Trùng Dương
Các tín đồ Thiên Chúa và Phật giáo hiệp lời cầu nguyện cho các thuyền nhân bỏ mình trên đường đi tìm tự do trong khuôn viên chùa Phật giáo tại Đồi Tôn Giáo trên đảo Bidong, Malaysia, ngày 6 tháng Tư, 2017. (Ảnh Trùng Dương)
Cuối tháng Ba, đầu tháng Tư vừa qua chúng tôi, Trùng
Dương và Trần Mộng Tú, cùng tháp tùng có anh Frank Pease, phu quân của
Tú, có dịp tham dự chuyến viếng thăm mộ phần của các thuyền nhân Việt tử
nạn trên đường vượt biển trong vùng Đông Nam Á vào các năm cuối thập
niên 1970 và đầu thập niên 1980 sau khi Cộng sản chiểm lĩnh Miền Nam.
Hành trình tìm tự do của trên 800 ngàn thuyền nhân, với ước tính 400
ngàn bỏ mạng trên biển, theo thống kê của Liên Hiệp Quốc, đã làm nên bộ
sử thuyền nhân Việt Nam, mà các mộ phần của họ là chứng tích lịch sử
không thể xoá nhoà.
Chuyến đi của chúng tôi do một nhóm thân hữu tổ chức,
với anh Lê Hùng ở Canada tình nguyện hướng dẫn, cùng với sự hỗ trợ tình
nguyện đắc lực của nhiều anh chị em đã từng sinh hoạt và tham dự các
chuyến đi trước đó của nhóm Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam, trụ sở đặt tại
Úc; và đặc biệt là phần thông dịch và hướng dẫn tại mỗi dịa phưong của
ba cô bé sinh ra và lớn lên sau 1975 ở Việt Nam hiện làm việc tại vùng
Đông Nam Á, song gần đây mới có dịp biết tới lịch sử thuyền nhân Việt.
Chúng tôi, gồm 56 người từ Canada, Mỹ, Úc, và một đôi
người từ Việt Nam, gặp nhau ở Hatyai, một tỉnh phía nam Thái Lan sát
biên giới Mã Lai, rồi cùng đáp xe buýt đi Songkla, một trại tị nạn cũ từ
1978 tới 1983, khoảng 28 km/17 miles về phía đông bắc. Sau khi thăm
viếng vùng này, chúng tôi đi Tha Sala, cách Songkla khoảng trên 2 tiếng
lái xe về phía bắc. Tha Sala nằm ven biển, gần đây đã phát triển thành
khu du lịch, nơi ghi dấu nhiều xác thuyền nhân Việt trôi giạt vào bờ vào
các năm sau biến cố 30 tháng Tư, 1975. Bi thương hơn cả là chuyện 11
xác các cô gái, mà người địa phương cho là từ Việt Nam, không một mảnh
vải che thân, cổ bị giây thừng cột vào nhau, trôi giạt vào vùng này, có
lẽ vào thời khoàng từ cuối thập niên 1970 tới đầu thập niên 1980. Họ,
cũng như nhiều xác thuyền nhân khác trôi giạt vào đây, đã được dân địa
phương vớt lên, chôn cất, và, theo lời khuyên của các vị sư Thái, đã
dựng miếu thờ vong linh của họ tại Tha Sala, cùng với một mảnh ván
thuyền mà một gia đình Thái tìm thấy được bị chôn vùi dưới cát khi họ
đào móng xây nhà.
Sau khi thăm hai địa đỉểm Songkla và Tha Sala, chúng
tôi về nghỉ đêm tại chùa Wat Samphreak gần đó. Sáng sớm hôm sau ra bãi
đáp thuyền nhỏ đi đảo Koh Kra. Mò mẫm trên bãi cát dưới ánh đèn lập loè
tìm thuyền của nhóm mình, vài anh chị em cựu thuyền nhân không khỏi buột
miệng nói, cứ như là đi vượt biên ấy thôi. Mặc dù không phải thuyền
nhân, vì cả hai chúng tôi đi từ trước ngày Sài Gòn tan hàng, chúng tôi
cũng cảm thấy cái phập phồng của người sắp đi biển giữa đêm tối. Koh
Kra, một hòn đảo hoang cách Tha Sala 80 km/50 miles, song đã trở thành
một địa danh quen thuộc từ sau khi, vào năm 1979, một nhóm trên 100
thuyền nhân bị hải tặc Thái giam giữ và hành hung đã được ông Ted
Schweitzer của Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc giải cứu, chấm dứt việc hòn
đảo kinh hoàng này được dùng làm sào huyệt nơi hàng ngàn thuyền nhân
không may đã bị hải tặc bắt giam, với trên 100 người đã bị bỏ mạng.
