Gs Nguyễn Ngọc Huy & Lm Cao Văn Luận tiết lộ Bí Ẩn 30.4.1975
Đối
với đa số người Việt đã từng sống trải qua, ngày 30.04.1975 là một biến
cố khó quên nhứt của đời người. Trong khi đó dư luân quốc tế nhận định
cho rằng sự sụp đổ của Bức Tường Bá Linh vào ngày 9.11.1989 là biến cố
lịch sử quan trọng nhứt của thế kỷ 20. Thực ra cả hai biến cố lịch sử
này đều ảnh hưởng mạnh mẽ đến người Việt chúng ta. Cho nên cố Giáo Sư
Nguyễn Ngọc Huy - một bình luận gia am tường mọi biến chuyển quốc tế, đã
nổi tiếng với những bài nhận định thời cuộc "Tình hình thế giới trong
tháng vừa qua" đăng tải trên nhiều tờ báo tại Âu Mỹ - từng đề cập công
khai trực tiếp hoặc kín đáo gián tiếp trả lời những câu hỏi về hai biến
cố lịch sử đặc biệt nêu trên.
Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy / Khoa trưởng Đại Học Luật
Từ
hồi còn là sinh viên, chúng tôi được tiếp xúc đối thoại với Giáo sư Huy
và đã may mắn ghi nhận được những chi tiết rất đặc biệt. Sau khi Giáo
sư Huy qua đời vào ngày 28.07.1989, chúng tôi đã đảm trách nối tiếp Giáo
sư Huy hàng tháng viết bài nhận định thời cuộc "Tình hình thế giới
trong tháng vừa qua" kéo dài trên 5 năm trên nguyệt san Tự Do Dân Bản
tại Hoa Kỳ. Nhân dịp đó, chúng tôi đã phải nghiên cứu các sáng tác của
Giáo sư Huy để nắm vững thêm mọi chi tiết thời cuộc. Nhờ vậy, chúng tôi
mới thấy được tầm kiến thức uyên bác & đa diện của Giáo sư Huy mà
hiếm ai cùng thời có được. Nổi bật nhứt là những viễn kiến và phân tích
độc đáo về các biến cố lịch sử trên thế giới.
1) Ai đã làm sụp đổ Bức Tường Bá Linh ?
Trong
dịp kỷ niệm 20 năm ngày Bức Tường Bá Linh sụp đổ, chúng tôi đã trình
bày cái nhìn độc đáo của Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy về vấn đề " Ai đã làm
sụp đổ Bức Tường Bá Linh ? "
Bức tường Berlin sụp đỗ ngày 9.11.1989
Câu
hỏi lịch sử này đã tranh cãi sôi nổi từ trên 20 năm qua và có nhiều câu
trả lời chủ quan khác nhau tùy theo hoàn cảnh, trình độ hiểu biết và
nhứt là lòng tự hào của những dân tộc liên hệ.
a)
Phía Ba Lan cho rằng nhờ hai công dân của họ. Đó là lãnh tụ nghiệp đoàn
Walesa và Đức Giáo Hoàng John Paul II đã dám dũng cảm đi hàng đầu tranh
đấu chống độc tài cộng sản.
b)
Phía Hung Gia Lợi cho rằng nhờ Cựu Thủ Tướng Nemeth đã sáng suốt dám
cho mở cửa biên giới Áo Hung tạo cơ hội cho làn sóng người tị nạn cộng
sản bùng nổ.
c)
Phía Đông Đức cho rằng nhờ lực lượng cải cách trong đảng cộng sản Đông
Đức đã thành công lật đổ được nhà độc tài Honecker và tạo điều kiện cho
lực lượng đối lập dễ dàng tranh đấu.
d) Phía Tây Đức cho rằng nhờ chính sách hòa dịu của Cựu Thủ Tướng Brandt từ từ tạo được biến đổi ôn hòa trong chế độ cộng sản.
e) Phía Liên Xô cho rằng chính Tổng Bí Thư Gorbachev với chính sách cởi mở tạo ra tình thế vuột ra khỏi vòng tay kiểm soát.
f)
Phía Hoa Kỳ cho rằng nhờ Cố Tổng Thống Reagan hành xử cứng rắn đối phó
với Liên Xô và quan trọng nhứt tại Bức Tường Bá Linh vào ngày 12.6.1987
đã lên tiếng "khích tướng" kêu gọi Tân Tổng Bí Thư Gorbachev muốn chứng
minh thực tâm cởi mở thì nên mở cửa và phá sụp bức tường này (nguyên
văn: “Come here to this gate! Mr. Gorbachev, open this gate! Mr.
