Yudhijist Bhattacharjee
Nguyễn Minh Tâm dịch
Ngày 1 tháng Hai năm 2003, khi phi thuyền con thoi Columbia rơi trên không
trung, ông Greg Chung đang ngồi ở nhà. Con trai của ông gọi điện thoại báo
tin cho bố biết về tai nạn này. Chiếc phi thuyền bị vỡ tung trên đường trở
về Trái đất, và bảy phi hành gia trên phi thuyền bị chết hết. Ông Chung
mắng đứa con trai: “Đây không phải là chuyện đùa. Con đừng có báo tin
bậy.” Ông Chung là một công dân Mỹ sinh đẻ ở Trung Hoa. Ông đang sống với
vợ, bà Ling, trong một khu gia cư khá xinh đẹp, ở thành phố Orange, tiểu
bangCalifornia. Ông mới về hưu được chừng vài tháng. Trước khi về hưu, ông
làm việc cho NASA, cơ quan phụ trách Chương Trình Không Gian của Hoa Kỳ.
Ông từng đóng góp vào việc thiết kế phòng lái cho phi hành đoàn trong
chiếc phi thuyền Columbia, chưa kể là ông đã làm nhiều việc khác đóng góp
cho chuyến bay của phi thuyền. Khi biết rõ cậu con trai, Jeffrey, báo tin
là đúng. Ông cúp điện thoại, và ngồi ôm mặt khóc một mình.
Hồi năm 1972, cơ quan NASA giao việc thiết kế, và thực hiện phi thuyền con
thoi cho công ty tư Rockwell làm. Công ty này sau đó đã bị công ty Boeing
mua lại. Trong hơn 30 năm, ông Chung là kỹ sư của công ty Boeing, làm việc
trong nhóm “stress-analysis”, thử sức chịu đựng của vật dụng thiết kế.
Việc làm của ông hết sức tỉ mỉ, và đòi hỏi nhiều kiên nhẫn, thử đi thử lại
không biết là bao nhiêu lần. Nhưng đó lại là việc làm sở trường của ông
Chung. Ông làm việc miệt mài, ít khi nào bỏ sở ra về, thậm chí ông cũng ít
khi nghỉ giải lao. Ông cứ ngồi miết ở máy vi tính, thử đi thử lại đủ mọi
loại mô hình, xem coi chất liệu nào thích hợp để làm vỏ phi thuyền, chịu
đựng nổi độ nóng, và áp suất va chạm vào phi thuyền.
Sau khi phi thuyền Columbia bị nổ tung trên không trung, cơ quan NASA yêu
cầu hãng Boeing thiết kế một phi thuyền con thoi khác. Ông Chung là nhà
thiết kế giỏi nhất trong nhóm. Xếp cũ của ông Chung điện thoại yêu cầu
công ty ký hợp đồng nên mướn ông Chung làm công việc này. Mặc dù ông đã ở
tuổi 70, song ông hoãn nghỉ hưu, và tiếp tục đi làm. Thế là ông lại quanh
trở về thói quen siêng năng cũ, về nhà trễ ăn cơm tối, sau đó lại ngồi vào
bàn làm việc cho đến khuya. Ông làm việc say sưa không phải vì người ta
hứa thăng chức, hay tăng lương cho ông, mà chỉ vì cái thú làm việc có sẵn
trong người của ông Chung. Vợ ông, bà Ling, kể lại về thói quen say mê làm
việc của ông. Ông khoe ông đã giúp hãng Boeing tiết kiệm được bao nhiêu
tiền. Ông nói nhiều về việc làm của ông đến nỗi bà Long phải bực mình, và
nói: “Suốt ngày cứ nói mãi về công ty Boeing của ông. Bộ ông không còn
chuyện gì khác để nói với tôi hay sao?”.
Tháng Tư năm 2006, nhân viên FBI đến gặp ông Chung tại nhà riêng của ông ở
thành phố Orange. Chính tay ông Chung là người thiết kế căn nhà ông đang
ở. Căn nhà có một hàng ba để ông và bà Ling ngồi nhìn ra vườn hoa lớn phía
trước. Ông Chung trồng cây chanh, và cà chua. Hàng ngày ông hay dùng nước
tái dụng để tưới hoa, tưới cây. Hai ông bà có hai người con trai đã trưởng
thành là Shane, cậu con lớn, và Jeffrey, cậu con nhỏ. Hai cậu con cũng
sống ở gần cha mẹ.
Ông Chung dáng người cao, gầy, với khuôn mặt trầm tĩnh, mở cửa mời khách
bước vào trong nhà. Họ mở đầu câu chuyện bằng cách hỏi thăm ông Chung về
một người tên là Chi Mak, bạn của ông Chung. Ông này đã bị bắt trước đó
vài tháng. Chi Mak là người Hoa gốc Hong Kong đến California định cư vào
thập niên 1970, và làm kỹ sư cho công ty Power Paragon, một công ty xây
cất hệ thống phân phối điện lực cho Hải Quân. Từ nhiều năm nay, Trung quốc
cố tìm cách canh tân hạm đội hải quân của họ. Cơ quan FBI nghi ngờ rằng
Mak đã được tình báo Trung quốc huấn luyện, gửi sang Hoa Kỳ để làm gián
điệp.
Sau hơn một năm điều tra, đưa đến việc bắt giữ Chi Mak, cơ quan FBI nghe
lén điện thoại của Chi Mak, và bám sát y để theo dõi những giao du hàng
ngày của Chi Mak. Có một lần trong lúc Chi Mak và vợ đi nghỉ mát ở Alaska,
thám tử Mỹ lẻn vào nhà lục soát suốt đêm. Họ cố gắng không để lại một dấu
vết nào, thậm chí màng nhện ở phòng khách họ cũng cố tình giữ nguyên. Vào
trong nhà, họ chụp hình hàng trăm tài liệu liên quan đến hoạt động của Chi
Mak. Trong đó, có cuốn sổ ghi điạ chỉ, số điện thoại người quen của Chi
Mak, vài người là kỹ sư Mỹ gốc Hoa. Một trong những người này là Greg D.
Chung.
Ông Chung tên viết theo tiếng Hoa là Dougfan Chung, sang Hoa Kỳ định cư từ
hơn 40 năm trước. Ông Chung cho FBI biết ông và bà Ling vợ ông thỉnh
thoảng có đi ăn cơm Tàu chung với Chi Mak. Vì Chi Mak là kỹ sư ngành điện,
còn ông Chung là kỹ sư ngành cấu trúc, nên hai người ít khi bàn chuyện
công việc làm với nhau. Nhân viên FBI cám ơn ông Chung rồi ra về. Họ tìm
được vài tin tức hữu ích, song không có tin gì quan trọng, hay ông Chung
không làm điều gì sai trái cả.
Vài tuần sau, nhân viên FBI lại lục soát nhà của Chi Mak lần nữa. Kỳ này
họ bắt gặp một lá thư viết bằng tiếng Hoa trong mớ giấy báo cáo hàng tháng
của ngân hàng. Lá thơ mang nhãn hiệu một khách sạn ở Bắc Kinh, do Gu Wei
Hao viết. Ông Gu Wei Hao là một quan chức cao cấp trong Bộ Hàng Không của
Trung Quốc. Lá thư đó không phải gửi cho Chi Mak, mà là gửi cho Lingjia và
Dongfan Chung.