Trong số những người được giải cứu có nhà văn Nhật Tiến và cặp phóng
viên Dương Phục và Vũ Thanh Thủy, và qua những bài viết của họ, Koh Kra
đã trở thành một địa danh đáng kể trong lịch sử thuyền nhân. Hai ký giả
Vũ Thanh Thủy và Dương Phục cùng có mặt với chúng tôi trong chuyến đi
thăm lại đảo Kra lần đầu. Chuyến đi Koh Kra phải rút ngắn lại một đêm và
một ngày vì trời nổi bão, buộc chúng tôi phải nhổ trại trở về đất liền
sau một đêm ngủ dưới mưa. May không ai bị đau ốm gì, trừ việc Trùng
Dương bị một chú rết tặng cho hai vết cắn ở đùi và ngón tay cái bên phải
vì tội “xâm phạm gia cư.” Nhờ mũi thuốc chích của Linh mục Bác sĩ Phạm
Tâm (từ Houston) mà TD đã mau chóng bình phục ngay sáng hôm sau để tiếp
tục cuộc hành trình.
Sau một ngày nghỉ ngơi để lấy lại sức ở Hatyai, đặc
biệt cho nhóm ba người chúng tôi vì là lớn tuổi nhất trong đoàn, phái
đoàn còn lại 33 người lên đường vượt biên giới qua Mã Lai. Trong số
những quốc gia ở Đông Nam Á đã phải nhận cưu mang thuyền nhân Việt, Mã
Lai là nước lãnh một số thuyền nhân lớn nhất, với 254,495 người từ 1975
tới 1995, không kể những người chết trên biển và xác trôi giạt vào bờ.
Vì bờ biển miền đông đối diện với mũi Cà Mâu của Việt Nam ở xế phía đông
bắc và vì luồng nước biển chạy từ bắc xuống bọc theo bờ biển phía đông,
Mã Lai cũng là nơi duy nhất trong vùng gặp nhiều xác giạt vào bờ, với
nhiều mồ chôn tập thể cả trăm thuyền nhân. Phái đoàn chúng tôi đã đi
thăm các khu mộ tập thể gồm: Một mộ tập thể 46 người, gồm cả ba trẻ em,
một gái hai trai, ở Balai Bachok trong tỉnh Kelatan, kế đó là mộ tập thể
123+5, gồm 123 người chết cùng trên chuyến tầu chở 46 người chết xác
chôn trong mộ tập thể kể trên, và năm xác thuyền nhân được rời từ một
nghĩa trang khác đến. Mộ 123+5 này nằm tại Cherang Ruku, cũng trong tỉnh
Terengganu. Theo Victorian Collections, tại https://victoriancollections.net.au/items/519fee332162ef049c4826f4,
thì con số đúng ra là 139 + 49 thuyền nhân bị thiệt mạng. Danh sách
những người bị chết đuối ghi trên các mộ bia là những tên mà Cao ủy Tị
Nạm Liên HIệp Quốc đã có thể tìm thấy, số còn lại vô danh. Cả hai khu mộ
tập thể này gồm những người đi trên cùng một chuyến tầu mang số MT065,
với tổng cộng là 300 người, phát xuất từ Mỹ Tho ngày 1 tháng Mười Hai,
1978, và tới gần bờ biển Mã Lai ngày 4 cùng tháng thì bị bão lật thuyền.
Trên chuyến tầu này có gia đình một nhà giáo nay là nhà văn nổi tiếng,
Nguyễn Ngọc Ngạn. Vợ con ông không may bị chết đuối, riêng ông bất tỉnh
và được sóng đưa vào bờ, sống sót. Xác hai mẹ con hiện nằm trong khu mộ
tập thể 123+5.
Cũng tại tỉnh Terengganu chúng tôi được hướng dẫn đi
thăm khu nghĩa trang khá rộng của người Hoa, tại đây có vài nấm mộ
thuyền nhân tập thể, và nhiều nấm mộ cá nhân. Linh mục Bác sĩ Anthony
Phạm Tâm, vị đại diện tôn giáo từ Houston còn tiếp tục với đoàn sau khi
các linh mục Nguyễn Hùng (từ Đài Loan), Phạm Hồng (từ Úc), và các vị Hoà
Thượng Thích Huyền Việt (từ Houston) và Thầy Tây Tạng Geshe Gawa (từ
Úc) đã rời đoàn sau chuyến đi Koh Kra để trở về nhiệm sở. Linh mục Tâm
đã cử hành một buổi lễ ngay tại nghĩa trang. Đồng cử lễ theo nghi thức
Phật giáo có anh Ngô Đức Hữu, từ Úc, với lời kinh rất cảm động rút ra từ
đạo Ông Bà mà anh đã chép lại cho chúng tôi, nói là do đồng tử (nhà lên
đồng) truyền lại từ năm 1930, nên có nhiều danh từ lạ, song vẫn gây xúc
động nơi người nghe.(*)
Trong thời gian ở Terengganu, chúng tôi đi thăm nghĩa
trang khu F trên đảo Bidong, nằm ở ngoài khơi về phía đông mất khoảng
20 phút thuyền cao tốc. Bidong nguyên là một hòn đảo hoang tới khi trở
thành nơi chứa thuyền nhân Việt. Trong vòng từ tháng Năm 1975 tới khi
đóng trại vào tháng Mười 1991, có tổng cộng trên 250,000 thuyền nhân đã
sinh sống tại đây. Nhiều người đã bỏ mình trên đảo, nhiều người khác
chưa tới đảo thuyền bị đắm đã chết đuối ngoài xa và xác giạt vào bờ. Họ
được chôn tại nhiều nghĩa trang trên đảo, song đông nhất là tại khu F,
nơi trên 250 nấm mồ đang bị cỏ dại và cây cối nhiệt đới bao phủ. Trên
đảo còn có một khu gọi là Đồi Tôn Giáo, nơi có các ảnh tượng Thiên Chúa,
Phật, Tin Lành và Cao Đài. Các tượng Phật, Chúa bị phá hoại, cắt đầu.