Gorbachev, tear down this wall!“) Duy nhứt về phía Việt Nam, Giáo sư
Nguyễn Ngọc Huy đã tiên đoán rất sớm và trình bày rất cặn kẽ ngay trong
tác phẩm "Perestroika" ( viết bằng Anh ngữ, dày 402 trang với trên 200
dẫn chứng tài liệu ) cho rằng ông Gorbachev bắt buộc phải cởi mở thay
đổi chính sách cai trị để đủ sức đối đầu với Hoa Kỳ dưới sự lãnh đạo của
Tổng Thống Reagan đang trên đà leo thang võ trang quân sự, điển hình là
kế hoạch phòng thủ chống hỏa tiễn SDI ( Strategic Defense Initiative
).
Chỉ
trong lúc đi thuyết trình cho đồng bào Việt Nam, Giáo sư Huy mới kín
đáo tiết lộ đưa ra một cái nhìn độc đáo rằng dân Nga có truyền thống
chơi cờ vua (Chess) nên có thói quen suy nghĩ đa nghi nhiều, còn dân Mỹ
thích chơi bài phé (Poker) nên thường phải " tháu cáy "với cây bài xấu
nhưng vẫn có thể " tố " cho địch thủ bỏ chạy. Theo Giáo sư Huy thì Tổng
Thống Hoa Kỳ Reagan đang dùng kế hoạch SDI để " hù " Tổng Bí Thư Liên Xô
Gorbachev với bản chất đa nghi buộc phải cải tổ nền tảng chính trị và
kinh tế để có đủ thực lực đương đầu lại với Hoa Kỳ. Quả nhiên ông
Gorbachev đã xúc tiến cải tổ, trước hết về kinh tế (Perestroika), và sau
đó về chính trị (Glasnost). Nhưng chính vì sự cải tổ chính trị đã khiến
làn sóng đòi hỏi tự do dân chủ dâng cao, kiểm soát không nổi và vuột ra
khỏi tầm tay. Bức Tường Bá Linh sụp đổ, Đông Âu thoát khỏi sự chi phối
của Mạc Tư Khoa và Liên Xô tan rã vào ngày 21.12.1991 là hậu quả tất
nhiên đó. Chính vì vậy, bên ngoài Liên Xô ông Gorbachev được vinh danh
là nhân vật có công với cuộc cách mạng dân chủ hóa Đông Âu, nhưng ở
trong nước thì trái lại không có chút uy tín gì vì bị chỉ trích là không
có khả năng lãnh đạo làm cho Liên Xô tan vỡ và nước Nga không còn sức
mạnh gì trên bàn cờ thế giới. Cái nhìn độc đáo của Giáo sư Huy được
chứng thực là rất đúng, vì kế hoạch SDI của Mỹ sau đó đã được Mỹ âm thầm
hủy bỏ khi mục tiêu đã xí gạt được Liên Xô rồi. Tương tự về biến cố
30.04.1975 của Việt Nam chúng ta, Giáo sư Huy cũng có câu trả lời độc
đáo với lời giải thích bất ngờ sau đây.
2) Ai đã gây ra biến cố 30.04.1975 ?
Câu
hỏi lịch sử này cũng đã được bàn cãi sôi nổi từ trên 35 năm qua và chưa
đi đến một kết luận nào hữu lý để được mọi khuynh hướng chấp thuận.
Điển hình nhứt là ngay trong dịp Hội Thảo "Việt Nam, 35 Năm Nhìn Lại" (
“Vietnam – a 35 Year Retrospective Conference” ) tại Washington D.C. vào
ngày 9.4.2010 quy tụ gần 200 nhân vật với thành phần nổi tiếng như cựu
Đại sứ Bùi Diễm, cựu Đại tá không quân Hoa Kỳ Tiến sĩ Stephen Randolph,
Trung tá biệt cách dù Nguyễn Văn Lân, Thứ trưởng John Negroponte, Sử gia
Dale Andrade, Tiến sĩ John Carland, Cựu Bộ trưởng Hoàng Đức Nhã, Đại tá
Trần Minh Công, Đại tá Hoàng Ngọc Lung... cũng không đưa ra được câu
trả lời thỏa mãn cho sự thắc mắc: Ai đã gây ra biến cố 30.04.1975? Nhìn
trở lại, người ta có thể thấy rõ ràng trong thời gian đầu ngay sau
30.04.1975, phần lớn các khuynh hướng, từ chính trị đến tôn giáo, đều
tìm cách đổ trách nhiệm lẫn cho nhau về tội đã làm mất miền Nam. Chỉ có
Giáo sư Huy là sớm thấy rõ nguyên nhân chính nào đã khiến xảy ra biến cố
30.04.1975.