Trong lá thư, và sau này còn thêm một số thư khác, viên chức cao cấp họ Gu
nhờ ông Chung thu thập tài liệu để giúp Trung quốc thực hiện chương trình
không gian của họ. Chính phủ Trung quốc mới bắt đầu kế hoạch xây dựng trạm
không gian đặt trên qũi đạo trái đất, và Gu đang tìm cách thu thập tin tức
kỹ thuật để giúp thực hiện kế hoạch này. Lá thư của Gu viết cho ông Chung
nói rõ: “Tất cả chi phí thu thập, hay cần phải mua tin tức, chúng tôi sẽ
cử người đích thân trả bằng tiền mặt, và ông có quyền đem tiền ra khỏi
nước một cách an toàn.”. Gu còn mời ông Chung sang Quảng Châu, và tổ chức
buổi họp mặt “trong khung cảnh giới hạn, ít người”, “rất an toàn” để có
thể cùng bàn luận về những vấn đề kỹ thuật. Vì ông Chung là công dân Mỹ,
nên Gu đề nghị ông nên làm đơn xin chiếu khán du lịch, với lý do là đi
thăm bà con ở Trung quốc. Gu kết luận ở phần cuối lá thư: “Đây là niềm
vinh dự và may mắn cho Trung quốc khi ông nhận thức rằng ông nên đem tài
năng, trí tuệ của ông phục vụ đất nước.”
TỪ NAY ÔNG CHUNG LÀ KẺ BỊ TÌNH NGHI LÀM GIÁN ĐIỆP CHO TRUNG QUỐC. Cơ quan
FBI bắt đầu mở cuộc điều tra, đặt dưới sự điều động của một thám tử tên là
Kevin Moberly. Người thám tử có dáng dấp thể thao, mạnh khoẻ, khoảng trên
40, tóc điểm vài sợi bạc, dưới cằm để một chòm râu được chăm sóc khá kỹ.
Khoảng 2 giờ sáng một đêm trong tháng Tám năm 2006, ông Moberly ngồi bật
dậy, thay quần áo ra khỏi nhà. Ông cùng một thám tử khác tên là Bill
Baoerjin lái xe đến thành phố Orange. Họ đậu xe trên đường Grovewood Lane,
cách nhà ông Chung chưa đầy 100 yards. Họ ngồi yên trong xe khoảng chừng
20 phút, quan sát khu xóm xung quanh, và để cho đôi mắt quen dần với bóng
tối. Sau đó họ dùng đèm bấm có dụng cụ đặc biệt che bớt ánh sáng, đến lục
tìm tòi trong hai thùng rác trước cửa nhà ông Chung. Họ thấy một chồng báo
Hoa văn. Họ ôm hết cả chồng báo đem về văn phòng.
Kẹp vào giữa chồng báo là những tài liệu kỹ thuật của công ty Rockwell và
Boeing. Thám tử Moberly trước đây đã từng làm sĩ quan tình báo bên Không
quân, vì thế ông nhận ra ngay những chữ viết tắt như “O.V”, tức Orbital
Vehicle, và “S.T.S” hay Shuttle Transportation System đều là những tài
liệu kỹ thuật liên quan đến phi thuyền không gian. Không có bằng chứng nào
cho thấy ông Chung muốn trao những tài liệu kỹ thuật này một cách bí mật.
Việc ông làm chỉ mang hình thức vứt bỏ những tài liệu kỹ thuật cũ có sẵn
trong nhà, vì ông sợ bị vạ lây sau khi vụ bắt giam Chi Mak được loan tin
từ vài tháng nay.
Một tuần sau, thám tử Moberly và Baoerjin quanh trở lại lần nữa để tìm
kiếm. Lần này một người hàng xóm tình cờ lái xe đi ngang, khiến cho hai
điệp viên phải ngồi thụp xuống, núp sau hai thùng rác cao. Ông Moberly
thấy việc lục lọi thùng rác coi bộ rủi ro nhiều quá, ông quyết định nhờ
công ty xe rác hợp tác. Trên đường lái xe rác đến trung tâm chế biến rác,
xe vận tải sẽ ngưng ở một điểm hẹn để nhóm FBI hốt hết rác nhà ông Chung
đem về nghiên cứu.
Trong tuần lễ kế tiếp, ông Chung đẩy thùng rác ra trước cửa nhà vào lúc
trời vừa hừng sáng. Ông đẩy thùng rác nằm kẹt giữa hai thùng “recycle” mà
ông đã kéo ra từ đêm hôm trước. Sau đó, ông đứng núp sau bụi cây quan sát
một lúc, trước khi ông bước vào trong nhà. Khi nhân viên FBI thu hồi được
vật liệu trong thùng rác nhà ông Chung, họ tìm thấy khoảng 600 trang tài
liệu kỹ thuật của công ty Boeing, với đầy đủ hình ảnh rõ ràng. Lâu lâu
trên trang giấy còn đóng con dấu: “tài sản riêng của công ty” hay “tài
liệu mật, cấm trao đổi.”
Tháng Chín, ông Moberly đến nhà ông Chung cùng với một đồng nghiệp tên là
Gunnar Newquist. Ông này là điều tra viên hình sự của Hải Quân. Hai người
đến đây để thực hiện một cuộc phỏng vấn. Hai thám tử ngồi ở ghế sofa màu
trắng, còn ông Chung ngồi ở bàn uống cà phê đối diện. Ông Moberley mở đầu
câu chuyện bằng việc hỏi thăm tin tức liên quan đến Chi Mak. Sau một giờ
chuyện vãn, ông tìm cách hướng câu chuyện liên quan đến vị quan chức Gu
Wei Hao làm việc ở bộ hàng không Trung quốc. Ông Chung cho biết qủa thực
ông có gặp vị quan chức này trong chuyến đi thăm Trung quốc năm 1985, và
sau đó một vài lần vào đầu thập niên 1990’s.
Ông Moberly đặt câu hỏi: “Ông Gu có bao giờ nhờ ông làm việc gì hay
không?”
Ông Chung trả lời: “Không.”
Ông Chung đứng dậy, đi vào nhà bếp lấy một ly nước để uống. Khi ngồi xuống
ghế, ông Moberly lôi ra lá thư của ông Gu đặt lên bàn uống cà phê. Ông yêu
cầu ông Chung đọc to lá thư đó lên. Ông Chung dịch lại lá thư với giọng
nói lạc thần, mất bình tĩnh.
Moberly đặt câu hỏi: “Trong nhà của ông có còn một tài liệu nào khác lẽ ra
ông không được cất giữ hay không?” Sau đó, ông ta đưa cho ông Chung tờ
giấy để ký tên cho phép nhân viên FBI lục xét nhà.
Ông Moberly gọi ngay một toán thám tử đứng chờ phía trước, xông vào thực
hiện công việc lục soát nhà của ông Chung. Bà Ling lúc đó vừa về đến nhà,
dắt theo đứa cháu trai. Cả ba đứng lặng yên xem hàng chục thám tử lục lọi
từng khe ngách nhỏ của căn nhà, trên khoảng đất rộng gần một mẫu tây.
Ở dưới bao lơn phía sau căn nhà, một thám tử tìm thấy một cánh cửa nhỏ.
Cánh cửa được chắn ngang bằng một thanh gỗ. Ông mở cánh cửa ra, và bước
xuống vài bậc thềm, ông khám phá ra một ngõ ngách nhỏ, đủ để lách mình đi
vào, chạy dọc theo chiều dài của căn nhà. Khúc đầu, ngõ ngách này chỉ đủ
cho một người khom lưng đi vào. Sau đó, mặt đất thoai thoải dốc, và người
bước vào có thể đi đứng dễ dàng. Từ trong nhà không có lối đi vào ngã
ngách này. Khoảng đất trông như một basement, hầm nhà trơ trụi, và chỉ có
bóng đèn soi đường. Ở một bên phòng trống này chồng chất mấy cái nệm
giường cũ, xe đạp ba bánh cũ, hay vài miếng gỗ tạp. Đi tiến thêm về phía
trước của căn nhà, đằng sau tấm ván ngăn sơ sài, là một căn phòng nhỏ, sàn
gỗ thô sơ, với nhiều kệ sách. Trên kệ sách có rất nhiều binder, bìa cứng,
đựng hồ sơ.
