; }

CHIẾN TRANH VÔ TUYẾN ĐIỆN ( PHẦN HAI )

CHƯƠNG 6. Những trận chiến điện tử trên Đại Tây Dương

[​IMG]

Karl Doenitz thăm thủy thủ đoàn tàu ngầm U-94 hải quân Đức Quốc xã tại quân cảng, tháng 6 năm 1941.

Một chương quan trọng khác trong lịch sử tác chiến điện tử là cuộc đấu tranh khốc liệt giữa các tàu ngầm phe Trục và các lực lượng không quân và hải quân chống tàu ngầm của các nước Đồng minh trong cái gọi là Trận chiến Đại Tây Dương.

Vào lúc bắt đầu chiến tranh, phương tiện sẵn có duy nhất để phát hiện các tàu ngầm, là thiết bị Asdic (Ủy ban nghiên cứu phát hiện tàu ngầm đặt tên theo chữ cái đầu tiên của tổ chức này), và bây giờ được gọi là sonar (Sonar dẫn đường thủy âm và xác định cự ly). Nó hoạt động trên nguyên tắc phát xạ trong nước của các sóng âm, mà khi gặp mục tiêu sẽ phản xạ từ nó theo hướng ngược lại, khoảng cách đến mục tiêu được tính toán bằng cách đo thời gian từ khi phát đến thời điểm tiếp nhận tín hiệu phản hồi. Đó gọi là định vị-sóng dội.

Mùa hè năm 1940, Đô đốc Doenitz, Tư lệnh hạm đội tàu ngầm Đức đã quyết định thay đổi căn bản chiến thuật tác chiến tàu ngầm. Ông nhận thấy các đội hộ tống đoàn công-voa của quân Đồng minh bao gồm chủ yếu là các khu trục hạm khá cũ, vì các tàu tốt nhất của Hải quân Hoàng gia được sử dụng để chiến đấu với các tàu đột kích Đức đang săn diệt các tàu buôn. Tận dụng lợi thế trước sự phòng thủ yếu của chúng, Doenitz quyết định tấn công đoàn công-voa của đối phương vào ban đêm từ tư thế nổi, mà không phải trong tư thế bơi ngầm. Trong những trường hợp này, Asdic (cự ly phát hiện của nó là rất nhỏ khi ở tư thế nổi trên mặt nước), sẽ là bất lực khi chống lại các tàu ngầm Đức nhanh nhẹn kiểu U, những con tàu mà dưới sự che chở của bóng tối sẽ có khả năng tấn công và thoát đi mà không cần lặn xuống mặt nước. Vào ban đêm, trong khoảng bao la rộng lớn của đại dương, các tháp chỉ huy thấp của tàu ngầm sẽ rất khó bị phát hiện, đồng thời bóng dáng to lớn tối sẫm của các tàu buôn nổi bật trên nền sáng hơn của bầu trời, sẽ trở thành một mục tiêu dễ dàng cho các tàu ngầm.


[​IMG] 

Hàng không mẫu hạm Anh "Courageous" chìm vì trúng ngư lôi của tàu ngầm Đức U-29 tháng 9 năm 1939

Các thuyền trưởng tàu ngầm U, nhận ra lợi thế của mình, tấn công ngày càng mạnh dạn hơn, táo bạo hơn, họ thâm nhập vào giữa đoàn công-voa chậm chạp, gây những thiệt hại rất lớn. Ngoài ra, cơ quan chuyên môn Đức Service B chuyên kiểm thính thông tin vô tuyến đã trợ giúp họ rất hữu ích, cơ quan đó thu và giải mã không chỉ các thông điệp vô tuyến do các đoàn công-voa của Anh trên biển phát đi, mà còn cả các thông điệp chỉ dẫn về các tuyến hải trình truyền đi từ Bộ Hải quân Anh.