Trong
dịp tái ngộ cùng Giáo sư Huy vào năm 1982, chúng tôi có hỏi đến vấn đề
nhức nhối này và được Giáo sư Huy trả lời cho biết nguyên nhân chính là
Hoa Kỳ đã có kế hoạch giải kết ( bỏ mọi cam kết bảo vệ miền Nam! ) để
từng bước rời bỏ miền Nam VNCH. Về thế lực nào ở Hoa Kỳ đứng sau kế
hoạch bỏ rơi miền Nam, Giáo sư Huy cho biết trên chính trường Mỹ có hai
sắc tộc nổi bật nhứt. Đó là sắc tộc gốc Ái Nhĩ Lan ( Ireland ) và sắc
tộc gốc Do Thái ( Israel ).
- Trong dòng lịch sử, Cộng Đồng Người Mỹ gốc Ái Nhĩ Lan đã rất nhiều lần thắng cử chức vụ Tổng Thống.
-
Bên cạnh đó Cộng Đồng Người Mỹ gốc Do Thái chủ trương nắm giữ các cơ
cấu quan trọng trong guồng máy điều khiển đất nước Hoa Kỳ. Họ gài được
nhiều nhân sự vào bên hành pháp, lập pháp cũng như tư pháp. Trong các bộ
quan trọng nhứt như ngoại giao, quốc phòng và tài chánh thường thấy đa
số có nhân viên gốc Do Thái và nhiều lần cấp bộ trưởng cũng do người Mỹ
gốc Do Thái nắm giữ. Trong Thượng Viện và Hạ Viện có khá nhiều nghị sĩ
và dân biểu gốc Do Thái trong cả hai chính đảng. Vì vậy, thế lực của
Cộng Đồng Người Mỹ gốc Do Thái rất lớn và đã khiến cho chánh sách đối
ngoại của Hoa Kỳ luôn luôn binh vực quyền lợi của Do Thái.
Tham
dự Hòa đàm Paris, Giáo sư Huy nhận xét rằng Kissinger ( một người Mỹ
gốc Do Thái lúc đó còn làm Cố Vấn An Ninh cho Tổng Thống Nixon ) có thái
độ đáng ngờ là cương quyết muốn thỏa hiệp riêng ( "đi đêm"! ) với CSVN
bất cứ giá nào để quân đội Hoa Kỳ rời bỏ miền Nam, dù biết rằng sau đó
miền Nam sẽ lọt vào tay Hà Nội. Theo kinh nghiệm chính trị thì các chính
trị gia gốc Do Thái đều hành động có chủ đích với kế hoạch rõ rệt. Như
vậy đằng sau Kissinger ắt phải là chủ trương của thế lực Do Thái.
Thế
lực Do Thái này phải hiểu là không phải chỉ thuần túy Cộng Đồng Người
Mỹ gốc Do Thái, mà là sắc dân Do Thái trải dài trên thế giới từ Tel Aviv
đến Washington D.C., Paris, London, Berlin, Moscow... với tổng số 13,1
triệu người, trong đó 5,4 triệu tại quốc gia Do Thái, 5,3 triệu tại Hoa
Kỳ và 2,4 triệu rải rác tại 30 quốc gia khác. Thế lực này được điều
khiển hữu hiệu từ Tel Aviv với 2 bộ phận đắc lực gồm cơ quan tình báo
Mossad và Nghị Viện Do Thái Thế Giới ( - World Jewish Congress - từ năm
2007 đứng đầu là nhà tỷ phú nổi tiếng Ronald Stephen Lauder người Mỹ gốc
Do Thái ) . Ngoài ra, Giáo sư Huy còn chỉ dẩn cho chúng tôi nhận biết
được dân gốc Do Thái đặc biệt thường với mũi to loại diều hâu, điển hình
như Ngoại trưởng Kissinger hoặc Nữ Ngoại trưởng Albright
Nữ Ngoại trưởng Albright& Ngoại trưởng Kissinger
Những
tiết lộ tế nhị của Giáo Sư Huy hoàn toàn phù hợp với nhận định của Linh
Mục Cao văn Luận (1908 - 1986) nhân dịp tái bản tác phẩm Bên Giòng Lịch
Sử cũng cho rằng thế lực dân Mỹ gốc Do Thái chủ trương Hoa Kỳ phải rút
quân ra khỏi Việt Nam.