Người nhân viên dẫn ông Moberly đi xuyên vào ngõ hẹp để cho ông thấy những
binder này. Trong những binders đó chứa rất nhiều tài liệu qúi liên quan
đến việc chế tạo các loại máy bay quân sự của Hoa Kỳ như oanh tạc cơ B-1,
máy bay chở hàng C-17, chiến đấu cơ F-15, và trực thăng vận tải Chinook 47
và 48. Ông Moberly nói với tôi về cảm nghĩ của ông khi bước vào kho tài
liệu này: “Tôi có cảm tưởng như mình vừa đi lạc vào bãi mìn của vua
Solomon ngày xưa.”. Không rõ ông Chung có vi phạm luật nào hay không,
nhưng chắc chắn là ông Chung đã vượt quá lằn ranh của một người sưu tầm
tài liệu kỹ thuật.
Ông Moberly cầm đại một binder, chạy vội lên lầu, đặt lên bàn cà phê cho
ông Chung xem. Ông gằn giọng: “Tại sao ông không nói cho chúng tôi biết
ông có những tài liệu này?”. Ông Chung không trả lời, quay mặt đi chỗ
khác.
Ngay lúc đó điện thoại reo, và ông Chung bước sang phòng ăn để trả lời
điện thoại. Ông Moberly có đem theo một cộng sự viên duy nhất hiểu được
tiếng Quan Thoại, đó là Jessie Murray. Jesse Murray đứng nghe lóm câu
chuyện thì hiểu là ông Chung đang nói chuyện với cậu con trai lớn, cậu
Shane, bằng tiếng Quan Thoại. “Họ sẽ đến nói chuyện với con đó. Họ sẽ hỏi
con về chuyến đi Bắc Kinh của trường con.”. Chuyến đi đó xảy ra vào năm
1985, và ông Chung đã gặp Gu Wei Hao, viên chức cao cấp của Bộ Hàng Không.
Ông Chung dặn con: “Con cứ nói với họ là con quên hết rồi. Chỉ nói vắn tắt
là con không biết.”. Nghe đến đây, ông Murray giật điện thoại khỏi tay ông
Chung và cúp máy ngay, cảnh cáo ông Chung rằng ông ta có thể can tội cản
trở công lý, một tội rất nặng.
Cuộc lục soát nhà ông Chung tiếp tục, kéo dài suốt một ngày. Điều tra viên
tìm thấy một số tài liệu đã bị đốt, và nhiều hồ sơ khác còn để trong phòng
làm việc của ông Chung ở trên lầu. Đến chiều tối, họ khuân đi hơn 150
thùng tài liệu. Trước khi rời khỏi nhà ông Chung, ông Moberly gặp cậu con
cả Shane ở lề đường trước cửa nhà xe. Cậu ấy than: “Bố tôi còn nặng lòng
với cố quốc quá. Ông cụ cần phải suy nghĩ lại về lòng trung thành với
Trung quốc.”.
ÔNG CHUNG SINH RA TRONG MỘT NGÔI LÀNG NHỎ ở tỉnh Laoning, một tỉnh nhỏ
vùng đông bắc Trung quốc. Khi còn nhỏ ông là một cậu bé nhút nhát, chỉ
thích sưu tầm đồ chơi nho nhỏ: tem cổ, đá lạ, hay nắp hộp kem đánh răng.
Cha mẹ của cậu là Phật tử thuần thành. Ông bà dạy con phải quí trọng thiên
nhiên, cây cỏ. Cậu bé tỏ ra say mê tìm hiểu về hoa cỏ, cây cối, và cậu rất
bất bình khi thấy những đưá trẻ cùng lứa tuổi bóp chết hàng đàn kiến nhỏ.
Trong thời Thế Chiến Thứ Hai, khi đoàn quân Nhật đang tiến vào các tỉnh
phía đông, gia đình họ Chung phải bỏ làng mạc, cùng với hàng triệu người
Hoa khác, đi lánh nạn. Trên đường chạy về phương nam, họ phải tạm dừng
chân vì có cuộc giao tranh bằng súng lớn. Gia đình họ Chung phải trốn
trong ruộng bắp. Một nông dân tử tế giúp họ Chung cho vào nhà tá túc, và
nấu cháo bắp cho ăn. Gia đình đó không nhận tiền đền đáp của họ Chung. Lúc
đó cậu bé Chung mới được tám tuổi, và cậu vẫn nhớ mãi nghĩa cử cao đẹp của
gia đình nông dân này.
Cha của ông Chung là một kỹ sư công chánh, làm việc trong bộ hoả xa. Ông
là người theo phe Trung Hoa Dân Quốc. Năm 1946, khi phe Mao Trạch Đông
dành được quyền kiểm soát toàn thể lục điạ Trung Hoa, gia đình họ Chung
phải bỏ chạy sang Đài Loan. Tại đây phe nước Trung Hoa Dân Quốc, hay phe
Quốc Dân Đảng thành lập chính phủ lưu vong. Kể từ đó có hai nước Trung Hoa
- Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, do Đảng Cộng Sản cai trị, và Trung Hoa Dân
Quốc ở Đài Loan. cả hai đều tự nhận mình mới là người đại diện cho quyền
lợi của dân Trung Hoa. Thống chế Tưởng Giới Thạch, nhà độc tài quân sự của
Đài Loan tung ra rất nhiều kế hoạch tuyên truyền, nhồi sọ trẻ nhỏ ở Đài
Loan. Giống như các học sinh nhỏ tuổi khác, Chung đã được dạy phải phỉ nhổ
vào chế độ của Mao Trạch Đông. Nhưng ở sâu trong tâm khảm, chú bé vẫn tự
hào mình là người Trung Hoa, và qúi mến văn hoá Trung quốc.
Khi còn học trung học, Chung phải theo học những khoá huấn luyện quân sự
bắt buộc. Sau này, cậu có đăng lính vào Lực Lượng Hải Quân của Đài Loan,
với mục đích sẽ giải phóng Hoa Lục thoát khỏi sự cai trị của Mao. Một
người anh em của Chung kể lại rằng chính cha của cậu Chung khuyên con đi
học ngành kỹ sư. Do đó, Chung xin học trường Đại Học Quốc Gia Đài Loan,
một đại học danh tiếng. Sau khi ra trường, câu Chung được bổ đi làm tại
một đập ngăn nước ở phía bắc Đài Loan. Tại đây, cậu gặp người đẹp Lingjia
Wang, một hoạ sĩ, đang làm cô giáo dạy trong trường mẫu giáo gần đó. Ít
lâu sau hai người thành hôn.
Chung rất say mê ngành kỹ sư, cậu là sinh viên giỏi nhất trong lớp. Nhưng
triển vọng tương lai nghề nghiệp của cậu sẽ không đi xa nếu cứ lại Đài
Loan. Vì thế, giống như nhiều kỹ sư đồng lứa, cậu mơ một ngày nào đó sẽ
sang được Hoa Kỳ học tiếp lên cao. Trong lúc làm việc tại dập nước, cậu
chịu khó học tiếng Anh do bà vợ ông cố vấn Mỹ dạy.
