I
- Cầu Thị Nghè
Thị
Nghè là một địa danh quen thuộc, nhưng trong quá khứ,
tên gọi này, đặc biệt là tên con rạch, đã thay đổi
trong từng thời kỳ:
- Thời Gia Long. Bản đồ Trần Văn Học 1815 chú thích là rạch “Môi Nghi”, âm nôm đọc là Mụ Nghè.
- Triều Minh Mạng. Theo Gia Định thông chí (GĐTC), con rạch tên là bà Nghè.
- Triều vua Tự Đức. Đại Nam nhất thống chí (ĐNNTC) viết Thị Nghè kiều.
- Thời Gia Long. Bản đồ Trần Văn Học 1815 chú thích là rạch “Môi Nghi”, âm nôm đọc là Mụ Nghè.
- Triều Minh Mạng. Theo Gia Định thông chí (GĐTC), con rạch tên là bà Nghè.
- Triều vua Tự Đức. Đại Nam nhất thống chí (ĐNNTC) viết Thị Nghè kiều.
Riêng
người Pháp gọi rạch Thị Nghè là l’arroyo de
l’Avalanche, lấy tên con tàu đầu tiên tiến vào rạch.
Ngày
nay vượt qua chiếc cầu đúc rộng, đẹp và kiên cố.
chúng ta khó lòng tưởng tượng rằng, khoảng hai thế kỷ
rưỡi trước, cũng trên khúc rạch này, cây cầu khiêm
tốn đầu tiên đã được bắc ngang, và gần một thế
kỷ rưỡi trước, trong mục Tân Lương (cầu, bến) các
sử thần triều Nguyên đã mô tả :
“Cầu Thị Nghè nằm trong huyện Bình Dương, dài chín thước. Người xưa đồn rằng Thị Nghè, con gái thống suất Nguyên Cửu Vân, đã khai khẩn ruộng đất, bắc cầu giúp khách qua sông nên lấy tên ấy. Năm Minh Mạng thứ 17 cầu được sửa sang lại.” (1)
“Cầu Thị Nghè nằm trong huyện Bình Dương, dài chín thước. Người xưa đồn rằng Thị Nghè, con gái thống suất Nguyên Cửu Vân, đã khai khẩn ruộng đất, bắc cầu giúp khách qua sông nên lấy tên ấy. Năm Minh Mạng thứ 17 cầu được sửa sang lại.” (1)
Cũng
mục Tân Lương, ĐNNTC kể thêm một số cầu khác, tiêu
biêu như Cầu Kiệu dài sáu trượng (một trượng = 10
thước).
Thời
Pháp, chính quyền đã bắc một cây cầu dành cho tuyến
xe điện Sài Gòn – Gia Định - Gò Vấp. Ở Đa Kao, tuyến
này vượt qua rạch Avalanche trên một cây cầu sắt dài
40m.(2)
Cầu
Thị Nghè dài 9 thước, ước độ 3 hoặc 4m (3). Sự chênh
lệch về độ dài giữa hai cây cầu trên cùng một con
rạch quá lớn, vậy liệu có chính xác không ? Chúng tôi
không dám võ đoán, chỉ phỏng định :
- Bà Nghè đã chọn khúc rạch hẹp nhất để tiện việc bắc cầu.
- Con rạch này, dưới triều Nguyên đã được nạo vét, khơi thông, bởi thế khi Pháp chiếm Sài Gòn, tàu Avalanche mới có thể cặp bến, bỏ neo.
- Bà Nghè đã chọn khúc rạch hẹp nhất để tiện việc bắc cầu.
- Con rạch này, dưới triều Nguyên đã được nạo vét, khơi thông, bởi thế khi Pháp chiếm Sài Gòn, tàu Avalanche mới có thể cặp bến, bỏ neo.
1
- Bà Nghè với dòng họ Nguyễn Cửu
Thị
Nghè là con gái Nguyên Cửu Vân, có anh trưởng là Nguyên
Cửu Triêm, một người anh em nữa là Nguyên Cửu Đàm.