Linh mục Cao Văn Luận / Viện trưởng Đại Học Huế
Riêng
dư luận báo chí quốc tế đã sớm nhìn thấy rõ Hoa Kỳ muốn rút lui bỏ rơi
miền Nam từ khi bắt đầu chánh sách Việt Nam Hóa Chiến Tranh sau biến cố
Tết Mậu Thân 1968 ( mà họ phân tích là nhằm thay đổi màu da tử sĩ! ),
nhứt là hòa đàm Paris (mà họ nhận định là nhằm bảo đảm Mỹ rút quân được
an toàn!).
Như
vậy biến cố 30.04.1975 đã xảy ra, nguyên nhân chính là Hoa Kỳ có chính
sách bỏ rơi miền Nam VNCH và thế lực Do Thái thúc đẩy chính sách đó được
thực hiện qua bè đảng Kissinger.
3) Tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ bỏ rơi miền Nam ?
a)
Thế lực Do Thái tại Hoa Kỳ Đối với chúng tôi quả thực hoàn toàn mới mẻ
và đầy ngạc nhiên khi được Giáo sư Huy vào năm 1982 cho biết đến vai trò
thực sự của người Mỹ gốc Ái Nhĩ Lan và gốc Do Thái trên chính trường
Hoa Kỳ. Sau này sinh hoạt lâu năm tại hải ngoại và qua nghiên cứu, chúng
tôi công nhận thấy Giáo sư Huy hoàn toàn đúng. Điển hình là cho đến nay
có ít nhứt 23 Tổng Thống Hoa Kỳ gốc Ái Nhĩ Lan (xem website:http://en.wikipedia.org/wiki/List_of_Irish_Americans)
mà trong đó có Tổng Thống Washington và những Tổng Thống gần đây như
Clinton, Reagan, Kennedy và kể cả Tổng Thống Obama (bên ngoại gốc Ái Nhĩ
Lan) Cũng như hiện nay tại quốc hội có 15 Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ gốc Do
Thái và 33 Dân Biểu Liên Bang gốc Do Thái (xem http://en.wikipedia.org/wiki/List_of_Jewish_American_politicians#List).
Thực
sự nếu nghiên cứu sâu rộng thì sẽ thấy thế lực Do Thái tại Mỹ còn lớn
hơn nhiều. Họ thành công trong việc gài được những nhân sự cấp lãnh đạo ở
các bộ phận yết hầu của Hoa Kỳ. Thí dụ điển hình gần đây như:
-
trong Thượng Viện và Hạ Viện hiện nay với tổng số 48 nghị sĩ và dân
biểu gốc Do Thái ( so sánh trước đây chỉ có 1 dân biểu gốc Việt Nam là
ông Cao Quang Ánh! ). - trong Bộ Ngoại Giao có Bộ trưởng Henry Kissinger
dưới thời TT Nixon và Bộ trưởng Madeleine Albright dưới thời TT
Clinton...
- trong Bộ Quốc Phòng có Bộ trưởng James Schlesinger dưới thời TT Nixon và thời TT Ford.
- trong Bộ Tài Chánh có Bộ trưởng Larry Summer và Bộ trưởng Robert Rubin dưới thời TT Clinton.
- trong CIA có Tổng giám đốc John M. Deutch dưới thời TT Reagan.
-
trong Ngân Hàng Trung Ương ( Fed ) cầm đầu bởi Tiến sĩ Alan Greenspan
từ 1987 đến 2006 và Giáo sư Ben Bernanke từ 2006 đến nay.
Họ
còn chủ động nắm những lãnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán, báo
chí, truyền thanh, truyền hình và điện ảnh... Đặc biệt, ngành truyền
thông, quan trọng nhứt là điện ảnh Hollywood, nằm trong tay thế lực Do
Thái. Tại Hollywood đa số nhân sự từ đạo diễn đến diễn viên đều có gốc
Do Thái, nổi tiếng nhứt như Steven Spielberg, Liz Taylor, Kirk Douglas,
Michael Douglas, Harrison Ford... (xem website: http://en.wikipedia.org/wiki/List_of_Jewish_American_entertainers).
Họ
biết rõ rằng nắm được truyền thông trong tay là hướng dẫn được dư luận
quần chúng trong mục tiêu phục vụ quyền lợi cho nguời Do Thái. Họ còn
điều khiển một phần lớn các viện nghiên cứu chiến lược nhằm đưa ra những
đề nghị cho chính sách tương lai cho chánh phủ Mỹ và dĩ nhiên phải phù
hợp với quyền lợi của người Do Thái. Ngoài ra tại các cường quốc Âu
Châu, thế lực Do Thái có ảnh hưởng tuy âm thầm nhưng cũng mạnh mẽ lắm.