Số lượng tàu buôn bị đánh chìm gia tăng từng ngày, và Vương quốc Anh cảm thấy triển vọng khủng khiếp sẽ ở trong tình trạng khi tất cả các đường vận tải hàng hải giữa Vương quốc Anh và Hoa Kỳ bị cắt đứt. Lo ngại viễn cảnh này, người Anh quyết định lắp đặt trên các
chiến hạm hộ tống và phi cơ phòng thủ bờ biển của Không quân Hoàng Gia radar chống tàu ngầm (ASV). Tuy nhiên, radar Mark I thật tồi tệ đối với nhiệm vụ chống tàu ngầm, và sang đầu năm 1941, nó được thay thế bởi các radar Mark II, được lắp đặt trên phi cơ. Với radar này, các phi cơ, bay ở độ cao 450-900 mét, có thể phát hiện tàu ngầm đang nổi lên ở khoảng cách 13 km. Mark II, té ra, cũng không đáp ứng được yêu cầu bởi vì khi phi cơ tiến vào thả bom xuống một chiếc tàu ngầm, nhiễu từ mặt biển che dấu tín hiệu phản xạ trên màn hình radar, làm cho việc thực hiện các vụ thả bom đêm xuống các tàu ngầm đang nổi không đạt hiệu quả.

Tuy nhiên, kẻ thù không biết sự hạn chế này. Sự hiện diện đơn thuần của radar trên
phi cơ giúp giảm số lượng các tàu buôn Anh bị bắn chìm, ít nhất là trong các vùng nước ven biển, trong khu vực từ bờ biển phía tây của quần đảo Anh quốc đến giới hạn tầm với của các phi cơ thuộc Bộ chỉ huy phòng thủ bờ biển.

[​IMG] 

Trận chiến trên Bắc Đại Tây Dương: tàu dầu quân Đồng minh "SS Dixie Arrow" đang chìm vì trúng ngư lôi của tàu ngầm Đức U-71.

Kể từ đó, các tàu ngầm Đức bắt đầu sử dụng chiến thuật mới của Đô đốc Doenitz. Chiến thuật này được gọi là cuộc tấn công "bầy sói" và mấu chốt là tập trung một số lượng lớn tàu ngầm tại các địa điểm chiến lược quan trọng để khi các đoàn công-voa đi qua, các tàu ngầm sẽ tấn công đối thủ của mình trên tất cả các hướng trong suốt một vài ngày. Chiến thuật mới được sử dụng chủ yếu ngoài tầm với của
phi cơ Anh, tạo ra những khó khăn lớn cho các chiến hạm hộ tống và gây thiệt hại lớn cho đoàn công-voa. Rất nhiều tàu buôn của Anh bị chìm là do kết quả của phương pháp tấn công mới. Và bây giờ, sau khi Hoa Kỳ bước vào tham chiến, tàu ngầm Đức có thể hoạt động cả trên các tuyến đường ven biển của Châu Mỹ. Một số lượng lớn các tàu buôn đang đi các hải trình này - không được trang bị vũ khí và hoàn toàn bất lực khi đối mặt với mối đe dọa từ dưới nước. Do đó, số lượng tàu bị chìm tăng nhanh như thổi : chỉ trong tháng Năm và tháng 6 năm 1942, ở ngoài khơi bờ biển Mỹ đã có 200 tàu buôn bị bắn chìm !

Trong khi trên biển diễn ra các trận chiến ác liệt, trong các phòng thí nghiệm các công cụ mới đang được chuẩn bị. Các nhà khoa học bận rộn phát triển một loạt các công cụ RTR, REP và phản REP, những thứ cần phải thay đổi tiến trình trận chiến giành Đại Tây Dương.