- Nguyên Cửu Vân : “Năm Ất Dậu đời Hiến Tông thứ 15 (tức năm 1706 - đúng ra là 1705) cam man (?) (Khâm sai) Nguyên Phước Vân dẫn lính thủy bộ đón đánh quân Xiêm. Thắng trận, ông về kinh báo công, để con trai trưởng là Triêm ở lại trấn thủ Biên Hòa... Năm Ất Vị (1716 - đúng ra là 1715) Vua ra thượng dụ ban phần đất tốt nhất đã khai khẩn cho Vân để thưởng công. Đám ruộng này khi ấy gọi là ”ruộng Châu Phê” và khúc rạch chảy ngang cũng là “rạch Châu Phê”” (G.Đ.T.C. - của Trịnh Hoài Đức, dịch lại từ bản dịch của Aubaret - ấn bản 1863).
- Nguyễn Cửu Triêm con trai trưởng của Nguyên Cửu Vân.
Đ.N.N.T.C. ghi : “Triều ta, năm Ất Dậu, đời Duệ Tông thứ 15, đức Vua sai Thống suất Nguyên Cửu Vân vỗ an Cao Miên, đoạn khai khẩn vùng Cù Úc, lại hô hào quân dân cùng làm. Về sau con ông là Cửu Triêm xin được ăn lộc riêng khu ruộng ấy. Vua ưng chuẩn nên ruộng này gọi là ruộng Châu Phê.” (4)
- Nguyễn Cửu Đàm con thứ Nguyên Cửu Vân không rõ anh hay em bà Nghè. Ông để lại hai công trình lớn :
- Đắp lũy Bán Bích năm 1772 tạo thành vành đai phòng thủ phía Bắc Sài Gòn, khép kín từ kinh Tàu Hủ tới rạch Thị Nghè. Đ.N.N.T.C mô tả : “Lũy Bán Bích ở địa giới hai huyện Bình Dương và Tân Long dài 866 trượng, hình như nửa tấm vách. Lại có lũy đất dài 1.323 trượng. Tiền triều đốc chiến là Nguyên Cửu Đàm đắp, nền cũ hãy còn” (bản dịch của Tu Trai Nguyên Tạo).
- Cũng năm 1772, ông Đàm nạo vét kinh Ruột ngựa, sửa lại dòng chảy cho ngay thẳng.
- Và Nguyễn Thị Khánh - Bộ Đại Nam liệt truyện tiền biên của sử thần triều Nguyễn đề cập đến bốn đời dòng họ Nguyên Cửu, từ khi ông tổ trốn vào Nam giúp chúa Nguyễn, nhưng không dành cho bà Nghè một dòng nhỏ nào, kể cả trong mục liệt nữ. Trong khi đó hai bộ G.Đ.T.C và Đ.N.N.T.C. cho biết tên Khánh, nhưng không hề cho biết năm sinh và năm dựng cầu. Tuy nhiên căn cứ vào thời gian hoạt động của gia đình bà (1705 cha và anh cả đi đánh Cao Miên. Cũng năm đó anh bà ở lại trấn thủ Biên Hòa), ta có thể phỏng đoán mà không sợ sai : vợ chồng bà sinh vào khoảng cuối TK 17 hoặc đầu TK 18 và dựng cầu khoảng nửa đầu TK 18.
G.Đ.T.C. nói sơ về nhân thân của bà :
- Nguyên Cửu Vân : “Năm Ất Dậu đời Hiến Tông thứ 15 (tức năm 1706 - đúng ra là 1705) cam man (?) (Khâm sai) Nguyên Phước Vân dẫn lính thủy bộ đón đánh quân Xiêm. Thắng trận, ông về kinh báo công, để con trai trưởng là Triêm ở lại trấn thủ Biên Hòa... Năm Ất Vị (1716 - đúng ra là 1715) Vua ra thượng dụ ban phần đất tốt nhất đã khai khẩn cho Vân để thưởng công. Đám ruộng này khi ấy gọi là ”ruộng Châu Phê” và khúc rạch chảy ngang cũng là “rạch Châu Phê”” (G.Đ.T.C. - của Trịnh Hoài Đức, dịch lại từ bản dịch của Aubaret - ấn bản 1863).