Điển hình nhứt là Tổng Thống Sarkozy ( Pháp ) & Thủ Tướng Đức
Schmidt ( Đức ) trước đây đều gốc Do Thái nên không bao giờ lên tiếng
thực sự chống lại những vi phạm cam kết của Do Thái tại Trung Đông .
Chính vì vậy đa số thành viên Liên Hiệp Quốc đã cho rằng thế lực Do Thái
có ảnh hưởng quá lớn đến chính sách và biểu quyết về Trung Đông của các
cường quốc Âu Mỹ.
b) Tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ phủi tay bỏ miền Nam ?
Muốn
biết rõ, chúng ta phải tìm hiểu lịch sử mất nước và dựng lại nước của
người Do Thái. Vào năm 135 dân tộc Do Thái chính thức bị mất nước và
phải lưu vong khắp nơi vì đế quốc La Mã. Thảm họa mất nước đó thường
được dư luận Thiên Chúa Giáo cho là sự trừng phạt dân Do Thái đã đóng
đinh giết Chúa Jesus và kẻ phản bội Judas chính là một người Do Thái.
Chính vì chuyện này đã làm cho dân Do Thái bị kỳ thị trên bước đường lưu
vong. Nhưng cũng chính vì có niềm tin mãnh liệt vào Do Thái Giáo, họ đã
đoàn kết nhau lại dưới sự lãnh đạo của học giả Theodor Herzl trong đại
hội thế giới đầu tiên tại Basel ( Thụy sĩ ) vào năm 1897. Từ đó, từng
đợt một họ lén lút trở về quê hương Palestine. Thế Chiến thứ 2 và với sự
yểm trợ tích cực của Hoa Kỳ đã tạo cơ hội ngàn năm một thuở để họ dựng
lại đất nước vào ngày 14.5.1948 sau gần 2,000 năm lưu vong. Chỉ 11 phút
sau đó Tổng Thống Hoa Kỳ đã lên tiếng công nhân quốc gia mới này, bất
chấp mọi chống đối của thế giới Ả Rập và đã yểm trợ hữu hiệu cho Do Thái
chống lại cuộc tấn công ngay sau đó của các quốc gia Ả Rập láng giềng
và trong các cuộc chiến xảy ra sau này.
Như
vậy, Do Thái còn tồn tại đến ngày nay là nhờ Hoa Kỳ làm "lá bùa hộ
mạng". Nhiều nghị quyết tại Liên Hiệp Quốc kết án Do Thái vi phạm cam
kết tại Trung Đông chỉ vì duy nhứt Hoa Kỳ dùng quyền phủ quyết ( veto )
nên đành phải bỏ đi. Trong quá khứ, Hoa Kỳ từng giải kết ( phản bội! )
bỏ rơi đồng minh như Lào, Cam Bốt, Việt Nam, Đài Loan... , nhưng luôn
luôn "sống chết" hết lòng với Do Thái, mặc dù quốc gia nhỏ bé này không
mang lại lợi ích gì về tài nguyên hoặc vị trí chiến lược cho Hoa Kỳ, mà
trái lại chính vì Do Thái, Hoa Kỳ còn gây rất nhiều hiềm khích (mang họa
vào thân!) với thế giới Hồi Giáo dân số rất đông đảo ( 1,3 tỷ ) và rất
quan trọng về năng lượng dầu hỏa . Tất cả cho thấy rõ ràng vì thế lực Do
Thái nắm giữ được các bộ phận huyết mạch tại Mỹ nên chính sách của Hoa
Kỳ phải luôn luôn không được đi trái ngược lại với quyền lợi của quốc
gia Do Thái.
Từ
đó, chúng ta mới hiểu rõ tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ phủi tay
bỏ miền Nam Việt Nam. Đó là vì họ sợ Hoa Kỳ sa lầy và sự tốn kém khổng
lồ tại chiến trường Việt Nam có thể đưa tới hậu quả Hoa Kỳ không còn khả
năng giúp đỡ một cách hiệu lực nước Do Thái tồn tại như trong quá khứ
Hoa Kỳ đã từng làm. Cho nên họ chủ trương Hoa Kỳ phải giải kết bỏ rơi
miền Nam để trở về chuyên tâm lo cho Do Thái. Để thực hiện mục tiêu này
họ đã có kế hoạch rõ ràng từng bước một.
c) Kế hoạch Do Thái thúc đẩy Hoa Kỳ bỏ rơi miền Nam.