Đồng minh bắt đầu với một thiết bị của các
phi cơ tầm xa có thời gian bay dài là radar mới dải tần số L, tức là radar hoạt động ở tần số 1 - 2 GHz, cho phép họ bao trùm tất cả các tuyến đường biển chính của các đoàn công-voa giữa Anh và Mỹ từ các căn cứ không quân ở các nước này. Như vậy, kể từ mùa hè năm 1942, các lực lượng Đồng minh đã có cơ hội bắt đầu thả bom đêm các tàu ngầm Đức, sử dụng một đèn chiếu công suất rất mạnh - Leigh Light, nó có thể chiếu sáng một tàu ngầm từ khoảng cách gần một dặm rưỡi. Bây giờ, khi quân Đồng minh đã tìm ra biện pháp bao trùm toàn bộ Đại Tây Dương và khắc phục vấn đề mất tiếp xúc radar ở cự ly 300 - 400 mét bằng cách sử dụng đèn chiếu, số liệu các tàu ngầm Đức bị bắn chìm bắt đầu tăng.

Người Đức đáp trả bằng cách lắp đặt trên các tàu ngầm của họ các RWR Metox. Như đã mô tả, loại RWR này có thể thu nhận được tín hiệu của đối phương trước khi đối phương phát hiện ra
chiến hạm hoặc tàu ngầm. Công ty Pháp Metox có trong kho các RWR, tuy nhiên, các ăng-ten phải vội vàng sửa lại. Người ta quấn dây cho nó xung quanh một cây thập giá bằng gỗ; chiếc ăng-ten ngẫu hứng này được gọi đùa là "Biscay Cross", ám chỉ đến Vịnh Biscay, nơi U-boat Đức phải đấu tranh không chỉ với những cơn bão, mà nó quá quen thuộc, nhưng cũng còn đấu tranh với sự tập trung lớn các phi cơchiến hạm của quân Đồng minh. Metox cung cấp cảnh báo sớm phi cơchiến hạm của đối phương, cho phép các tàu ngầm kịp thời thực hiện động tác lặn khẩn cấp.

Biện pháp đối phó trên có hiệu quả ngay lập tức và số lượng tàu ngầm bị bắn chìm giảm đáng kể. Đồng minh, tất nhiên, nhận ra rằng lại có một điều gì mới đang xảy ra trong lĩnh vực điện tử, họ bắt đầu làm việc trên radar mới Mark III. Radar này làm việc tại tần số 3 GHz, tương ứng với bước sóng 10 cm S-band (2-4 GHz) cao hơn nhiều so với băng tần L, mà tiền nhiệm của nó đã làm việc. Mark III được đưa vào trang bị đầu năm 1943. RWR Metox, có nhiệm vụ phải cảnh báo U-boat của Đức về các
phi cơ và chiến hạm của đối phương đang đến gần, lại không có khả năng chặn bắt bức xạ của dải tần số cao như thế và im lặng . Vậy là, U-boat, không nghi ngờ và tin tưởng radar cảnh báo sớm Metox của mình, nổi lên mặt biển để sạc pin, trở thành con mồi dễ dàng cho phi cơ Đồng minh, được trang bị radar mới.

Ngay sau khi tổn thất của các tàu ngầm tăng trở lại, các chuyên gia Đức bắt đầu cố gắng một cách tuyệt vọng để khám phá chuyện gì đã thay đổi trong phương pháp phát hiện của quân Đồng minh. Mặc dù các chỉ huy còn sống của U-boat báo cáo rằng RWR của họ trước khi tấn công không hề thu được bức xạ điện từ, vì lý do nào đấy, các chuyên gia Đức đã không xem xét khả năng Đồng minh đã chuyển sang dùng dải tần số cao hơn. Thay vào đó, họ cho rằng Đồng minh áp dụng hệ thống mới dựa trên việc sử dụng tia hồng ngoại, ví dụ, các máy đo sóng radio rất nhạy cảm có thể phát hiện nhiệt độ cao phát ra từ động cơ U-boat. Vậy là, đi theo con đường sai lầm, họ chú trọng phát triển chế máy đo sóng của nhiệt độ cao phát ra từ các động cơ tàu ngầm. Sau nhiều tháng nghiên cứu và thử nghiệm, dọc theo thân hai bên của U-boat đã lắp đặt các lá chắn nhiệt, nhưng hiệu quả duy nhất mà chúng đem lại là làm giảm tốc độ hành trình của chúng. Trong khi đó, số lượng tàu ngầm U-boat bị bắn chìm bắt đầu tăng lại; chỉ trong tháng Năm và tháng 6 năm 1943, Đức bị bắn chìm khoảng một trăm tàu ngầm.