Có người suy đoán là tại người Mã Lai, với đại đa số theo đạo Hồi, vốn
không tin việc thờ tượng.
Dù vậy, vì đảo Bidong thuộc thẩm quyền của Viện Bảo
tàng Terengganu, nên một số anh em trong phái đoàn hành hương đã được
ban giám đốc Viện Bảo Tàng tiếp xúc riêng để tham khảo về dự án phát
triển đảo Bidong thành một đảo Di sản (Heritage) nhằm đón tiếp du khách
tới hành hương. Tưởng cũng cần nhắc qua là Nam Dương đã thực hiện một dự
án tương tự, đó là biến khu trại Việt Nam trên đảo Galang thành Công
viên Tưởng niệm (Memorial Park), nơi có một nghĩa trang với 503 mộ phần.
Hầu hết những phần mộ thuyền nhân tại vùng Đông Nam Á đã và đang được
Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam, với sự đóng góp của đồng hương khắp nơi,
và dưới sự hướng dẫn kiên trì của anh Trần Đông, sự tiếp tay đắc lực của
nhiều thân hữu khác, đặc biệt của nhà báo Lưu Dân, để tìm kiếm và trùng
tu các mộ phần này, từ 2005 tới 2015.(**)
Trong khi chúng tôi thăm viếng khu nghĩa trang
Terengganu, một vị nữ lưu người Mã gốc Hoa, bà Alice Wong, quả phụ của
ông Alcoh Wong, tác giả cuốn sách độc đáo và đầy thông tin giá trị, “The
Guidebook of the Graveyards of the Vietnamese Boat People (VBP) along
the East Coast of Malaysia Peninsula,” nghe tin có phái đoàn người Việt
tới thăm nghĩa trang. Bà tất tả đem theo một số ấn bản cuốn sách, do
chồng bà soạn, ra nghĩa trang tìm gặp phái đòan chúng tôi, mừng mừng tủi
tủi như gặp lại cố nhân, mặc dù đa số người trong đoàn chưa hề gặp bà.
Sáng hôm sau, trước khi đáp thuyền đi Bidong, phái đòan hành hương ghé
viếng mộ ông Wong. Bà Wong còn gặp chúng tôi nhiều lần sau đó, lại còn
xuống cả Kuala Lumpur, cách nơi bà ở cả 450 km/280 miles, là trạm cuối
cùng của chuyến hành hương 10 ngày của chúng tôi, bịn rịn chia tay, như
thể qua chúng tôi, bà thấy lại được tất cả công trình và quan tâm của
nguời chồng qua đời cách đây đã cả chục năm. Và chúng tôi cũng thấy nơi
bà thể hiện tình nhân loại bất kể chủng tộc mà chồng bà đã gửi gấm vào
cuốn sách tài liệu vô giá cho bộ sử thuyền nhân. Phóng viên Trần Ngọc Ân
của đài Little Saigon có đem về trên 200 cuốn. Độc giả nào muốn có sách
tham khảo thì liên lạc với chị tại số 949-690-8187, hay qua điện thư
đến ngocan@littlesaigonradio.com.
Sau gần một tuần ở bên bờ biển miền đông Mã Lai,
chúng tôi đáp xe buýt đi Kuala Lumpur ở tây nam bán đảo. Dọc đường phái
đoàn ghé nghĩa trang tỉnh Dungun, cũng trên bờ biển miền đông, thăm các
khu mộ tập thể thuyền nhân tại đây, và một khu mộ dành cho người di dân ở
Kuantan, nơi có khoảng 40 xác thuyền nhân được mai táng trong các ngôi
mộ cá nhân. Đây là một nghĩa trang đặc biệt, do Nhà thờ Thiên Chúa St.