Khởi
đầu giải quyết cuộc chiến Quốc Cộng tại Lào vào đầu thập niên 1960, ông
Ngô Đình Nhu đã ngạc nhiên và bất mãn thấy thái độ nhượng bộ quá mức
của ông Averell Harriman ( đặc trách bộ phận Viễn Đông của Bộ Ngoại Giao
Mỹ ) trong lúc đàm phán. Nên biết ông Averell Harriman (1891 - 1986) là
một nhà tư bản lớn nổi tiếng gốc Do Thái và cũng là một đảng viên cấp
lãnh đạo của đảng Dân Chủ ở Mỹ. Rõ ràng phía thế lực Do Thái muốn ngăn
chận không cho Hoa Kỳ can thiệp với nhiều tốn kém ở Viễn Đông. Sự nhượng
bộ rút lui này đã khiến lực lượng miền Bắc kiểm soát được phần lớn các
địa điểm chiến lược tại Lào và thiết lập đường mòn Hồ Chí Minh vận
chuyển nhân lực và võ khí vào để đánh chiếm miền Nam vào 30.4.1975.
Từ
khi nhậm chức, Tổng Thống Johnson ( dân Texas ! ) cùng ban tham mưu
luôn cứng rắn chủ chiến và không muốn Hoa Kỳ bị thua trận đầu tiên trong
nhiệm kỳ của mình. Thế lực Do Thái lúc đó không có ảnh hưởng nhiều
trong chánh phủ Tổng Thống Johnson để xoay đổi từ bên trong chính sách
can thiệp quân sự của Tổng Thống Johnson, cho nên họ phải chờ đợi cơ hội
thuận tiện để tấn công từ bên ngoài dư luận quần chúng.
Đó
là lúc cuộc chiến Việt Nam bùng nổ lớn bắt đầu từ cuối năm 1964 trở đi
với các trận đánh dữ dội tại Bình Giã, Đồng Xoài, Đức Cơ... bắt đầu gây
tử thương nhiều quân nhân Mỹ. Những hình ảnh quan tài phủ quốc kỳ kèm
theo sau hình ảnh dã man và bất lợi (thổi phồng vụ Mỹ Lai & vụ Tướng
Nguyễn Ngọc Loan !) của chiến tranh được hệ thống truyền thông Hoa Kỳ
-đa số gốc Do Thái quản trị- khai thác triệt để ngày đêm tạo một phong
trào phản chiến lớn mạnh chưa từng thấy trên thế giới, không những tại
Hoa Kỳ mà còn lan rộng khắp nơi trên nhiều quốc gia khác . Tướng độc
nhởn Moshe Dayan -Bộ trưởng Quốc phòng của Do Thái- đột ngột tự qua Việt
Nam 3 ngày ( từ 25 tới 27 tháng 7 năm 1966 ) và cho báo chí chụp bức
hình biểu diễn đang đi hành quân với lực lượng Hải Quân Mỹ.
Sau
chuyến "hành quân" chớp nhoáng đó, Tướng độc nhởn Moshe Dayan viết ngay
đề nghị Mỹ nên rút quân ra khỏi Việt Nam vì không thể thắng cuộc chiến
này được ( rất là vô lý vì thực sự hiện diện xem xét chiến trường VN chỉ
có 1 ngày , mà dám đưa ngay đề nghị khủng khiếp như vậy ! ) . Dĩ nhiên
lời đề nghị chủ bại này càng được thổi phồng bởi phong trào phản chiến
và làm mất uy tín Tổng Thống Johnson. Tiếc thay sau này vẫn còn có những
ký giả và bình luận gia Việt Nam ca ngợi những phân tích và đề nghị của
ông tướng một mắt này, mà không hiểu đó chính là một trong những thủ
phạm đã góp phần "khai tử" miền Nam!
Israeli General Moshe Dayan on Patrol with US Marines - South Vietnam 1966
Phong
trào phản chiến càng lên cao và đã khiến Tổng Thống Johnson vào tháng 3
năm 1968 phải quyết định không ra tái ứng cử. Sự xáo trộn tranh chấp
kịch liệt trong đảng Dân Chủ đã tạo cơ hội hiếm có để cho ứng cử viên
của đảng Cộng Hòa nắm chắc sự thắng cử. Vì vậy thế lực Do Thái đã gài
được Kissinger từ năm 1957 làm cố vấn cho Nelson A. Rockefeller ( Thống
đốc New York ) đang vận động ra tranh cử làm ứng cử viên Tổng Thống của
đảng Cộng Hòa. Nhưng không ngờ Nixon thành công hơn và cuối cùng thắng
cử làm Tổng Thống. Thấy vậy, Kissinger bèn trở cờ đầu quân theo Nixon và
được trọng dụng làm Cố vấn An ninh.