Năm 1962, cậu xin được vào học tại trường đại học Minnesota. Cậu lấy bằng
cao học về kỹ sư công chánh, và được tuyển vào làm cho hãng Boeing
ởPhiladelphia. Cậu là một chuyên gia thử nghiệm “stress” trong Vertical
Takeoff and Landing Division, phụ trách về sức chịu của thân máy bay trong
giai đoạn cất cánh và hạ cánh. Bà Ling học thêm về Hội hoạ. Vào thời điểm
đó, nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, hay Trung Cộng không cho người dân
xuất ngoại. Gia đình họ Chung chỉ có vài người bạn thân là người Hoa, đa
số là dân Đài Loan sang Hoa Kỳ định cư. Thú vui của họ là đi thăm bảo tàng
viện ở New York, đi nghỉ mát ngoài bờ biển tiểu bang Delaware, và bắt cua
về ăn chung với nhau.
Một trong những người bạn thân từ thuở nhỏ của ông Chung là Thomas Xie.
Anh ta lúc đó đang là sinh viên ở trường New Mexico State University. Anh
thường liên lạc với Chung qua thư từ. Có lần anh cho biết anh được nhận
vào trường University of Chicago, nhưng thiếu tiền ghi danh. Hai vợ chồng
Chung gửi cho anh Xie hai ngàn đô la, không thắc mắc gì cả. Anh Xie nói
với tôi về ông Chung như sau: “Greg lúc nào cũng tử tế, sẵn lòng giúp đỡ
người khác.”
Bà Ling thì thuộc loại người quảng giao, ưa xã giao hơn ông Chung. Bà muốn
có nhiều bạn bè thân quen để giao tiếp. Hai vợ chồng cùng gia nhập Hiệp
Hội Người Đài Loan ở điạ phương. Trong những lần họp mặt với nhau, hai vợ
chồng Chung ủng hộ ý kiến thống nhất hai nước Trung Hoa: Đài Loan và Hoa
Lục nên kết hợp lại làm một. Họ phản đối ý kiến phân chia ranh giới giữa
hai khu vực. Bà Ling còn nói thêm: “Chúng tôi nghĩ rằng cả thế giới nên
sống hoà hợp với nhau. Mọi cuộc xung đột đều vô nghĩa đối với chúng tôi.”.
Quan điểm của hai vợ chồng ông Chung làm cho một số người trong Hội Đài
Loan không ưa, bởi vì họ nghĩ rằng vợ chồng nhà Chung không còn trung
thành với Đài Loan như xưa.
Năm 1972, ông Chung làm việc cho công ty Rockwell. Công ty vừa nhận được
hợp đồng chế tạo phi thuyền con thoi đầu tiên cho cơ quan NASA. Ông Chung
dọn sang sống ở miền Nam California. Khi đó, ông Chung và bà Ling đã trở
thành công dân Mỹ. Con đường công danh, nghề nghiệp của ông Chung thăng
tiến rất mau. Trong khi đó bà Ling cũng khá thành công về mặt xã hội, và
hội hoạ. Hai vợ chồng dự tính sẽ mãi mãi sinh sống tại Hoa Kỳ. Giống như
nhiều người di dân khác, họ cảm thấy thoải mái, hài lòng với ba dạng tịch
khác nhau: Người Hoa, người Đài Loan và người Mỹ.
TRONG SUỐT THỜI GIAN CUỐI THẬP NIÊN 1970’s, nước Trung Hoa Cộng Sản trải
qua nhiều cuộc cải cách to lớn về chính trị, và kinh tế. Thái độ thù
nghịch chế độ cộng sản của hai ông bà Chung giảm bớt đi rất nhiều. Bà Ling
nói với tôi: “Bỗng dưng, cánh cửa mở ra cho chúng ta có dịp giao tiếp với
Trung quốc. Chúng tôi nao nức, tò mò, muốn tìm hiểu về cội nguồn của
mình.”. Họ nhận thấy rằng chế độ Trung Hoa Dân Quốc cũng chẳng lấy gì gọi
là dân chủ hơn chế độ cộng sản. Ông Ching Wang, bạn thân của ông Chung từ
hồi trung học, hiện là giáo sư Hoá học của đại học UC San Francisco, nói
với chúng tôi rằng có sự chuyển hướng trong nếp suy nghĩ của người Đài
Loan. Điều này cũng dễ hiểu đối với những người đã định cư từ lâu ở nước
ngoài, và không có nghĩa là chúng tôi không còn trung thành với Đài Loan.
Ông Wang phân tích: “Chúng tôi bắt đầu có những tư tưởng nổi loạn. Chúng
tôi không còn tin vào những điều đã được tuyên truyền nhồi sọ vào đầu óc
chúng tôi trước đây.”. Truyền thông Đài Loan lúc nào cũng mô tả Trung Cộng
như một xã hội chậm tiến, mọi rợ. Nhưng khi xem truyền hình tổng thống
Richard Nixon đi thăm Bắc Kinh, chúng tôi thấy thành phố này cũng khá sạch
sẽ, và thịnh vượng.
Thấm nhuần triết lý Phật Giáo, chủ trương “buông xả” giúp ông Chung dễ
dàng tha thứ cho những điều xấu xa mà chế độ của Mao Trạch Đông từng gây
ra. Một người em của ông Chung nói: “Trong bà con của chúng tôi có người
đã bị Cộng Sản giết. Nhưng nghĩ cho cùng thì đó là thế hệ cũ. Chúng ta
không thể tiếp tục giữ mãi mối hận thù trong đầu. Anh Greg của chúng tôi
cũng cảm thấy như vậy.”.
Khi họ đến tuổi gần bốn mươi, họ cảm thấy cần phải truy nguyên về nguồn
gốc Trung Hoa trong máu huyết của họ. Bà Ling mạnh dạn nói: “Phải trở về
nguồn mới được. Nếu không chúng ta sẽ giống như trái bí rợ. Cái đít thì to
mà trong lòng chẳng còn trái tim.”
Năm 1976, sau khi đi xem hai nhạc sĩ Trung Hoa đến biểu diễn ở Los
Angeles, ông Chung bèn đi tìm mua một đàn bầu hai giây của Trung Hoa đem
về nhà tập gẩy đàn. Ông Chung và bà Ling bắt đầu sưu tầm những truyền đơn,
tài liệu của Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa. Kể cả những tài liệu về Cách
Mạng Văn Hoá, và những bài viết tiếc thương Mao Trạch Đông sau khi Mao
chết. Ông Chung đọc rất kỹ, ghi chép bên lề từng bài viết. Kể từ thập niên
1950’s, đa số người Hoa ở Hoa Lục đều viết Hoa Văn theo kiểu giản đơn của
Mao Trạch Đông. Phần lớn người Hoa ở Đài Loan vẫn còn viết Hoa văn theo
lối cũ. Ông Chung và bà Ling sẵn sàng tiếp thu lối viết kiểu mới.
Năm 1976, sau khi Mao chết, đó cũng là thời điểm kết thúc Cuộc Cách Mạng
Văn Hoá, và khởi đầu giai đoạn canh tân của Đặng Tiểu Bình. Trung quốc gửi
rất nhiều phái đoàn khoa học gia và kỹ sư sang các nước Tây phương. Trí
thức Trung Hoa luôn luôn tâm niệm phải “phải dùng khoa học để cứu Trung
Quốc.”. Ông Chung theo dõi mọi tiến bộ về khoa học của Trung quốc với niềm
tự hào, hãnh diện. Ông cắt dán, lưu trữ những bài báo, hình ảnh liên quan
đến việc Trung quốc phóng vệ tinh. Và ông cũng bắt đầu đi dự những buổi
nói chuyện của các nhóm học giả, nhà ngoại giao Trung quốc khi họ sang
thăm Hoa Kỳ. Trong một buổi hội thảo năm 1979, ông Chung gặp Chen Len Ku,
Giáo sư công nghệ của Viện Kỹ Thuật Harbin. Ông Chen này đang đi tìm những
tài liệu giảng dạy về “stress analysis”, phân tích sức chịu đựng của vật
liệu. Đề tài này là phạm vi chuyên môn của ông Chung. Ông Chung về nhà làm
photocopy những bản ghi chép hồi còn học ở University of Minnesota, gửi
sang cho ông Chen theo đường biển.