Không quân Đức đến trợ giúp các thủy thủ, khi giữa đống xác phi cơ Anh bị bắn hạ gần Rotterdam, họ tìm thấy một số bộ phận của radar H2S, chúng tiết lộ một công nghệ, cho đến thời điểm đó các chuyên gia Đức vẫn chưa biết. Nhờ phát hiện thành công này họ hiểu rằng Đồng minh đã phát kiến ra đèn điện tử tinh vi magnetron nổi tiếng, hoạt động ở bước sóng khoảng 10 cm. Ngành công nghiệp Đức lập tức bắt tay vào chế tạo RWR có thể tiếp nhận bức xạ trong dải tần S-band. Máy thu mới được gọi là Naxos, đòi hỏi mất nhiều thời gian để phát triển và đã không đạt yêu cầu, như là chưa đủ nhạy và cự ly phát hiện chỉ khoảng 6 - 8 km.

Trong khi đó, quân Đồng minh ngày càng bắn chìm nhiều và nhiều hơn nữa các U-boat, do đó, người Đức cố gắng tìm phương pháp khác trốn tránh sự phát hiện. Một trong những cách đó - có tên mã là Bold, sử dụng bẫy dưới dạng quả cầu cao su thả từ tàu ngầm lên độ cao khoảng 10 mét. Gắn với chúng có một hoặc hai sợi cáp kim loại để phản xạ bức xạ radar của đối phương, do vậy mà tạo ra các báo động sai. Những quả bóng bay trên không được gắn với các phao nổi, thường trôi dạt gần đó, tuy nhiên, trong thực tế, khả năng đánh lạc hướng phi cơ tuần tra rất nhỏ.

Vào cuối năm 1943, có một số thành công đã đạt được khi sử dụng ống thở (snorkel) - là đường ống được trang bị một van đặc biệt cho phép tàu ngầm sạc điện ắc quy, vẫn di chuyển ở tư thế bơi ngầm. Các snorkel được bao phủ loại vật liệu hấp thụ radar đặc biệt có thể hấp thụ nhiều hơn nhiều so với phản xạ bức xạ radar của đối phương.

Khi máy thu Naxos được chờ đợi từ lâu cuối cùng đã sẵn sàng, mọi việc đã quá muộn, quá nhiều tàu ngầm bị đánh chìm và Trận chiến Đại Tây Dương đến lúc này đã thua không gỡ nổi.


[​IMG] 

U-boat bị phi cơ Đồng minh tấn công

Việc ngăn chặn sóng radio của U-boat đóng góp rất lớn vào chiến thắng của Đồng Minh trong Trận chiến Đại Tây Dương, đặc biệt là trong thời điểm có những tổn thất lớn nhất của các đoàn tàu công-voa. Các tàu ngầm phải nổi lên định kỳ, thường là vào ban đêm, để sạc ắc quy, định vị bản thân và phát điện báo về bộ tham mưu, trao đổi thông tin vô tuyến với tàu ngầm khác trong một khu vực nhất định. Các sóng radio truyền đi đó bị các tàu hộ tống quân Đồng minh, có trang bị đài vô tuyến trắc giác chặn bắt và khi đó  họ có thể xác định được vị trí tàu ngầm. Sau đó, những tọa độ trên được truyền đến các biên đội tàu săn-diệt, có nhiệm vụ phát hiện và bắn chìm tàu ngầm. Các nhóm này, thường bao gồm hai hoặc ba khu trục hạm hoặc frigate, được phái đến điểm chỉ định và săn đuổi đối thủ không may mắn.

Để tránh điều này, người Đức phát minh ra một hệ thống thu phát rất nhanh hoặc các phiên thu truyền kiểu "tiêm chích"; họ ghi nhận chúng một cách nhanh chóng và phát chúng đi trong vòng chưa đầy một giây.