Thomas ở Kuantan trông coi -- đặc biệt ở chỗ nó nằm lọt trong khu bao
quanh bởi một ngôi chùa Phật giáo mới xây rất lớn, một thánh đường Hồi
giáo, và một nhà thờ Thiên Chúa giáo. Quả không gì an ủi hơn được an
nghỉ trong vòng tay bao bọc của ba tôn giáo lớn thế giới.
Chuyến đi của chúng tôi kết thúc bằng một buổi viếng
thăm Hội Hồng Nguyệt, Red Crescent Society of Malaysia. Người Hồi không
dùng chữ Hồng Thập Tự, mà dùng mảnh trăng lưỡi liềm làm biểu tượng cho
hội của họ, nên gọi là Hội Hồng Nguyệt. Tại đây lưu trữ trên 200,000 hồ
sơ của thuyền nhân. Phái đoàn được Hội Hồng Nguyệt cho phép tham khảo
các hồ sơ này. Trong căn phòng nhỏ bé bao quanh bởi những tủ hồ sơ bằng
sắt đã bắt đầu han rỉ dựng kín mấy bức tường, các thành viên bận rộn tìm
kiếm hồ sơ của mình và thân nhân. Có những tiếng reo vui của những
người tìm thấy hồ sơ của mình hay thân nhân, xen lẫn tiếng nghẹn ngào
của vài người không ngăn được xúc cảm khi nhìn thấy tấm lý lịch của mình
ba thập niên về trước, đưa họ trở lại thời kỳ vượt biển và đời sống
gian khổ nhưng chứa chan hy vọng trong trại ti nạn, không như tại quê
hương họ mà họ đã bỏ lại phía sau.
Tóm lại, chúng tôi không khỏi xúc động khi nhìn những
mộ phần thuyền nhân, đặc biệt những nấm mồ tập thể. Khó có thể tưởng
tượng nổi tâm tình của những người dân Mã Lai sống dọc theo bờ biển miền
đông của bán đảo Mã, một buổi sáng nào đó thức dậy thấy hàng trăm xác
thuyền nhân trôi giạt vào bờ, như còn tức tưởi, mong được chôn cất. Và
phần mộ của họ đã được những con người tuy không cùng chủng tộc nhưng
đầy từ tâm, như ông Wong, ghi chép giữ lại, và sau nhiều năm đã được
chính đồng bào của họ, sau khi đã ổn định đời sống riêng nơi quê hương
thứ hai, tìm tới, trùng tu và bảo trì. Điều nổi bật trong tâm khảm hai
chúng tôi, những người không trực nghiệm kinh nghiệm thuyền nhân, là
những thuyền nhân xấu số tuy không tới được bến bờ tự do, nhưng những
cái chết bi thương của họ đã không phải là những cái chết vô ích, và
những nấm mồ của họ đã nói lên tình nhân loại không biên giới. Trên tất
cả, chúng là chứng tích hùng hồn của một giai đoạn lịch sử không thể xóa
bỏ, mặc dù những nỗ lực của một chế độ phi nhân vốn đã là giềng mối đẩy
họ đi vào cái chết.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ… Câu thơ
của nhà thơ Quang Dũng đã trở lại trong chúng tôi, với rất nhiều ngậm
ngùi. Nhưng chúng tôi không còn bi quan. Vì chính những mộ viễn xứ này
đã giúp bảo tồn một mảnh lịch sử không chỉ của Việtt Nam, mà còn của cả
nhân loại.
Xin chân thành cám ơn dân tộc các nước trong vùng ĐNA
đã giúp đỡ người các thuyền nhân Việt, nhất là giúp an bài những người
không may tử nạn. Chân thành cám ơn ban tổ chức đã giúp thực hiện chuyến
đi hành hương đầy tình người này. Cám ơn sự chân tình của các nhóm
viên, đặc biệt sự thăm hỏi của các bạn đồng hành dành cho hai chúng tôi
và anh Frank, có lẽ là ba người lớn tuổi nhất trong đoàn. Riêng cám ơn
anh Lê Hùng và các cô hướng dẫn địa phương đã hết sức tận tâm với mọi
người trong phái đòan. Chúng tôi không nhớ đã có nghe ai phàn nàn điều
gì -- hay có mà không để bận tâm vì những tình tự đã ứ đầy?
[TD&TMT, 04/2017]
______________
Chú thích:
(*) Bài cầu nguyện do anh Ngô Đức Hữu (Úc) chép tay
cho: “Khấu đầu cầu xin Ơn Trên cho vong linh về đây chứng giám. Xin thần
linh điển linh soi sáng. Cầu Nam Tào chứng bảng trở về. Nghe kinh dạ
bớt ủ ê. Cầu xin Địa Tạng dẫn về chứng tri. Cầu Thượng đế từ bi hỉ xả.