Khi gửi những tài liệu này đi, ông Chung còn viết một lá thư rất cảm động
như sau: “Tôi không biết mình có thể đóng góp được gì cho tổ quốc. Tôi lấy
làm hãnh diện về những thành quả nhân dân ta đã làm được cho Quê Mẹ. Tôi
lấy làm ân hận mình đã không đóng góp được gì nhiều.”.
GIÁO SƯ CHEN ĐEM LÁ THƯ VỀ khoe với đồng nghiệp ở Harbin. Hẳn là các quan
chức cao cấp Trung cộng cũng nghe nói đến chuyện này. Qua năm sau, ông
Chung được mời đến họp tại một khách sạn ở Los Angeles. Diễn giả chính
trong buổi họp này là Gu Wei Hao, quan chức của Công Ty Kỹ Nghệ Hàng Không
Trung quốc. Đây là một công ty quốc doanh thành lập từ thời thập niên
1950’s với sự trợ giúp của Nga Xô Viết. Công ty này gần như biến mất khi
quan hệ Trung Xô bị gẫy đổ, bây giờ người ta đang định canh tân lại công
ty. Gu Wei Hao khẳng định Trung quốc cương quyết sẽ học hỏi tìm tòi những
kỹ thuật tân tiến, nhất là trong lãnh vực không gian. Sau khi nghe bài
diễn thuyết, ông Chung nói chuyện khá lâu với Gu. Trung quốc cần phải cải
tiến việc thiết kế khung máy bay, phi thuyền, và đó là lãnh vực chuyên môn
mà ông Chung là chuyên gia, biết rất rõ. Sau buổi họp này, ông Chung cũng
gặp Chi Mak.Tay này đã bắt đầu sưu tầm tài liệu kỹ thuật cho Trung quốc từ
lâu, thế mà ông Chung không hay biết.
Vào thập niên 1950’s, Đảng Cộng Sản Trung quốc đưa ra chiến lược qui mô
thu thập tin tức. Viện Khoa Học Thông Tin Kỹ Thuật, thành lập năm 1958,
lấy được hàng ngàn tài liệu nước ngoài, đem về dịch sang tiếng Hoa. Các
quan chức cao cấp, học giả Trung Hoa đi Âu Châu và Hoa Kỳ dự hội nghị khoa
học chịu khó ghi chép rất kỹ, nghe ngóng, nghe lén, và thỉnh thoảng còn ăn
cắp cả những tài liệu chưa được xuất bản. Vào khoảng giữa thập niên
1960’s, chính phủ có khoảng 11,000 tạp chí ngoại quốc, năm triệu bằng
khoán trí tuệ, và vài trăm ngàn phúc trình nghiên cứu kỹ thuật, kể cả biên
bản hội nghị, hay những đề tài trình luận án tiến sĩ.
Chính quyền của Mao Trạch Đông chú trọng vào việc sưu tầm những tin tức có
thể ứng dụng cho lãnh vực quân sự. Sau khi Mao chết, Trung quốc mở rộng
phạm vi sưu tầm. Đến tháng ba năm 1986, Đặng Tiểu Bình thành lập Chương
Trình Nghiên Cứu & Phát Minh Kỹ Thuật Cao Cấp, lấy bí số là 863. Chương
trình này đặt ra chỉ tiêu làm việc từng năm, từng tháng, và nhấn mạnh
những điạ hạt phải chú trọng gồm có: không gian, sinh học, kỹ thuật laser,
kỹ thuật tin học, năng lượng, và nguyên vật liệu mới. Chính phủ đỡ đầu cho
các hoạt động nghiên cứu, và lập ra những công ty quốc doanh để chế tạo,
hay nhập cảng những kỹ thuật cần thiết.
Khi nào có thể làm được, những công ty này phải cố tìm ra sản phẩm của
công ty Tây phương bằng cách mua lại tài sản trí tuệ, hay đánh tráo, ăn
cắp cho bằng được. Sau khi tất cả những thủ đoạn này làm không xong, chính
phủ sẽ đứng ra yểm trợ cho hoạt động gián điệp. Bộ An Ninh Nhà nước và cơ
quan tình báo quân sự sẽ huấn luyện điệp viên để gửi sang Hoa Kỳ và các
nước Âu châu. Họ cũng tuyển mộ những khoa học gia, kỹ sư, và chuyên gia
sinh đẻ ở Trung quốc hiện đang sống ở hải ngoại, nhất là những người có lý
lịch an ninh trong sạch được làm trong những cơ sở bí mật. Có khi những
khoa học gia này được yêu cầu phải lấy cắp một loại tin tức bí mật nào đó.
Song cũng có khi chính quyền Trung quốc áp dụng chiến thuật “thu thập hàng
ngàn hạt cát” ráp chúng lại thành sản phẩm mong muốn.
Lấy ví dụ trường hợp ông Wang. Ông là giáo sư danh dự về ngành hoá học
dược phẩm. Ông phụ trách nghiên cứu cho công ty dược phẩm Merck hồi thập
niên 1970. Sau khi nghiên cứu về microbes có ở trong đất nhiều năm, ông
Wang và các đồng nghiệp phát minh loại thuốc chống ký sinh trùng lấy tên
là ivermectin. Chỉ ít lâu sau, tin tức về sự thành công của ông Wang được
đăng tải, ông nhận được điện thoại của nhân viên làm cho công ty dược phẩm
quốc doanh ở Mãn Châu mời ông Wang đi sang thăm Trung Hoa, dặn ông đem
theo mẫu microbe dùng để chế ra dược phẩm. Ông Wang nói rằng có lẽ người
gọi điện thoại mời ông đi Trung quốc không hiểu việc họ làm là một điều
hỗn láo, rất xấu. Thậm chí họ còn khinh thường ông bằng cách yếu cầu ông
bỏ tiền túi ra mua vé máy bay mà đi. Ông Wang giận lắm, cúp điện thoại,
không thèm trả lời.
Ông Chung thì ngược lại, có thái độ khác hẳn với ông Wang. Ông Chung hăm
hở muốn giúp đỡ Trung quốc. Nói về phương tiện tài chánh, vợ chồng ông
Chung tương đối rất khá giả. Họ có chung cư cho thuê ở thành phố Alhambra,
và một xưởng sửa xe hơi khá phát đạt ở Long Beach. Đấy là chưa kể hai vợ
chống sống rất tằn tiện. Họ cắt tóc cho nhau để đỡ tốn tiềm. Năm 1984, khi
Thế Vận Hội Muà Hè tổ chức ở Los Angles đang diễn ta, vợ chồng ông Chung
là một trong những Hoa Kiều hải ngoại được mời dự yến tiệc cùng với các
lực sĩ Trung quốc. Có đôi lần, theo lời yêu cầu của Lãnh Sự Quán Trung
quốc ở San Francisco, vợ chồng ông Chung nhận lời bảo trợ, đỡ đầu cho
người Hoa mới đến định cư ở California. Ông bà dẫn họ đi mua sắm những món
đồ cần thiết cho cuộc sống, và chở họ đi chợ trong vài tháng đầu mới định
cư.
Tháng Hai năm1985, ông Chung nhận được thư của quan chức tên là Chen
Qi-Nan mời ông đi Trung quốc dự hội nghị “trao đổi kỹ thuật”. Ông Chen đề
nghị ông Chung soạn sẵn tài liệu liên quan đến những vấn đề kỹ thuật.