Để lắng nghe bình thường, máy ghi âm sẽ tự động làm chậm quá trình ghi. Các máy vô tuyến
trắc giác thời đó vẫn chưa đủ nhanh để chặn bắt và xác định tọa độ của máy phát trong một thời gian ngắn như thế, bởi vậy U-boat có cơ hội khá dễ dàng thu phát ban đêm, mặc dù thời gian không được lâu.

Năm 1943, quân Đồng minh đưa ra biện pháp đối kháng điện tử mới - máy vô tuyến
trắc giác tự động tên gọi Huff - Duff, có thể thu chương trình phát radio ngắn và tính toán hướng trong một vài giây diễn ra chương trình phát sóng đó. Huff - Daff được cài đặt không chỉ trên tầu chiến, chúng cũng được bố trí một cách hợp lý trong các trạm ven biển để hình thành một tam giác đạc tốt thu các thông điệp cần ngăn chặn. Ngay khi U-boat Đức bắt đầu phát thông điệp vô tuyến, các trạm mặt đất và tàu thuyền trên biển có thể xác định lập tức vị trí của nó và gửi thông tin đến các tàu chống tàu ngầm và phi cơ chống ngầm để tấn công và đánh chìm kẻ địch.

[​IMG]
Trận chiến Đại Tây Dương cung cấp một bài học quan trọng cho những người có trách nhiệm lập kế hoạch và tiến hành tác chiến điện tử : nó dạy rằng, biết kẻ thù đang sử dụng thiết bị gì trên chiến trường vào lúc này là chưa đủ, quan trọng hơn là biết được những gì đang được phát triển để sử dụng trong các chiến dịch trong tương lai. Tướng Martini đã có một quyết định khôn ngoan, khi vào năm 1939, ông quyết định bay dọc theo bờ biển nước Anh trên khinh khí cầu Zeppelin. Như vậy, ông ta đã bay chuyến bay đầu tiên của mình thực hiện nhiệm vụ giám sát điện tử, nhằm tìm ra những gì đối phương đang tiến hành trong lĩnh vực tác chiến điện tử. Không quân Đức cần phải duy trì công tác thực hành này trong suốt cuộc chiến tranh, và không chỉ cần phái các oanh tạc cơ và phi cơ tiêm kích đến nước Anh, mà còn cần phái một số
phi cơ được trang bị các thiết bị để chặn thu bức xạ điện từ trên bầu trời Anh.

Ngành công nghiệp điện tử của Đức đã có đủ kinh nghiệm để thực hiện trinh sát trong phổ điện từ; các máy thu tách sóng - là thiết bị lý tưởng cho nhiệm vụ này, mà người Đức cần áp dụng và phải được sử dụng để thu ghi các xung phát ra từ các radar mới của Anh trong thời gian thử nghiệm chúng.

Bỏ qua trinh sát điện tử, Bộ Tư lệnh Đức không chỉ đánh giá thấp mối đe dọa đang dần hiện ra, mà còn tự lấy đi của mình cơ hội có được thông tin về các cải tiến kỹ thuật, có thể tỏ ra cực kỳ hữu ích cho sự phát triển của một hệ thống ECM thích hợp có khả năng vô hiệu hóa các mối đe dọa sắp tới.


CHƯƠNG 7. "Đột phá qua La Manche" (Operation Cerberus)



[​IMG]
Lúc bình minh ngày 22 tháng 3 năm 1941, chiếc tuần dương hạm Đức "Scharnhorst" và "Gneisenau" được phái đến căn cứ hải quân Brest thuộc nước Pháp đang bị chiếm đóng. Cả hai tàu vừa hoàn thành một chuyến di biển dài ở Đại Tây Dương và cần sửa chữa sau khi đánh chìm hơn hai mươi tàu buôn Anh. Hai tháng sau, tại chính cảng này, một chiến hạm Đức nữa vào ẩn náu, đó là tuần dương hạm hạng nặng "Prinz Eugen". Một vài ngày trước, tàu đã chiến đấu với hạm đội Anh cùng với thiết giáp hạm "Bismarck". Tàu "Bismarck" bị bắn chìm, còn "Prinz Eugen" đã kịp trốn thoát.

