại trùng với sự khởi đầu của một thời kỳ quyết định trong chiến sự ở mặt trận phía Đông.
Chức trách chuyên môn của Cairncross tại GCHQ chủ yếu là phân tích thông tin liên lạc vô tuyến của Luftwaffe chặn thu được. Theo ý kiến của riêng ông, giờ phút chói sáng với ông bắt đầu vào mùa hè năm 1943, trước trận đánh Kursk khi quân Đức bắt đầu chiến dịch Citadel chống lại Hồng Quân Liên Xô. Ngày 30 tháng 4, người Anh gửi đến Moskva những lời cảnh báo về cuộc tấn công đang chuẩn bị của Đức, cũng như các tài liệu của tình báo Đức về binh lực của Liên Xô tại khu vực Kursk mà người Anh thu được nhờ giải phá Enigma. Cairncross còn chuyển bản rõ nguyên bản các bức điện mật mã chặn thu được, trong đó nói rõ số hiệu các đơn vị, binh đoàn Đức, yếu tố luôn bị người Anh cắt bỏ trong các tài liệu họ gửi cho Moskva.
Thu hút nhiều nhất sự chú ý của Moskva là những thông tin của Cairncross về tình hình bố trí các phi đoàn Đức. Bộ chỉ huy quân sự Liên Xô trong vòng hai tháng trước khi Đức bắt đầu cuộc tấn công ở vòng cung Kursk đã thực hiện ba cuộc oanh tạc phủ đầu vào 17 sân bay của Đức trong một dải rộng hơn 1000 km từ Smolensk đến biển Azov. Loạt oanh kích với ba trận ném bom ồ ạt này trở thành chiến dịch lớn nhất của Không quân Liên Xô thời chiến tranh thế giới thứ II. Họ đã thực hiện 1500 phi vụ xuất kích, tiêu diệt 500 máy bay địch, tổn thất của Liên Xô là 122 máy bay. Cairncross đã nhận được sự cảm ơn của Moskva vì những tin tức mà ông đã cung cấp. Tuy vậy, đến lúc này, khó khăn trong việc chuyển tin tức từ địa điểm đóng trụ sở GCHQ đến Moskva đã gia tăng nhiều đến mức Cairncross không thể vượt qua được nữa và ngay trước trận đánh Kursk, ông đã thay đổi chỗ làm.
Do Long từ chối cộng tác, sau đó là Cairncross đổi chỗ làm việc, tình báo Liên Xô đã mất không chỉ những nguồn tin giá trị, mà còn không còn khả năng đánh giá độ tin cậy của các dữ liệu mà phái bộ quân sự Anh ở Moskva chia xẻ với họ. Thêm vào đó là việc Liên Xô khó tìm ra lý do để thôi thúc các chuyên gia mã thám của mình bằng cách lôi ra các thành tích của các đồng nghiệp Anh của họ, như tin tức do Long và Cairncross cung cấp chứng tỏ, để chê bai họ.
Sau khi chiến tranh thế giới thứ II kết thúc, bí mật che phủ Ultra đã dẫn tới sự xuất hiện nhiều chuyện hoang đường. Theo một trong những chuyện hoang đường đó, người Anh rất muốn thu lợi từ các tài liệu Ultra liên quan đến mặt trận phía Đông. Nhưng điều đó phải làm bằng cách nào đó để giữ an toàn cho nguồn tin của họ và đồng thời thuyết phục được Liên Xô tin vào tầm quan trọng và độ tin cậy của thông tin. Vấn đề dường như đã được giải quyết bằng cách bơm tin tức Ultra qua nhóm tình báo Lucy của Liên Xô hoạt động chủ yếu trên lãnh thổ Thuỵ Sĩ. Như vậy, nguồn tin đã được giữ kín, mà ban lãnh đạo Liên Xô cũng đã hành động như mong muốn vì tin vào tin tức mà các điệp viên của mình thu được. Như vậy cần tung hô tình báo vô tuyến điện tử Anh vì họ đã chiến thắng cuộc chiến không những ở mặt trận phía Tây mà cả ở mặt trận phía Đông ư?