Trong đó có việc thử sức chịu đựng của khung máy bay sau khi sử dụng nhiều
lần.
Ông Chung trả lời thư mời rằng đến tháng Bảy sắp tới là thời gian thuận
tiện để ông đi Trung quốc nhân dịp nghỉ hè vài tuần, để ông có dịp chính
mắt mình đi thăm phong cảnh của Quê Mẹ. Ông xin công ty Rockwell cho ông
nghỉ phép bảy tuần lễ để đi chơi.
Ông Chung vẫn còn giữ lá thư mời, cũng như bản nháp thư trả lời của ông.
Đọc cả hai lá thư, không biết là Trung quốc mang ơn ông, hay là ông mang
ơn Trung quốc. Trong một lá thư gửi cho bạn đồng lieu của Chen Qi Nan, ông
Chung viết: “Thật là một vinh hạnh lớn cho tôi, và tôi lấy làm phấn khởi
khi có dịp đóng góp vào kế hoạch canh tân Quê Mẹ.”. Động lực đầu tiên xúi
ông tiếp tay cho Trung quốc là “nghĩa vụ của một con dân”. Bà Ling phải
thú nhận: “Nhà tôi rất trung thành với tổ quốc. Ông ấy có một tấm lòng yêu
nước rất lớn.”
Chen và Chung tiếp tục trao đổi thư từ với nhau nhiều lần. Chen hỏi ông
Chung về các loại máy bay, và cách thiết kế trực thăng, và có lẽ ông Chung
muốn khoe khoang kiến thức của mình, lại bàn luôn sang chương trình phi
thuyền con thoi. Chen phải nhắc nhở ông Chung: “Tôi vẫn mong được ông chỉ
trình bầy về các loại máy bay qui ước thôi.”. Sau đó để tránh khiến ông
Chung bị giảm bớt lòng hăng say, Chen hứa việc trình bầy về phi thuyền con
thoi cũng sẽ được đưa vào nghị trình.
CUỐI THÁNG SÁU NẮM 1985, ông Chung, bà Ling bay đi Trung quốc cùng với hai
cậu con trai ở tuổi teenager. Trong lúc cậu Shane và Jeffrey theo học lớp
dạy Hoa Văn ở Bắc Kinh, ông Chung và bà Ling đi thăm khoảng hơn một chục
thành phố khác nhau cùng với các đoàn du lịch. Họ ghé thăm nhiều nơí chế
tạo máy bay ở tỉnh Nanchang, Chengdu và Xi’an. Bộ hàng không sắp xếp, và
trả hết phi cho những chuyến đi này. Ông Chung còn là diễn giả trình bầy
những vấn đề kỹ thuật cho mọi người nghe. Chương trình diễn thuyết của ông
được các đại học lớn, và cơ xưởng kỹ nghệ đài thọ. Ông Chung dùng phim
ảnh, tài liệu mang từ Mỹ sang để trình bầy về cách thiết kế phi thuyền của
Cơ Quan Không Gian Hoa Kỳ (NASA), làm cách nào để đưa phi thuyền con thoi
trở về trái đất an toàn. Ông Chung nhận thấy những kỷ thuật ở Bắc Kinh quá
lỗi thời, có từ thập niên 1950’s và chưa được canh tân, cập nhật.
Chuyến đi thăm Trung quốc lần này là chuyến đi đầu tiên trong đời ông
Chung ở tuổi chững chạc. Nó để lại trong tâm khảm ông rất nhiều dư âm quan
trọng cả về mặt chuyên môn, cũng như tình cảm cá nhân. Xen vào giữa những
buổi diễn thuyết ở các xí nghiệp, ông Chung còn được Bộ Hàng Không sắp xếp
cho đi thăm nhiều thắng cảnh đẹp của đát nước Trung Hoa. Đó là những nơi
khi còn nhỏ, cậu bé Chung hằng ước mơ được đi thăm. Ví dụ như Tượng Phật
vĩ đại xây trên núi Leshan, và Chuà Dyan ở thành phố Xi’an. Trong lúc lái
xe đi qua nhiều làng mạc, ông Chung trông thấy dân quê Trung quốc hái sen
từ vũng sình lầy. Bà Ling kể lại cho tôi rằng khi ông Chung ngồi toạ
thiền, ông đã hồi tưởng và thấy được cuộc đời của ông ở kiếp trước, đó là
cuộc đời của một nhà sư trong ngôi chùa Trung Hoa.
Vào cuối mùa hè, ông Chung đem về Mỹ những món quà lưu niệm nhỏ: chiếc kim
cài lên cà vạt do hãng chế tạo máy bay tặng, một vật trang sức cho cà vạt
khác do Trung quốc Học Viện Công Nghệ làm riêng cho ông, kèm theo một bảng
vấn lục dài tám trang. Đó là danh sách những điểm kỹ thuật mà các kỹ sư
hàng không ở Nanchang muốn tìm hiểu. Ông Chung để ra vài tháng nghiên cứu
sách vở để trả lời những câu hỏi mà các kỹ sư yêu cầu. Đến tháng 12, đích
thân ông Chung lái xe lên Lãnh sự quán Trung quốc ở San Francisco để gửi
tài liệu đi Nanchang qua thể thức gửi hàng của giới noại giao. Những thứ
ông Chung gửi đi, nếu giới chức Hoa Kỳ biết được chắc hẳn họ phải kinh
hoàng. Toàn là những tài liệu mật có giá trị dầy khoảng bảy cuốn sách cẩm
nang về kỹ thuật từ tài liệu công nghệ của công ty Rockwell cho đến cách
thiết kế oanh tạc cơ B-1.
Ông Moberly nói với tôi: “Tài liệu ông Chung gửi đi chính là Toa Thuốc
Thánh giúp cho công ty sản xuất máy bay Trung quốc có thể làm được những
gì Hoa Kỳ đang làm.”. Ông Chung đã đem cho đi những kiến thức kỹ thuật mà
công ty Rockwell phải mất hàng chục triệu đô la, và nhiều năm mới sáng chế
ra được kỹ thuật đó. Bà Ling thì cho rằng chẳng có gì đáng kể, bạn bè giúp
nhau là chuyện thường. Bà nói với tôi: “Toàn bộ quan hệ này chỉ mang tính
chất hữu nghị. Ở Trung quốc, mọi người đều sẵn lòng giúp đỡ nhau. Nếu bạn
là kỹ sư, thì bạn nên làm những gì bạn có thể làm được để giúp cho tổ quốc
của bạn.”
Trong khoảng thời gian một năm rưỡi sau, gia đình họ Chung mua thêm nhiều
tài sản điạ ốc. Tháng 10 năm 1986, họ mua một căn nhà ở vùng
Cypress,California. Năm tháng sau, họ trả bằng tiền mặt khoảng 600,000 để
mua một căn nhà rộng một mẫu đất ở Orange, và còn có dư tiền để xây lại
căn nhà từ đầu. Đặc biệt là gia đình này không thích xe xua, đi xe đắt
tiền hay áo quần sang trọng. Vì thế hàng xóm không ai để ý đến sự giầu có
của gia đình này.
Gu Wei Hao thỉnh thoảng ghé thăm gia đình, và hai vợ chồng ông Chung đưa
quan chức này đi chơi nhiều nơi, như Disneyland, hay ra biển hóng mát. Phụ
cấp công tác ngoại giao của Gu bèo lắm, chỉ được có $4 đô la một ngày. Vì
thế phần lớn vợ chồng ông Chung trả hết chi phí đi chơi cho Gu. Nếu không
hẳn là Gu phải có một qũi đen nào đó để cho y tiêu dùng.