Trong quá trình sửa chữa, 3 chiếc tàu lớn của Đức, mặc dù có ngụy trang kỹ lưỡng, chúng vẫn bị phát hiện bởi Không lực Hoàng gia Anh, họ ngay lập tức, ngày cũng như đêm, dội bom quân cảng. Trong thời gian các vụ thả bom, các tàu trên vài lần chịu thiệt hại, và sau một thời gian, Bộ Tư lệnh tối cao Đức quyết định đưa chúng về một cảng an toàn trong nước Đức. Trên bờ đối diện, người Anh hiểu rằng các tàu đối phương sớm hay muộn cũng phải rời Brest, để tránh các cuộc không kích hàng ngày và bắt đầu áp dụng các biện pháp ngăn chặn điều đó.

Quá trình di chuyển ba chiến hạm từ Brest về Đức là rất nguy hiểm. Hitler, giống như một con bệnh ung thư, đích thân theo dõi tình hình; không hành động có nghĩa là phải nhận cái chết, mà hành động thì cái tạo ra một số cơ hội cứu rỗi cũng rất nguy hiểm. Vậy là người ta quyết định hành động. Điều đầu tiên cần làm là quyết định các tàu chiến sẽ đi theo hải trình nào để về Đức. Có hai tuyến đường biển, một đường tồi hơn đường kia. Tuyến thứ nhất - đi về phía tây và phía bắc vòng quanh quần đảo Anh, sau đó đi qua Biển Bắc, tuy nhiên, vụ đắm tàu "Bismarck" xác nhận thực tế là các hạm đội Anh sẽ có đủ thời gian để ngăn chặn và đánh chìm tàu. Một tuyến khác - đi qua eo biển Anh (eo La Manche), tuyến đường biển này có lợi thế - vì ngắn hơn nhiều, nhưng phải vượt qua ngay trước mặt người Anh, với những hậu quả không phải khó tưởng tượng. Tuy nhiên, hải trình thứ hai cũng cho một số cơ hội để tránh cuộc tấn công của các tàu chiến hạng nặng Hải quân Anh, vì người Anh, thật hài hước, họ đã chuyển hầu hết tàu của mình đến các cảng phía bắc để tránh các cuộc tấn công đường không của Không quân Đức. Mối nguy hiểm chính trong eo biển La Manche là có mặt một số lượng lớn các tàu cao tốc phóng ngư lôi và các
phi cơ, các cỗ đại bác tầm xa của lực lượng pháo bảo vệ bờ biển, được bố trí dọc bờ biển eo Dover, và dĩ nhiên cả thủy lôi. Để chiến dịch hành quân không kết thúc bằng một thảm họa hoàn toàn, điều rất quan trọng là các tàu chiến Đức phải đến được eo biển Dover mà không bị phát hiện. Nếu chúng có thể đi đến Dover mà không bị phát hiện, khi đó có thể hiểu được từ những tính toán rất đơn giản, rằng từ giờ phút đó trở đi, hạm đội Anh không thể bắt kịp và tấn công chúng.

Sau khi cân nhắc tất cả các ý kiến "đồng tình" và "phản đối", Bộ Tư lệnh Hải quân Đức chọn một tuyến đường biển ngắn hơn qua eo biển Anh. Nhưng đồng thời nó phải giải quyết vấn đề khi rời Brest đi ngày hay đi đêm. Xuất phát ban ngày có nghĩa là các chiến hạm có thể đi qua eo biển Dover vào ban đêm, nhưng đồng thời, xuất bến khỏi Brest vào ban đêm sẽ làm cho chúng thành các bia bắn trước các cỗ pháo vào ban ngày. Cuối cùng, họ quyết định cho xuất phát rời Brest ban đêm. Quyết định này dựa trên thực tế là sự nguy hiểm gây ra bởi trinh sát trên không của người Anh lớn hơn nguy cơ rơi vào lưới lửa của các cỗ pháo bờ biển.