- Nguyễn Cửu Triêm con trai trưởng của Nguyên Cửu Vân.
Đ.N.N.T.C. ghi : “Triều ta, năm Ất Dậu, đời Duệ Tông thứ 15, đức Vua sai Thống suất Nguyên Cửu Vân vỗ an Cao Miên, đoạn khai khẩn vùng Cù Úc, lại hô hào quân dân cùng làm. Về sau con ông là Cửu Triêm xin được ăn lộc riêng khu ruộng ấy. Vua ưng chuẩn nên ruộng này gọi là ruộng Châu Phê.” (4)
- Nguyễn Cửu Đàm con thứ Nguyên Cửu Vân không rõ anh hay em bà Nghè. Ông để lại hai công trình lớn :
- Đắp lũy Bán Bích năm 1772 tạo thành vành đai phòng thủ phía Bắc Sài Gòn, khép kín từ kinh Tàu Hủ tới rạch Thị Nghè. Đ.N.N.T.C mô tả : “Lũy Bán Bích ở địa giới hai huyện Bình Dương và Tân Long dài 866 trượng, hình như nửa tấm vách. Lại có lũy đất dài 1.323 trượng. Tiền triều đốc chiến là Nguyên Cửu Đàm đắp, nền cũ hãy còn” (bản dịch của Tu Trai Nguyên Tạo).
- Cũng năm 1772, ông Đàm nạo vét kinh Ruột ngựa, sửa lại dòng chảy cho ngay thẳng.
- Và Nguyễn Thị Khánh - Bộ Đại Nam liệt truyện tiền biên của sử thần triều Nguyễn đề cập đến bốn đời dòng họ Nguyên Cửu, từ khi ông tổ trốn vào Nam giúp chúa Nguyễn, nhưng không dành cho bà Nghè một dòng nhỏ nào, kể cả trong mục liệt nữ. Trong khi đó hai bộ G.Đ.T.C và Đ.N.N.T.C. cho biết tên Khánh, nhưng không hề cho biết năm sinh và năm dựng cầu. Tuy nhiên căn cứ vào thời gian hoạt động của gia đình bà (1705 cha và anh cả đi đánh Cao Miên. Cũng năm đó anh bà ở lại trấn thủ Biên Hòa), ta có thể phỏng đoán mà không sợ sai : vợ chồng bà sinh vào khoảng cuối TK 17 hoặc đầu TK 18 và dựng cầu khoảng nửa đầu TK 18.
G.Đ.T.C. nói sơ về nhân thân của bà :
“Con rạch tên Bà Nghè, nguyên vì lấy tên
con gái một vị quan lớn, khâm sai của Vua tên Vân. Bà
trước khi lấy chồng tên Nguyên Thị Canh, nhưng sử gọi
trệch là bà Nghè, vì bà là người đầu tiên đã lập
ra vùng này, bà dựng một cái cầu để có thể thông
thương với Thành. Chiếc cầu đó được gọi là cầu Bà
Nghè, chẳng bao lâu con rạch cũng lấy tên ấy” (dịch
lại từ Aubaret).
Tài liệu này cũng cho biết tên của
bà. Tuy nhiên Aubaret đã phiên âm sai. Các học giả Pháp
thường bỏ bớt phụ âm h - theo họ là h câm - chẳng hạn
Bình Thuận âm thành Binh Tuân. Tên thật bà là Nguyễn
Thị Khánh.
2
- Mục đích làm cầu : thương chồng ?