Cho linh hồn ổn thoả nghe kinh. Cầu xin giảm bớt tội tình. Cho vong nhàn
hạ nhẹ mình thảnh thơi. Cảnh ly biệt hỡi ôi thê thảm. Đức Thần Minh
phất phưởng tràn phang. Cho hồn noi đó nhẹ nhàng. Trở về cứu vị an nhàn
hưởng vui. Đầu cúi lạy cao ngôi Thượng Đế. Đức Diên Cung chúa tể nữ lưu.
Ngũ chi Tam giáo họa phù. Cho vong chứng kiến hưởng cùng nữ nam.”
(**) Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam: https://readtiger.com/www.vnbp.org/
Hình ảnh
Songkla, Thái Lan
Trái, trại Songkla trước, từ 1978 tới 1983, khi còn
là trại tị nạn. (Ảnh Internet, của Cha Joe Devlin/Prof. Larry Engelmann)
Phải, Songkla ngày nay, theo một số người trong đoàn đã từng ở đây, dấu
vết duy nhất là cái miệng giếng hiện đã bi biển xâm thực nằm cách bờ
vài chục thước. (Ảnh Trùng Dương, 2017)
Các phóng viên tháp tùng đoàn hành hương đang quay phim phỏng vấn Hoà thượng Thích Huyền Việt (Houston), trái. Phải, nhà thơ Trần Mộng Tú đang ghi chú những vật thờ cúng vong linh mà người dân Thái đem tới đặt ở gốc cây thùy dương bên bãi biển Songkla. (Ảnh TD, 2017)
Trái, các thành viên trong đòan hành hương lắng nghe
Hòa thượng Thích Huyền Việt niệm kinh. Người đứng bên phải là Linh mục
Nguyễn Văn Hùng đến từ Đài Loan. Phải, phái đòan chụp hình lưu niệm bên
gốc cây thờ vong linh. (Ảnh TD, 2017)
Tha Sala, Thái Lan
Tha Sala, ở phía bắc cách Songkla 214 km/134 miles,
nguyên là vùng biển chưa được khai thác vào cuối thập niên 1970, là nơi
có nhiều xác thuyền nhân trôi giạt vào, trong số đó có 11 cô gái không
một mảnh vải che thân cổ bị cột giây thừng buộc chùm vào nhau, mà nguời
địa phương đoán là người Việt. Bà cụ người Thái, giữa, kể chính bà nhìn
thấy xác các cô gái khi bà còn vị thành niên. Một vị sư Thái khuyên bà
lập am thờ các vong linh. Am đã bị bão đánh xập, nay chỉ còn mấy bậc
thềm lát gạch đỏ, hình bên trái, nơi phái đòan hành hương đang cầu
nguyện. Hàng ngày bà cụ vẫn đem đồ cúng và nhang đèn tới cúng các vong
linh, phải. (Ảnh TD, 2017)
Koh Kra, Thái Lan
Trái, phái đòan hành hương nghỉ đêm tại một ngôi chùa
trong tỉnh Nakhon Si Thammarat ở miền nam Thái Lan, để sáng sớm hôm sau
đáp thuyền đi Koh Kra từ bãi làng đánh cá Hua Sai, giữa và phải. (Ảnh
TD, 2017)
Trái, thuyền cặp đảo san hô Kra sau gần 4 tiếng vượt
sóng. Các đoàn viên nhanh chóng chia nhau nhóm dựng lều trại, giữa, nhóm
dọn dẹp khu nghĩa trang nhỏ, nơi có vài xác vùi chôn, phải. Trong lúc
dọn dẹp, họ tìm thấy ít xương và một hàm răng người, có lẽ là người chết
chỉ được vùi nông vội vàng trên hòn đảo nổi tiếng là “kinh hoàng” vì là
nơi hải tặc dùng làm sào huyệt giam giữ và bạo hành cả ngàn thuyền nhân
bị lùa vô hòn đảo hoang này vào các năm giữa 1975 tới 1979, là năm ông
Ted Schweizer thuộc Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc giải cứu trên một trăm
nạn nhân. (Ảnh TD, 2017)
Trái, nhà báo Lưu Dân, người đã tới đảo Koh Kra trong
chuyến hành hương năm ngoái do Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam tổ chức,
giải thích về nguồn gốc của tấm bia. Bia được dựng vào năm 2012 do một
nhóm cựu thuyền nhân, Sea Rescue Foundation, để thay thế cho một cái bia
đã cũ, mầu đen không còn rõ chữ nữa, do một nghiên cứu sinh tiến sĩ
người Đức tới đây khoảng năm 2000 hay sớm hơn, do đã xúc động trước thảm
cảnh thuyền nhân nên dựng bia tưởng niệm. Tấm bia đó đã bị thất lạc.