Trong giả thiết này không có lấy một ly sự thật. Vấn đề là ở chỗ việc chặn thu thông tin từ mặt trận phía Đông luôn là điều nan giải đối với GCHQ. Đức thường xuyên sử dụng các đường liên lạc ngầm dưới đất để liên lạc và không phải toàn bộ liên lạc được thực hiện qua vô tuyến điện. Nhưng kể cả trong những trường hợp quân Đức phải dùng đến vô tuyến điện để phát các bức điện mật mã thì cự ly và các yếu tố khách quan khác đã ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng thu của các trạm chặn thu của Anh. Các bức điện mật mã với điện văn bị bóp méo đòi hỏi mất nhiều thời gian để xử lý. Khó khăn còn tăng thêm bởi yêu cầu phải giải mã chúng.
Tình hình đơn giản hơn với các bức điện mật mã của Luftwaffe. Với các mật mã của các đơn vị Wehrmacht ở mặt trận phía Đông thì GCHQ chỉ có thể giải phá từ tháng 6 đến tháng 9 năm 1941 và vào tháng 10, tháng 12 năm 1942. Hơn nữa, GCHQ không bao giờ coi việc đọc điện mật mã từ mặt trận phía Đông là nhiệm vụ hàng đầu của mình. Trước hết, họ quan tâm đến các tin tức có ý nghĩa tác chiến đối với bộ chỉ huy Anh. Bởi vậy, thông tin mà GCHQ thu được từ mặt trận phía Đông chỉ có thể là định hướng chung về quy mô, mục đích và kết quả của các cuộc tấn công của Đức mà cũng bị chậm 2-3 ngày. Tiếp đó, nó lại phải đưa từ Bletchley Park đến London, sau đó đưa đến tay báo vụ viên của nhóm Lucy ở Thuỵ Sĩ, còn sau đó được mã hoá và gửi về Moskva.
Tuy vậy, tất cả các chuyên gia về lịch sử tình báo vô tuyến điện tử thời chiến tranh thế giới thứ II đều nhất trí cho rằng, giá trị thông tin của Lucy chính là ở tính kịp thời của nó. Trong đa số các trường hợp, thông tin này đến được Moskva trong vòng 24 giờ sau khi nó được biết đến ở Berlin. Rõ ràng là Ultra không thể nào là nguồn tin cho nhóm Lucy. Các tin tức tình báo có tầm quan trọng và độ chính xác cao là do tướng Fritz Tile, trưởng phòng cơ yếu bộ tổng tư lệnh Wehrmacht, cung cấp cho nhóm Lucy. Là người số hai trong ngành thông tin liên lạc của quân đội Đức, khi cần, ông ta sử dụng những khả năng sẵn có của mình để móc nối liên lạc qua vô tuyến điện với liên lạc viên của mình.
Hai phần ba sức mạnh quân sự Đức tập trung ở mặt trận phía Đông. Tuy nhiên, vai trò của Ultra ở đây lại vẫn là một bí mật. Có thể việc giữ kín lâu dài vai trò này là nhằm che giấu ý nghĩa chính trị sau chiến tranh của Ultra. Mà đó là việc người Anh không mong muốn chia xẻ thành quả của các chiến dịch tình báo vô tuyến điện tử thành công của mình với Liên Xô, nước đã phải gánh vác gánh nặng chủ yếu của cuộc chiến với Đức, đã làm tăng thêm sự không tin tưởng đối với phương Tây và là một trong những nguyên nhân khai diễn cuộc chiến tranh lạnh. (Một số sĩ quan Anh làm việc cho tình báo Liên Xô còn tức giận hơn nữa nên từ đó họ hoàn toàn tin tưởng vào sự đúng đắn của lựa chọn mà họ đưa ra trước đó).
Những quan hệ đặc biệt
Cả NSA cũng rất quan tâm đến việc bảo vệ bí mật cho GCHQ. Lý do rất đơn giản. Vấn đề là ở chỗ, vào năm 1934, Mỹ đã thông qua luật liên bang cấm chặn thu điện tín từ các kênh liên lạc của Mỹ.
Với sự tham gia thụ động của GCHQ, lợi dụng thực tế là đa số điện tín
từ Mỹ đến các nước khác đi qua kênh vệ tinh, tiếp đó qua các trạm tiếp
phát trên bộ, trong đó có cả ở Anh, NSA đã xây dựng ở đó hai trạm chặn
thu. Thông tin chặn thu bằng cách đó sau đó được chuyển thẳng tới các
máy tính ở Fort Meade để xử lý.