Các
bộ sách cổ đều nói chung chung, làm cầu để :
-
Thông thương với thành (G.Đ.T.C)
- Giúp khách qua sông (Đ.N.N.T.C)
- Giúp khách qua sông (Đ.N.N.T.C)
Năm
1960 trong Đất Việt trời Nam, Thái Văn Kiêm nói rõ
hơn:
“Thị Nghè là tên của bà Nguyên Thị Canh, con
của Vân Trường hầu và làm vợ của ông Nghè làm việc
ở dinh Tổng Trấn. Muốn chồng mình đi làm việc khỏi
phải chèo đò sang sông, bà mới xuất tiền làm một cái
cầu gỗ” (trang 381).
Rõ
ràng khi viết Nguyên Thị Canh, tác giả đã dựa vào bản
dịch của Aubaret và giữ nguyên cách phiên âm sai. Tuy
nhiên ông lại suy diễn thêm về mục đích làm cầu :
thương chồng, một mục đích riêng tư. Chi tiết này
không hề có trong các bộ sử lịch triều.
3
- Thấp thoáng bóng ông Nghè
Sách
vở cổ bỏ quên ông Nghè, nhưng cùng với Thái Văn Kiểm
và cùng năm 1960, một nhà văn khác cho ta đôi nét : “Chồng
bà là một ông Nghè chính cống, làm lại mục trong dinh
Tả quân. Bà thương chồng sang đò cực thân nên tu kiều.
Âm đức lưu truyền đến ngày nay” (Vương Hồng Sển -
Sài Gòn năm xưa).
Nhân
vật ông Nghè được phác họa. Nhưng ở đây lại có hai
điểm đáng ngờ.
a
- Ông Nghè chính cống.
Nghè
chuyên nghĩa là phòng làm việc trong cung (gọi là các, nội
các). Từ đó Nghè còn chỉ những người làm việc trong
các. Triều Lê lấy chân Tiến sĩ, bởi thế Tiến sĩ cũng
được gọi là ông Nghè. Nói theo cách cụ Sển : ông Nghè
chính cống tất phải hiểu là Tiến sĩ. Tuy nhiên đời
Nguyễn, nhân viên trong các không cần đậu Tiến sĩ. Lý
do :
Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược cho biết
:
“Năm Đinh Hợi (1674) chúa Nguyên mở khoa thi gọi là
thi Chính đồ và thi Hoa văn... Thi Chính đồ... những
quyển đậu thì chia làm ba hạng : hạng thứ nhất gọi
là giám sinh, được bổ làm tri phủ, tri huyện.
Năm Ất
Hợi (1695)... mở khoa thi... văn chức và thi tam ti...
Năm
Canh Thân (1740) Vũ Vương Nguyên Phúc Khoát định lại phép
thi: những người đậu kỳ... đệ tứ gọi là Hương
cống, được bổ làm tri phủ, tri huyện”> (sđd -
tr.76).
Và Dương Quảng Hàm trong Việt Nam văn học sử
yếu :
“Trong đời Gia Long chưa mở khoa thị Hội. Mãi
đến năm 1822, vua Minh Mạng mới mở khoa thi Hội đầu
tiên : các Tiến sĩ cũng chia làm ba giáp như đời Lê”
(sđd - trang 87).
Như vậy hơn hai thế kỷ rưỡi, từ
1558 Nguyễn Hoàng vào Nam, đến 1822 triều Nguyễn không
cấp học vị Tiến sĩ và chồng bà Nghè sinh khoảng đầu
thế kỷ 18, tất nhiên không thể là ông Nghè chính cống
được.
b
- Làm lại mục trong dinh Tả quân. Dinh Tả quân Lê Văn
Duyệt hoạt động từ năm 1813 – 1832, như vậy nếu làm
việc trong dinh Tả quân, tất lúc đó ông phải tròm trèm
100 tuổi.
II
- Thị Nghè, địa giới
1
- Thị Nghè trên bờ trái sông Bình Trị
G.Đ.T.C
: “Bà là người đầu tiên lập ra vùng này và đã dựng
một cái cầu để thông thương với thành”. Như vậy
khởi thủy Thị Nghè là vùng đất bên bờ trái sông Bình
Trị.