Tấm thay thế trên khắc những dòng chữ tạm dịch: “Trong sự tưởng nhớ hàng
ngàn người tỵ nạn Việt Nam bị bỏ rơi, xâm hại, tra tấn và thậm chí giết
chết trên đảo Koh Kra này. Cầu mong nỗi khổ đau của họ không bao giờ bị
lãng quên. Với lời biết ơn chân thành gửi đến Ông Ted Schweitzer, người
đã có công cứu mạng hàng ngàn người tỵ nạn bị bỏ rơi.” Cũng vào chuyến
đi năm ngoái, VKTNVN có gắn lên một vách đá một tấm bia cảm ơn nhân dân
và chính quyền Thái Lan đã giúp cưu mang thuyền nhân Việt. Hình giữa và
phải, chuẩn bị tượng Chúa, những phiến gạch men có in hình và thơ của
Trần Mộng Tú, để gắn lên vách đá. (Ảnh TD, 2017)
Các đoàn viên chuẩn bị lồng đèn cho buổi lửa trại hoa
đăng. Dự tính đó đã không diễn ra vì có tin bão, khiến sau có một đêm
chịu trận mưa nhiệt đới như trút nước, nhóm nào may mắn thì có được tấm
bạt che, hình bên phải, đoàn hành hương đành nhổ trại trở về đất liền,
với nhiều dự tính chưa thực hiện được. Tuy vậy, vài ngay sau khi phái
đòan chia tay ai về nước nấy, Trưởng đoàn Lê Hùng điện thư cho chúng tôi
báo cáo đã, với sự tiếp tay của các vị sư Thái trẻ đang tu học trên
đảo, giúp hoàn tất một số việc xung quanh khu nghĩa trang nhỏ trên đảo,
kể cả việc giúp ráp tượng Chúa - một hình ảnh cảm động -, và dựng các
bảng trên có gắn các bia tên tuổi nạn nhân trên đảo. (Ảnh TD, 2017)
Trước khi rời đảo, một buổi cầu nguyện do các vị sư Thái lưu học trên đảo đảm nhiệm. Tiếp theo là việc các vị đại diện tôn giáo đọc văn tế do Trần Mộng Tú viết, và xướng tên từng nạn nhân đã bỏ mình trên đảo hoặc mất tích. Hình bên phải gồm các vị theo phái đoàn hành hương, từ trái, các Linh mục Phạm Hồng (Úc), Nguyễn Văn Hùng (Đài Loan), Phạm Tâm (Houston), và Hoà thượng Thích Huyền Việt (Houston), thay phiên nhau xướng tên các nạn nhân hải tặc. (Ảnh TD, 2017)
Trưởng đoàn Lê Hùng đang an ủi ký giả Vũ Thanh Thủy tay cầm một tấm bia ghi tên một nạn nhân mà chị biết, trái. Phải, đoàn thuyền sửa soạn rời đảo Kra dư1ơi bầu trời vần vũ mây đen. Góc bên mặt là hòn đá trên dựng một số tượng Phật do người dân và các vị sư Thái thực hiện, theo lời khuyên của một vị sư là đảo có quá nhiều âm khí do những vong linh chết mà chưa được siêu thoát. Trên mỏm đá khuất bên tay trái, phái đòan hành hương đang dựng dở dang một pho tượng Đức Mẹ Fatima và một cây thánh giá. (Ảnh TD, 2017)
Các nấm mộ tập thể ở tỉnh Kelantan và Terengganu, Mã Lai
Ngày 4 tháng Tư, 2017, ngay sau khi vừa tới Kuala
Terengganu, phái đoàn được hưóng dẫn đi thăm các ngôi mộ thuyền nhân tập
thể. Trên là mộ của 46 người, gồm cả ba trẻ em, một gái hai trai, ở
Balai Bachok trong tỉnh Kelatan. Phải, anh Frank đang thắp hương cho các
“hàng xóm, láng giềng” của các thuyền nhân. (Ảnh TD, 2017)
Kế đó, phái đòan qua viếng mộ tập thể 123+5, gồm 123
người và năm xác thuyền nhân được đưa từ một nghĩa trang khác đến. Mộ
123+5 này nằm tại Cherang Ruku, cũng trong tỉnh Kelatan. Những người
này, và các nạn nhân trong mộ tập thể 46 người kể trên cùng đi trên một
chuyến tầu mang số MT065 bị đắm, một số trôi giạt vào Balai Bachok, một
số trôi vào Cherang Ruku, cách nhau khoảng 30 km/18 miles. Theo
Victorian Collections, tại https://victoriancollections.net.au/items/519fee332162ef049c4826f4,
thì con số đúng ra là 139 + 49 thuyền nhân bị thiệt mạng. Danh sách
những người bị chết đuối là những tên mà Cao ủy Tị Nạm Liên HIệp Quốc đã
có thể tìm thấy. Hai ngôi mộ tập thể được Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam
gây quỹ trùng tu, kể cả việc xây một chỗ có lát gạch men và mái che cho
người hành hương tới chiêm nghiệm, như trong hình giữa. (Ảnh TD, 2017)
…