Gia đình ông Chung dọn về căn nhà mới vào năm 1989. Chiều tối, nôg Chung
có cái thú tiêu khiển lấy ống viễn vọng kính nghiên cứu vì sao trên trời.
Ông thích nghiên cứu bản đồ thiên văn học của Trung Hoa ngày xưa, xác định
các chùm sao tinh tú trên trời. Bà Ling là người ưa thích mỹ thuật, hội
hoạ. Bà lấy thêm văn bằng cao học mỹ thuật của trường California State
University, Long Beach. Bà biến cái garage nhà bà thành một studio cho bà
vẽ tranh. Bà cũng nhận dạy hội hoạ cho trường đại học cộng đồng ở điạ
phương. Bà thích dạy về trường phái tân ấn tượng, trừu tượng, và tĩnh vật
thịnh hành ở Hoa Kỳ và Âu châu vào cuối thập niên1970’s. Một đồng nghiệp
trong trường nói với chúng tôi: “Bà có một số môn đệ rất thích theo học
với bà, họ mê say lối dạy của bà.”.
Vào năm 1998, tức là hai năm sau khi hãng Boeing mua lại hãng Rockwell,
ban quản trị mới quyết định rời văn phòng đi nơi khác. Nhân viên được chỉ
thị phải chuẩn bị thu dọn đồ đạc. Những tài liệu tham khảo cần giữ được
tập trung vào các thùng để sẵn, và công ty vận chuyển sẽ đem đi. Những thứ
nào cần vứt đi, cứ bỏ vào bao rác, sẽ có người đến đem đi đốt bỏ. Trong
vòng vài tuần lễ sau đó, ông Chung đem về nhà hàng chục thùng tài liệu.
Ông dấu những thùng tài liệu này trên những kệ sách trong căn hầm sau nhà.
Những người quen ông ở Trung quốc nhờ ông thu thập bất cứ tài liệu kỹ
thuật nào hữu ích. Bây giờ thì ông có thể có đủ tài liệu để cung cấp cho
họ trong nhiều năm chưa hết.
Năm 2002, khi ông Chung sắp đến tuổi về hưu. Ông vào sở liên tục in rất
nhiều tài liệu gốc của công ty Boeing ra. Trên mỗi bản in ra, ông ta phải
mừng chất keo mầu trắng để xoá lời cảnh cáo, cấm không được chia sẻ tin
tức trong tài liệu với người ngoài công ty. Ông cũng cẩn thận ghi lại ngày
tháng sao chụp, và xoá bỏ tên nhân viên chụp bản sao. Ông làm photocopy
những tài liệu này, bản chính do ông giữ, bản chụp hình ông gửi sang Trung
quốc. Khối lượng tài liệu in và sao chụp rất lớn, ông Moberly nói với tôi:
“Ông Chung chắc phải dùng hàng trăm bình nước tẩy xoá máu trắng.”
NĂM 2007, TRONG PHIÊN TOÀ LIÊN BANG KÉO DÀI 6 TUẦN LỄ, tại Santa Ana,
California, công tố viên trình bầy lý luận truy tố Chi Mak là một tên gián
điệp làm việc cho chính quyền Trung quốc. Họ tố cáo những tài liệu do Chi
Mak thu thập đã giúp Trung quốc làm được hệ thống radar Aegis. Hệ thống đó
giúp bảo vệ các tầu chiến Trung quốc. Bồi thẩm đoàn quyết định kết án Mak
về tội làm gián điệp cho chính phủ nước ngoài, và hắn bị tuyên án 24 năm
tù, trong nhà tù liên bang. Đây là một bản án nặng nhất dành cho một tên
gián điệp cho Trung cộng làm việc tại Hoa Kỳ.
Một người em trai của Mak, cùng bà vợ của y, bị cảnh sát phi trường quốc
tếLos Angeles bắt giữ cùng với một cuốn CD chứa đựng số tài liệu mật. Tuy
nhiên, trong trường hợp của ông Chung, các điều tra viên gặp phải điểm khó
khăn khi truy tố. Trong nhiều tháng, thám tử của FBI nghiên cứu hơn ba
trăm ngàn trang giấy tịch thu ở nhà ông Chung, nhưng không có một tài liệu
nào được gọi là tài liệu mật. Ông Chung không thể bị kết án là đã tiết lộ
bí mật quốc gia cho nước ngoài. Khi biện lý cuộc chứng minh ông Chung đã
chia sẻ tài liệu mật với viên chức cao cấp Trung quốc vào thập niên 1980,
đến nay đã quá hạn kỳ truy tố 5 năm, nên những vi nếu có xảy ra cũng không
còn đầy đủ hiệu lực dùng để kết án. Ông Moberly nói: “Rõ rệt là ông Chung
đã làm điều sai quấy. Nhưng chúng tôi phải tìm ra luật lệ nào mà ông Chung
đã vi phạm, để truy tố ông ta.”
Trong lúc xem xét qua những luật lệ liên bang, ông Moberly bắt gặp một
đoạn văn mang tựa đề: “Economic Espionage” (Làm Gián Điệp Kinh Tế) đã được
Quốc Hội thông qua và làm thành luật Economic Espionage Act năm 1996. Ông
Moberly nhớ là mình đã học qua lớp học dài khoảng 30 phút trong chương
trình huấn luyện phản gián. Lớp học ngắn quá, và ít có ai bị truy tố về
tội làm gián điệp kinh tế, nên không ai để ý đến đạo luật này.
Nội dung của đạo luật nói rằng kẻ làm gián điệp kinh tế là người đã “lấy
đi, mang theo, cất dấu” hay “sử dụng không đúng cách” những bí mật mậu
dịch với chủ đích trợ giúp chính quyền nước ngoài. Đối với trường hợp của
ông Chung, công tố viên không cần phải chứng minh ông Chung chuyển giao
tài liệu sang Trung Hoa trong năm năm qua. Chỉ riêng việc ông cất dấu bí
mật mậu dịch trong căn hầm đủ để kết tội ông.
Năm 2009, vụ án liên quan đến ông Chung được đem ra xét xử. Chánh án kỳ
này cũng chính là thẩm phán Cormac J. Carney, người từng xử Chi Mak trước
đây. Trong phần lấy lời khai, chuyên viên tình báo FBI, Ronald Guerin,
trình bầy kỹ thuật ngành tình báo Trung quốc tuyển người làm gián điệp cho
họ. Ông Guerin phân tích: “Tình báo Trung quốc cố tình khai thác khía cạnh
Trung Hoa nơi người làm mật báo viên. Họ dụ dỗ những người này bảo rằng họ
cứ chịu khó làm gián điệp cho Trung quốc đi, nó chẳng hại gì Hoa Kỳ cả,
chỉ giúp cho Trung quốc thôi.”., “Bạn chỉ cần vỗ vai người Hoa, và bảo anh
ta rằng anh cần giúp đỡ cho Quê Mẹ, cho đất nước của anh.. Và sau đó, anh
cho người mật báo bằng khen, bằng tưởng lục…, hay cho người ấy một số
tiền.”. Trong trường hợp của ông Chung, rõ rệt là ngành tình báo Trung
quốc đã dùng nghệ thuật ngon ngọt nói nịnh ông Chung, và đem lại hiệu quả
tốt. Việc truy tố ông Chung không hề có bằng cớ về số tiền trao đổi để lấy
tin tức.
Phe bào chữa cho ông Chung lý luận rằng quả thực ông Chung đã làm một số
việc “ngu dại trong quá khứ”, nhưng từ chối không nhận tội chia sẻ tin tức
mật. Ông ta chỉ là một kẻ tàng trữ tin tức vào hàng tép riu. Ngay lập tức,
ông Greg Staples, công tố viên trưởng, phản bác liền: “Hắn không phải là
loại tép riu. Hắn là tên tàng trữ tin tức khổng lồ, ghê gớm, và đáng sợ.”