Thế
lực Do Thái còn đưa được thêm nhân sự gốc Do Thái vào trong guồng máy
cầm quyền Mỹ. Đáng kể nhứt là Bộ trưởng Quốc phòng James Schlesinger, Cố
vấn đặc trách Nội vụ John Ehrlichmann ( 1925 – 1999 )... Với những chức
vụ then chốt này, họ đã thành công bày mưu cho Nixon bỏ rơi miền Nam.
Bắt đầu với chương trình Việt Nam Hóa Chiến Tranh sau biến cố Tết Mậu
Thân 1968 để từng bước giảm con số lính Mỹ tử vong và bớt dần sự hiện
diện của Hoa Kỳ tại miền Nam. Đến năm 1971, Kissinger bí mật qua Trung
Cộng tìm cách tái bang giao với chính quyền Bắc Kinh và đưa đến thỏa
hiệp Thượng Hải 1972 giữa Mao Trạch Đông và Nixon. Trên bề mặt, thỏa
hiệp này chỉ công nhận một nước Trung Hoa cho thấy Hoa Kỳ bỏ rơi Đài
Loan trên chính trường thế giới, nhưng bên trong thực tế Kissinger nhằm
sửa soạn sự rút lui an toàn cho quân đội Mỹ ra khỏi miền Nam với sự bảo
đảm của Trung Cộng.
Quả
nhiên, chỉ sau đó chưa đầy một năm, Kissinger đã dùng đủ mọi mánh khóe,
kể cả đe dọa tánh mạng các cấp lãnh đạo miền Nam, thành công trong việc
ép buộc ký kết Hiệp Định Paris vào ngày 27.1.1973 để quân đội Hoa Kỳ
được an toàn rời khỏi miền Nam. Phía dư luận báo chí quốc tế đã sớm thấy
rõ âm mưu của Kissinger và đã ví bản hiệp định này giống như tờ khai tử
cho miền Nam Việt Nam. Chính ngay Kissinger cũng đã tiết lộ bề trái của
bản hiệp định cho Cố vấn đặc trách Nội vụ John Ehrlichman của T.T Nixon
như sau:
"Tôi
nghĩ rằng nếu họ ( chánh phủ miền Nam ) may mắn thì được 1 năm rưỡi mới
mất". Tương tự , Kissinger đã trấn an T.T Nixon là: “ Huê Kỳ phải tìm
ra một công thức nào đó để làm cho yên bề mọi chuyện trong một hay hai
năm sau, sau đó thì …chẳng ai cần đếch gì nữa . Vì lúc ấy, Việt nam sẽ
chỉ còn là bãi hoang vắng ”.
Bởi vậy biến cố 30.4.1975 xảy ra là điều tất nhiên đúng như tính toán dự trù của Kissinger và thế lực Do Thái.
Chỉ
sau Hiệp Định Paris khoảng 9 tháng, cuộc chiến Jom Kippur vào ngày
6.10.1973 giữa Do Thái và các quốc gia Ả Rập láng giềng xảy ra. Lần đầu
tiên trong lịch sử tái lập quốc, Do Thái bị thua trận và mất một số lớn
phần đất chiếm đóng trước đây. Đáng lẽ Do Thái còn có thể bị thua nặng
nề hơn nữa, nhưng giờ chót nhờ có Kissinger thuyết phục được Nixon nỗ
lực can thiệp giúp Do Thái nên tình thế không còn bi đát nhiều. Tuy
nhiên, sau đó Tướng độc nhỡn Moshe Dayan phải từ chức Bộ trưởng Quốc
phòng vì chịu trách nhiệm bị thua trận.
4) Kết luận
Biến
cố thua trận lần đầu tiên Jom Kippur năm 1973 cho thấy thế lực Do Thái
nhìn rất xa và rất có lý với nỗi lo sợ Hoa Kỳ vì bị sa lầy ở chiến
trường Việt Nam nên không còn có thể chuyên tâm giúp cho Do Thái thắng
trận như trước đây. Cho nên không gì ngạc nhiên khi thế lực Do Thái phải
vận dụng toàn diện từ trong lẫn ngoài để thúc đẩy và buộc giới lãnh đạo
Hoa Kỳ phải bỏ rơi miền Nam. Bởi vậy mới xảy ra biến cố 30.4.1975 . Từ
thời điểm đó đến nay Do Thái ung dung tồn tại được, vì không những " độc
quyền " hưởng trọn vẹn sự yểm trợ hữu hiệu của Hoa Kỳ, mà còn khôn khéo
tạo được mâu thuẩn chia rẻ để xô đẩy siêu cường số 1 này phải ra tay
đối phó với kẻ thù Hồi Giáo của mình.