Cụ
Vương Hồng Sển cho biết: nhân lễ Trùng ngũ (mồng 5
tháng 5) Tả quân xuất hành để hành lễ “tịch điền”
bên Thị Nghè (Sđd). Khu Tịch điền gần nhà Dưỡng lão
bên kia cầu. Chi tiết của cụ Sển chứng minh điều đã
nói trên.
2
- Thị Nghè vượt qua bờ phải
Thời
bà Nghè, vùng đất này gói gọn bên bờ trái như hiện
nay. Tuy nhiên Thị Nghè là một đơn vị dân cư, không
phải địa bàn hành chánh, nên không có ranh giới cố
định và Thị Nghè đã... vượt sông.
Silvestre
trong l’Empire d’Annam et le peuple annamite (ấn bản 1889)
cho biết:
“Nguyễn Ánh một lần nữa lại làm chủ Sài Gòn, nhà chúa lập hành dinh ở đồn Bình Dương, quen gọi là Thị Nghè.” (5)
“Nguyễn Ánh một lần nữa lại làm chủ Sài Gòn, nhà chúa lập hành dinh ở đồn Bình Dương, quen gọi là Thị Nghè.” (5)
Thời
chúa Nguyễn ở Sài Gòn toàn bộ công thự, hành quán tập
trung trong phạm vi giữa rạch Thị Nghè và kinh Tàu Hủ,
những đồn ngoại biên như Tả Định, Hữu Bình không
phải là nơi chúa đóng dinh. Như vậy cuối TK 18, Thị
Nghè bao gồm phần đất cả hai bên bờ. Sự phát triển
theo chiều rộng vùng đất này gắn liền với một họ
đạo : họ Thị Nghè.
Thừa
sai Louvet khi viết về đám tang Gíam mục Bá Đa Lộc đã
cho những chi tiết cụ thể :
“Ngày 16.10, đám tang đã
về tới Sài Gòn, linh cữu được hạ từ trên tàu xuống
đất và rước tới tòa Giám mục, lúc đó nằm trong họ
đạo Thị Nghè, cạnh cầu Avalanche, không xa chỗ hiện
nay là kho thuốc súng.” (6) (7)
Dựa vào ảnh hưởng của Đức cha Bá Đa Lộc, dân Công giáo các nơi đã tập trung xung quanh tòa Giám mục, mở rộng phạm vi họ đạo Thị Nghè. Tòa Giám mục lúc đó là dinh Tân Xá, nằm bên trái viện bảo tàng trong sở thú hiện nay.
Dựa vào ảnh hưởng của Đức cha Bá Đa Lộc, dân Công giáo các nơi đã tập trung xung quanh tòa Giám mục, mở rộng phạm vi họ đạo Thị Nghè. Tòa Giám mục lúc đó là dinh Tân Xá, nằm bên trái viện bảo tàng trong sở thú hiện nay.
Silvestre
xác định :
“Giữa mặt Đông - Bắc thành và rạch
Thị Nghè là tư dinh Gm. Bá Đa Lộc nằm tại trung tâm một
khu vực lúc ấy tất phải là họ Thị Nghè (Silvestre -
Sđd - trang 296). (8)
Ba
dữ liệu trên cho phép chúng ta kết luận tới cuối TK
18, khu vực dân cư Thị Nghè bao quát một vùng rộng lớn
cả trên bờ trái lẫn bờ phải con rạch.
3
- Thị Nghè, bước tiến, bước lui
Liền
sau đoạn trích văn trên. Silvestre viết tiếp :
“Khu
vực này - họ Thị Nghè - từ bên kia sông, lại bị đẩy
lui một lần nữa, sau cuộc nổi loạn của Lê Văn Khôi
và Minh Mạng tái chiếm Sài Gòn” - Sđd (9).
*
Đợt 1 : Khi Nguyễn Ánh lập thủy trại tại vàm Thị
Nghè.Louvet viết : “Từ cuối năm 1789, vua Đàng Trong đã
có ba chiếc tàu Âu châu lớn... Ở Sài Gòn người ta lập
một thủy trại đóng tàu, hàng năm xuất xưởng nhiều
chiến thuyền và cả những tàu kiểu Tây” (Louvet - Sđd.