Đa số điện tín chặn thu không cần phải giải mã vì được gửi bằng bản rõ. Ngay trước vụ Watergate và do một loạt chất vấn của các nghị sĩ Mỹ về các phương pháp tình báo vô tuyến điện tử, NSA đã từ bỏ kiểu chặn thu tin từ các kênh liên lạc của Mỹ nhằm né tránh luật năm 1934 này.
Thập kỷ 1970 đã mang đến cho các cơ quan chặn thu của Anh và Mỹ một loạt khó khăn ngoài dự kiến. Những khó khăn chủ yếu là:
Năm 1971: Alende trúng cử tổng thống Chile đã khiến Mỹ phải rút trạm chặn thu của NSA khỏi lãnh thổ nước này;
Năm 1972: Các phần tử khủng bố Thổ Nhĩ Kỳ đã giết 4 nhân viên vận hành một trạm chặn thu của GCHQ ở Sinop, trên bờ biển Đen;
Năm 1975: Chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ đóng cửa các trạm chặn thu của NSA trên lãnh thổ nước mình để trả đũa lệnh cấm vận mà Mỹ áp dụng sau khi Thổ Nhĩ Kỳ xâm lăng đảo Síp;
Năm 1977: Hoàng đế Ethiopia bị lật đổ dẫn đến việc tháo dỡ trạm chặn thu của NSA ở Ethiopia;
Năm 1979: Sau khi quốc vương Pahlevi ở Iran sụp đổ, NSA đã phải trả một khoản tiền chuộc lớn để sơ tán nhân viên và trang thiết bị của trạm chặn thu của mình ra khỏi nước này.
Tuy vậy, trong thập niên 1970, không chỉ có các tổn thất mà có cả những thắng lợi. Cụ thể, được sự ủng hộ của lãnh đạo Trung Quốc, NSA và GCHQ đã triển khai hai trạm chặn thu ở vùng Himalaya, cách không xa biên giới Liên Xô.
Chỉ vào thập niên 1980, quy mô thực tế của các chiến dịch tình báo vô tuyến điện tử của Mỹ và Anh mới dần hiện rõ, mặc dù họ bắt đầu hợp tác với nhau từ năm 1947. Chính hồi đó, Hiệp ước UKUSA tuyệt mật đã gắn bó GCHQ với NSA đang ở dạng phôi thai. Từ đó, “phôi thai” yếu ớt ấy đã kịp trở thành thủ lĩnh không thể tranh cãi trong lĩnh vực tình báo vô tuyến điện tử thế giới.
Cả hai cơ quan tình báo này, tuy có những xích mích nhỏ, vẫn duy trì quan hệ mật thiết với nhau. Bởi lẽ, không phải vô cớ mà khi phát biểu trước các đồng nghiệp Mỹ, người lãnh đạo GCHQ một lần đã nói rằng, họ đã tìm được cách giắt vải trải gường rất chặt cho chiếc giường họ cùng nằm, và ông ta cũng như người Mỹ đều rất hài lòng với mối quan hệ đó.
Và vấn đề không chỉ ở chỗ có thể tiến hành theo dõi toàn cầu bằng cách phân vùng trách nhiệm (chẳng hạn GCHQ phụ trách theo dõi châu Âu và lãnh thổ ở phía Đông dãy Ural). Sự hợp tác giữa NSA và GCHQ đã giúp giải quyết các vấn đề pháp lý rắc rối. Nếu GCHQ nghe lén các cuộc gọi điện thoại của các công dân Mỹ, còn NSA làm điều tương tự với công dân Anh, thì chính phủ hai nước có đủ căn cứ để bác bỏ sự cáo buộc là họ theo dõi đồng bào mình, mặc dù trên thực tế thì đúng là như vậy.
Ngoài NSA, GCHQ duy trì quan hệ rất gần gũi với cơ quan tình báo vô tuyến điện tử của Australia là Cục Thông tin liên lạc Quốc phòng DSD (Defence Signals Directorate). Quan hệ đó là kết quả của sự giúp đỡ tích cực mà GCHQ giành cho Australia nhằm thành Phòng Thông tin liên lạc Quốc phòng DSB (Defence Signals Bureau) tiền thân của Cục DSD ngay sau chiến tranh thế giới thứ II. Hai giám đốc của DSB là công dân Anh.
No comments:
Post a Comment