Nghĩa trang Terengganu, Mã Lai
Các ngôi mộ tập thể và cá nhân được chôn cất trong nghĩa trang của người gốc Hoa tại thành phố Terengganu. Một buổi lễ theo nghi thức Thiên Chúa do Linh mục Phạm Tâm, từ Houston, cử hành cùng với nghi thức Phật giáo do anh Ngô Đức Hữu, từ Úc, đảm trách. Cũng theo nghi thức Phật giáo, các đòan viên đốt vàng mã cho các vong linh. (Ảnh TD, 2017)
Viếng mộ Ông Alcoh Wong
Phái đòan hành hương ghé thăm mộ ông Alcoh Wong,
người đã bỏ nhiều công sức và thời giờ ra để đi thu thập các chi tiết về
các thuyền nhân xấu số xác trôi giạt vào bờ biển đông Mã Lai, và đúc
kết thành cuốn sách hướng dẫn đến các nơi chôn cất thuyền nhân. Ông qua
đời sau vào năm 2006 sau khi gặp gỡ và gửi gấm tài liệu lại cho Văn Khố
Thuyền Nhân Việt Nam hầu tiếp tục công trình truy tìm và trùng tu các mộ
phần thuyền nhân. Trái, chân dung ông Wong trên mộ bia. Giữa, bà Wong,
mặc áo đen, đứng tiếp phái đoàn hành hương tới dâng hoa và thắp hương.
Phải, tấm bia của Văn Khố Thuyền Nhân thay mặt cộng đồng Người Việt Hải
Ngoại ghi ơn ông Wong đã giúp duy trì di sản của thuyền nhân tại Mã Lai.
(Ảnh TD, 2017)
Vài trang sách của ông Alcoh Wong
Trái, bìa cuốn sách 64 trang, song đầy chi tiết quan trọng, của ông Alcoh Wong, người bắt đầu thu thập các dữ kiện về các thuyền nhân đã bỏ mình trên đường đi tìm tự do từ 1975. Giữa, bản đồ về làn sóng tị nạn từ Việt Nam tới các quốc gia trong vùng Đông Nam Á (thiếu mũi tên chỉ sang phía nam của Thái Lan, có lẽ vì ông Wong muốn chú trọng vào những xác trôi giạt vào và mộ phần của họ trên bán đảo Mã Lai), trang 8. Phải, mặt sau của bìa sách và trang 1, bản đồ ghi những nơi chứa mộ phần thuyền nhân trên bán đảo Mã Lai.
Pulau Bidong, Mã Lai
Vào các ngày 6 - 8 tháng Tư, phái đòan hành hương
viếng đảo Bidong, nơi đang có những nỗ lực của Viện Bảo tàng Terengganu
khai triển thành đảo Di Sản để bảo tồn di tích và lịch sử thuyền nhân.
Tụ họp trên Đồi Tôn Giáo, tại khuôn viên chùa Phật giáo, các đoàn viên
liên tôn hiệp lời cầu nguyện cho những người đã khuất. Những lời cầu
nguyện, thánh ca của các thành viên đạo Thiên Chúa quện vào với những
câu kinh Phật và lời cầu nguyện của đạo Ông Bà, do anh Ngô Đức Hữu và
Linh mục Anthony Tâm khởi xướng. (Ảnh TD, 2017)
Trong thời gian ở trên đảo Bidong, phái đòan hành
hương thăm nghĩa trang khu F trên một ngọn đồi trên đảo. Trên tấm bảng
trong hình bên trái ghi là 151 người, nhưng theo cuốn hướng dẫn của ông
Alcoh Wong, “The Guidebook of the Graveyards of the Vietnamese Boat
People (VBP) along the East Coast of Malaysia Peninsula,” thì có
cả thẩy 252 mộ phần tại nghĩa trang này. Giữa, anh Ngô Đứcc Hữu đang
khấn cầu Tổ tiên chứng giám. Phải, nhà thơ Trần Mộng Tú và phóng viên
Ngọc Ẩn đang đọc kình của đạo Thiên Chúa. (Ảnh TD, 2017)
Các đoàn viên chia nhau đi cắm nhang sưởi ấm các vong linh. (Ảnh TD, 2017)
…
…
Trên Đồi Tôn Giáo, tượng đài với những bảng tạ ơn bên Thiên Chúa giáo, trái, và bảng ghi dấu thánh thất của đạo Cao Đài, giữa. Phải, đài tưởng niệm 38 người tị nạn bị chết đuối khi vừa thấy bến bờ tự do trên con thuyền mang số MB689, ngày 13 tháng Giêng, 1987. (Ảnh TD, 2017)
Mộ thuyền nhân tập thể tại nghĩa trang Dungun, Mã Lai
Dọc theo bờ biển trung bộ bán đảo Mã Lai nơi nhiều
xác thuyền nhân đã trôi giạt vào và được người dân địa phương chôn cất
trong nghĩa trang thành phố Dungun. Văn Khố Thuyền Nhân, trong 10 năm
hoạt động từ 2005 tới 2015, và với sự hỗ trợ của các cộng đồng Việt khắp
nơi, cùng các vị lãnh đạo tôn giáo, Hội Hồng Nguyệt Mã Lai và Hội người
Hoa, đã truy tìm và trùng tu lại các mộ phần cho những đồng bào xấu số.