Cuốn I, trang 439) (10).
* Đợt 2 : Khi quân triều đánh
tan Lê Văn Khôi, Minh Mạng ra lệnh phá thành Quy (11), xây
thành Phụng gần rạch Thị Nghè (năm 1836). Đại bộ phận
khu hữu ngạn bị giải tỏa. Hơn nữa giáo dân phải bỏ
nhà cửa đào tẩu, trước dụ cấm đạo gay gắt của
Minh Mạng.
* Đợt 3 : Giáo sư Trần Văn Giàu cho biết
Pháp dời “làng Đà Nẵng” từ vàm Thị Nghè về phía
cầu Bông để có chỗ xây dựng một xưởng sửa chữa
tàu, ta gọi là Ba Son (Địa chí văn hóa Tp. Hồ Chí Minh,
tập I - trang 258).“Làng Đà Nẵng” do giáo dân Đà Nẵng
chạy theo Pháp vào Sài Gòn (1859) lập. Đám giáo dân này
dời về Đa Kao, bởi thế người Pháp quen gọi Đất Hộ
- Đa Kao là Tourane.
Tới
đây toàn bộ Thị Nghè bên bờ phải đã bị giải tỏa
trắng.
III
- Thị Nghè, thời hậu giải tỏa và cuộc đấu xảo năm
1866
Pháp
chiếm Sài Gòn, bờ phải không còn cư dân. Pháp nới rộng
thủy trại triều Nguyễn thành Hải quân công xưởng
(Arsenal) với quy mô rất lớn.
Năm 1864 lập vườn Bách
Thảo. Lúc đầu vườn Bách Thảo không rộng như hiện
thời, mặt phải giới hạn bởi đường Nguyên Du
(Taberd). Từ Nguyên Du tới Nguyên Thị Minh Khai (Route de
Biên Hòa, sau đổi thành Chasseloup-Laubat) dùng làm tổng
kho (Magasins généraux).
Trong khuôn viên này, năm 1866 Pháp
đã tổ chức cuộc đấu xảo canh nông và công nghệ đầu
tiên ở Sài Gòn với sự tham dự của các tỉnh Vĩnh
Long, Hà Tiên, An Giang và Cao Miên.
Trong
biên khảo về Tôn Thọ Tường (ấn bản 1942), ông Khuông
Việt đã dành trọn bảy trang mô tả cuộc đấu xảo này
:
“Dựa bờ rạch Thị Nghè, day mặt ra Route de Biên
Hòa, một dãy nhà cây lợp ngói mà xưa nay ai cũng biết
là nhà kho chứa khí cụ của sở thủy quân, hôm nay lại
được trang hoàng thanh nhã” (trang 47)
Cuộc đấu xảo
khai mạc từ 25.1.1866, kéo dài tới hết ngày 3 tháng 3,
ngày 4 phát giải. Ngoài thống đốc De La Grandière, còn có
hầu đủ các vị tai to mặt lớn Pháp, Việt, Hoa của Sài
Gòn thuộc địa. Hơn 700 món hàng được trưng bày gồm
thổ sản trong xứ, gia súc các loại, các máy móc công
nghệ tây phương. (theo Khuông Việt)
Cuộc đấu xảo một mặt biêu lộ sức mạnh của giai cấp thống trị, mặt khác nó cũng làm sống dậy tinh thần tự lực, tự cường của những người có tâm huyết với sự tồn vong của đất nước.
Cuộc đấu xảo một mặt biêu lộ sức mạnh của giai cấp thống trị, mặt khác nó cũng làm sống dậy tinh thần tự lực, tự cường của những người có tâm huyết với sự tồn vong của đất nước.
Ngày
nay nếu đặt cây cầu gỗ 9 thước của bà Nghè bên cạnh
chiếc cầu đúc hiện đại, chúng ta sẽ hình dung được
mức độ phát triên của Thị Nghè qua bao gian khổ.
No comments:
Post a Comment