Bí
ẩn về lý do và động lực thúc đẩy Hoa Kỳ phải rút quân bỏ rơi miền Nam
được che dấu tinh vi không đưa ra dư luận nổi , bởi vì phần lớn hệ thống
truyền thống báo chí quan trọng nằm trong tay thế lực Do Thái hoặc bị
họ ảnh hưởng kiểm soát không cho phép làm hoặc sợ bị mang tiếng bài Do
Thái ( Anti-Semitism ) . Cho nên đến nay dư luận vẫn còn bị lường gạt .
Điển hình , về phía dư luận ngoại quốc vẫn còn có những học giả ( thí dụ
: Tiến sĩ Stephen Randolph trong Hội Thảo "Việt Nam, 35 Năm Nhìn Lại"
(“Vietnam – a 35 Year Retrospective Conference”) tại Washington D.C. vào
ngày 9.4.2010) lầm lẫn hoặc cố tình cho rằng Hoa Kỳ vào năm 1972 muốn
tái lập bang giao với Trung Cộng nên phải rút quân ra khỏi miền Nam
(chịu thua !) vì đang câu con cá to hơn (“has bigger fish to fry”) .
Thực tế Hoa Kỳ đã có kế hoạch bỏ rơi miền Nam từ khi Kssinger bước vào
Tòa Bạch Ốc năm 1969 với gia tăng Việt Nam Hóa Chiến Tranh . Về phía
miền Bắc, họ không ngờ có được sự giúp đỡ hữu hiệu của thế lực Do Thái
tạo ra phong trào phản chiến đưa tới tình trạng " Đồng Minh tháo chạy " (
từ ngữ theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng !) bỏ rơi miền Nam . Thực tế, nếu
không có sự phản bội của thế lực Do Thái qua sự nắm quyền của ê kíp
Kissinger thì chưa chắc gì miền Bắc sớm thắng trận. Như vậy miền Nam chỉ
cần cầm cự được vài năm cho đến khi Tổng Thống Reagan nắm quyền và với
tài lãnh đạo xuất sắc cương quyết nổi tiếng của ông này chắc chắn miền
Nam sẽ được yểm trợ đầy đủ ( đã xảy ra như vậy tại Nam Mỹ và A Phú Hản !
) để không thể dể dàng sụp đỗ như đã xảy ra trong ngày 30.4.1975.
Đa
số người Việt chúng ta đều có tâm tình thiện cảm với dân tộc Do Thái
(một phần ảnh hưởng qua tác phẩm lừng danh " Về miền đất hứa / Exodus "
của tác giả Leon Uris) vì ngưỡng mộ tinh thần đoàn kết và chiến đấu dũng
cảm của họ sau 2000 năm lưu vong đã thành công trở về tái dựng lại quốc
gia Do Thái nhỏ bé bất chấp trước mọi đe dọa của Khối Ả Rập khổng lồ .
Cũng trong cảm tình nồng nàn đó , Học giả Nguyễn Hiến Lê vào năm 1968
mang sức ra viết tác phẩm " Bài học Israel (Do Thái) " .
Nhưng
thực tế chính trị cho thấy thủ đoạn & tham vọng xâm chiếm đất đai
láng giềng của Do Thái sau khi tái lập quốc, nên chính ông đã không ngần
ngại lên tiếng chỉ trích nặng nề. Đó cũng là tâm trạng của chúng tôi
khi biết qua Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và Linh mục Cao Văn Luận khám phá
ra mưu sâu độc của thế lực Do Thái khiến xảy ra biến cố 30.4.1975 cho
quê hương Việt Nam mà nay đang dẩn tới đại họa mất nước vào tay Trung
Cộng.
Chúng
ta hy vọng rằng Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và Linh mục Cao Văn Luận đã đi
bước tiên phong tiết lộ những bí ẩn về biến cố 30.4.1975 và trong tương
lai sẽ được giới truyền thông báo chí chú tâm nghiên cứu khai triển tích
cực để dư luận Việt Nam và thế giới mai sau không còn bị lường gạt nữa
.
Mong thay !
Phạm Trần Hoàng
No comments:
Post a Comment