Ông Chung trở thành người Mỹ đầu tiên bị kết tội làm gián điệp kinh tế.
Ông bị kết án 15 năm 9 tháng tù. Từ sau vụ này, còn có bốn người khác bị
công tố viên liên bang truy tố về tội làm gián điệp kinh tế. Tổng cộng có
năm người bị kết án với tội danh này.
Sau này, ông Moberley kể cho biết trong thời gian vụ xử tiếp diễn, có lần
ông Chung xác nhận ông trao tài liệu mật, và được nhận tiền thưởng. Để bảo
vệ bí mật cho cơ quan FBI, ông Chung không dám công khai nói trước toà về
trường hợp ông được trả tiền. Những lời cáo buộc trùng hợp với nội dung lá
thư mà Gu Wei Hao viết cho ông Chung, hứa sẽ trả bằng tiền mặt cho ông
Chung. Ngoài ra, trương mục ngân hàng của ông Chung tương đối không có
nhiều tiền, và đồng lương của ông ở Rockwell không quá lớn, khoảng $60,000
một năm. Vậy mà không hiểu nhờ đâu mà ông Chung có thể làm chủ một garage
sửa xe, một chung cư ba căn apartment cho thuê, và làm chủ hai căn nhà
cùng một lúc. Ông Moberly vẫn nói với tôi rằng: “Tôi không bao giờ tin ông
Chung làm chuyện này để lấy tiền.”. Rất có thể chính quyền Trung quốc cho
ông Chung vài chục ngàn như là một số tiền tưởng thưởng, khích lệ mà thôi.
ÔNG CHUNG KHÔNG BAO GIỜ CHO PHÉP TÔI VÀO THĂM ÔNG TRONG NHÀ TÙ, nhưng bà
Ling thì miễn cưỡng trả lời điện thoại của tôi. Bà không bị truy tố về tội
hình. Một buổi chiều, tôi đậu xe ở cuối đường Grovewood Lane, đi bộ lại
căn nhà ông bà Chung có cổng sắt. Chuông bấm ở cổng đầy máng nhện bám, ám
chỉ rất hiếm khi họ có khách đến nhà. Sân cỏ trước nhà mọc đầy cỏ dại, cái
xe cút kít để hốt lá cây khô, nằm chỏng gọng ở một góc, không có ai dùng
đến nó từ nhiều năm nay.
Khi tôi bấm chuông cửa, bà Ling Chung bước ra, dơ tay vẫy từ bực thềm
trước nhà. Bà mặc bộ quần áo ở nhà mầu xanh lá cây, tóc bà bơ phờ, không
trang điểm. Bà mời tôi ngồi ở ghế sa lông mầu trắng trong phòng khách.
Nắng chiều lọt vào khe cửa làm loé lên vài đường nắng sáng trên nền thảm.
Bà Ling rót ra một ly nước, mời tôi, và ngồi đối diện với tôi. Với nụ cười
chán nản trên môi, bà kể cho tôi kỷ niệm hồi hai vợ chồng bà xin vào quốc
tịch Mỹ. Trong mục câu hỏi “Liệu ông có sẵn sàng cầm súng bảo vệ Hoa Kỳ
hay không?”. Ông Chung bỏ trống, không trả lời. Người phỏng vấn hỏi ông
Chung: “Ông có sẵn sàng chiến đấu chống lại Trung quốc trong trường hợp
xảy ra chiến tranh hay không?”. Bà Ling nhớ rõ câu trả lời của ông Chung
là: “Nếu việc này xảy ra, tôi sẽ lấy khẩu súng tự bắn vào mình trước.”.
Chúng tôi bước bên nhau, đi từ phòng khách sang xưởng vẽ của bà. Phòng vẽ
tranh trông ra sân trước. Một bức tranh trừu tượng khổ lớn đang để trên
nền nhà, tưạ vào tường. Bà Ling nói với tôi rằng từ nhiều năm nay, bà tiếp
tục vẽ tranh. Bà chỉ tay về phía một bức tranh trông như thập tự giá mầu
violet, trên một chân trời tím. Bà nói tựa đề bức tranh này là
“45436-112”. Đó là con số tù của chồng bà đang đeo khi thụ án tại một nhà
tù liên bang, không bị kiểm soát chặt chẽ. Nhà tù này ở thành phố Butner,
tiểu bang North Carolina. Vài tháng bà đi thăm ông một lần.
Nước mắt ứa trên khoé mắt của bà. Bà tâm sự với tôi: “Ngày đầu tiên chúng
tôi gặp nhau, là chúng tôi quyết định sẽ lấy nhau. Vợ chồng chúng tôi sống
rất hoà thuận, hạnh phúc. Ngay cả khi chúng tôi trên 60, bạn bè thường nói
chúng tôi trông như cặp tình nhân ở thuở sinh viên.”. Khi ông Chung còn
làm cho hãng Boeing, thỉnh thoảng ông ngủ trưa trong hãng, ông choàng tỉnh
dậy vì nằm mơ thấy bà Ling đứng cạnh hát cho ông nghe. Ông hay cằn nhằn:
“Tôi đã nói với bà nhiều lần, đừng đứng cạnh tôi mà hát, tôi ngủ không
được.”. Trong đầu ông lúc nào cũng nghĩ rằng tôi đang hát.
Tôi hỏi bà Ling liệu ông Chung có thuỷ chung với nước Trung Hoa nhiều như
ông chung thủy với bà? Phải chăng các quan chức Trung quốc đã lợi dụng tấm
lòng chung thủy của ông Chung? Bà lặng thinh, không trả lời. Tôi hỏi thêm
theo bà nghĩ ông Chung có vô tội không?. Bà nói: “Tôi không thể trả lời
câu hỏi này được.”
Bà cho rằng các công tố viên đã suy nghĩ nông cạn, khi tìm hiểu động lực
nào đã khiến ông Chung làm chuyện này. Theo bà: “Những công tố viên này
chỉ nghĩ một cách phiến diện, lướt qua trên bề mặt của vấn đề.”. Sau đó,
bà phân tích kỹ hơn cho tôi nghe: Chủ đích của ông Chung là giúp Trung
quốc, và không có ý định làm hại Hoa Kỳ. Bà nói thêm: “Khi ông kết bạn với
một người, người ấy nhờ ông giúp đỡ, nếu ông là kỹ sư, hay hoạ sĩ. Ông
biết gì thì giúp bạn ông trong khả năng của mình. Chỉ có thế thôi.”
Trước khi ra về, bà Ling cho tôi xem một tấm giấy dài, dán trên tường,
ngay cửa bước vào phòng vẽ tranh. Trên tấm giấy viết những hàng chữa Tầu
rất đẹp: Đó là một số điều người Phật Tử nên làm. Chính ông Chung đã chép
tay những điều này cho bà Ling. Tôi thắc mắc không hiểu những điều Đức
Phật dạy có giúp gì cho ông Chung trong việc giải quyết xung đột giữa hai
chọn lựa ông nên trung thành với Hoa Kỳ hay với Trung quốc. Tôi hỏi bà
Ling xem bà có thể cùng một lúc duy trì thái độ của hai con người, với hai
quốc tịch. Mắt bà sáng hẳn lên, bà nói: “Tôi là một người Hoa, Tôi cũng là
một người Mỹ. Điều này thật là đẹp. Việc gì cứ phải biến nó thành hai thực
thể kình chống nhau?”.
Bài phóng sự điều tra của Yudhijist Bhattacharjee trên The
New Yorker 5/5/14
Nguyễn Minh Tâm dịch
No comments:
Post a Comment