Trong khu nghĩa trang này có hai ngôi mộ tập thể và nhiều ngôi mộ cá
nhân khác mà thời gian đã không cho phép phái đòan đi thăm viếng thắp
nhang hết, ngoài tại hai ngôi mộ tập thể trên. (Ảnh TD, 2017)
Nghĩa trang của Di Dân (Migrants) tại Kuantan, Mã Lai
Thăm viếng Nghĩa trang Di Dân, ở Kuantan, nơi an nghỉ của khoảng 40 thuyền nhân. Đây là mộ phần cuối cùng dọc theo bờ biển phiá đông của bán đảo Mã Lai, trước khi phái đoàn trực chỉ bờ biển phía tây về Kuala Lumpur, thủ đô Mã Lai, trong chuyến hành hương 10 ngày. (Ảnh TD, 2017)
Viếng Hội Hồng Nguyệt Mã Lai (Red Crescent Society of Malaysia)
Qua sự dàn xếp của cô hướng dẫn/thông dịch viên Lý
Nhân, phái đoàn đến thăm Hội Hồng Nguyệt Mã Lai. Ông Sayed A. Rahman,
giám đốc Hội, tiếp đón phải đoàn hành hương, trái. Khi đại diện phái
đoàn Lê Hùng ngỏ lời cám ơn Hội đã giúp đỡ thuyền nhân trong thời gian
lưu trú trên đảo Bidong chờ đi định cư, ông vui vẻ đáp: “Tôi không cần
biết các bạn là ai. Chúng ta đều là con người với nhau và cần sự giúp đỡ
của nhau.” Ông cho biết Hội hiện giữ trên 200,000 hồ sơ ghi các chi
tiết lý lịch của mỗi thuyền nhân tới Mã Lai, cũng như tên và địa chỉ của
người hay hội bảo lãnh đi định cư. Ông sẵn sàng mở văn khố cho các đòan
viên hành hương vào tham khảo, chụp hình. Phải, các đoàn viên đua nhau
chụp hình bức bích chương với những hình ảnh sinh hoạt trên đảo Bidong
thời còn là trại tị nạn vào các năm sau 1975 tới 1991. Người đứng bên
mặc áo vest đỏ là ông Misnan Kasan, nguyên là viên chức của Hội chịu
trách nhiêm coi đảo Bidong từ 1978 tới cuối thập niên 1980. Vui mừng gặp
lại các cựu thuyền nhân/cư dân Bidong, ông hào hứng hát tặng cả nhóm
một bài hát Việt, “Bài tình ca cho em” của Ngô Thụy Miên. Tuy phải cầm
giấy xem lời, không có nốt nhạc, nhưng ông hát rất đúng nhịp, với phát
âm khá chuẩn. Xem video ông Misnan, người bạn của thuyền nhân Việt, hát
tình ca, tại https://youtu.be/FeDH7KwwdFs
Reo mừng, hân hoan, xúc động là những cảm giác bộc lộ
hồn nhiên của các đoàn viên khi tìm thấy hồ sơ cá nhân hoặc thân hữu.
Sau trên một tuần viếng thăm mộ phần thuyền nhân với nhiều nước mắt, xúc
cảm, trầm mặc, vài giờ thăm viếng Hội Hồng Nguyệt để cảm thấy đậm đà
thêm tình người, tưởng không có kết thúc nào tròn vẹn hơn. (Ảnh TD,
2017)
Hình trên, mọi người quây quần chia sẻ chuyện mình.
Trước khi chia tay, để tỏ niềm biết ơn, phái đòan hành hương đã bàn nhau
gom góp lại được khoảng gần 2,300 Mỹ kim và trao tặng Hội Hồng Nguyệt.
Cùng những lời hứa sẽ trở lại. (Ảnh TD, 2017)
https://vietbao.com/a266799/mo-phan-thuyen-nhan-chung-tich-lich-su-khong-the-xoa-bo
No comments:
Post a Comment