[​IMG]Bản đồ thể hiện sự di chuyển của SMS "Prinz Eugen", SMS "Bismarck" và các tàu Anh truy đuổi chúng trong chiến dịch "Operation Rheinübung" tháng 5 năm 1941, trong đó SMS "Bismarck" bị bắn chìm.

Người đứng đầu Signal Corps của Không quân Đức, tướng Martini, đích thân nghiên cứu radar của đối phương kể từ tháng Tám năm 1939, khi mà ông cố gắng chặn thu, nhưng không đạt kết quả, các bức xạ điện từ trên bầu trời nước Anh (xem Chương 5). Với sự sụp đổ của nước Pháp vào năm 1940, dọc theo bờ biển phía bắc Pháp đã thiết lập nhiều trạm thu để đánh chặn bức xạ radar Anh. Theo cách này, người Đức do thám các đặc tính chủ yếu của radar Anh (tần số, độ dài xung, v.v) và sự phân bố của chúng. Tướng Martini được giao trách nhiệm gây nhiễu các radar của Anh trong chiến dịch "Nhảy qua La Manche" để giữ cho ba tàu chiến của Đức bị phát hiện chậm đến mức tối đa có thể được.

Mặc dù radar là một phương tiện trinh sát hiệu quả và điều khiển hỏa lực pháo binh, có thể nhìn xuyên qua sương mù và bóng tối, chúng dễ bị gây nhiễu và nhạy với các biện pháp đánh lạc hướng . Chính đó là tính dễ tổn thương của radar, chiến trường cơ bản của tác chiến điện tử. Radar nhạy với nhiễu vì thường các tín hiệu phản xạ từ mục tiêu rất yếu. Khi máy thu của radar đủ nhạy đối với việc tiếp nhận tín hiệu đáp ứng yếu của mục tiêu, nó có thể dễ dàng bị áp
chế bởi các tín hiệu của máy phát nhiễu công suất mạnh hơn, hoạt động trên cùng một tần số và hướng thẳng vào nó. Để gây nhiễu thành công cho các radar Anh giám sát eo biển Anh, điều quan trọng là phải biết tần số hoạt động chính xác và các tọa độ địa lý gần đúng, thông tin trên đã được tướng Martini biết rõ.

Ngành công nghiệp Đức lập tức phát triển và cho ra đời các thiết bị gây nhiễu đặc biệt, có thể làm bão hòa các máy thu radar Anh và làm mù CRT của họ. Martini triển khai chúng gần Ostend, Boulogne, Dieppe, Cherbourg, Rotterdam và tại các địa điểm thích hợp khác dọc theo bờ biển phía bắc Pháp. Mỗi máy phát nhiễu được trao một mục tiêu trong số các radar Anh.



[​IMG]
SMS Scharnhorst trong cảng, mùa đông 1939–1940.

Kế hoạch đơn giản nhưng khéo léo của tướng Martini gồm có cản trở người Anh sử dụng các radar của họ và không cho phép họ hiểu rằng các khí cụ của họ đang bị đối phương áp
chế có chủ định. Trong hai tháng trước khi các tàu xuất hành rời Brest, việc gây nhiễu hệ thống radar của Anh bắt đầu, với hy vọng làm người Anh tin rằng điều này là do nhiễu khí quyển. Lúc đầu, việc gây nhiễu chỉ kéo dài một vài phút, nhưng sau đó dần dần tăng lên từng ngày, vì vậy người Anh đã quen với nó, họ đi đến chỗ tin rằng điều này là do đặc tính khí quyển cụ thể của khu vực này, do đó họ không thể tránh khỏi. Sau khoảng một tháng hành động như vậy, kết quả mong muốn đã đạt được.

Người Đức, với chu đáo thường lệ của họ, tiến hành mọi biện pháp phòng ngừa để bảo
đảm chuyến xuất bến của các chiến hạm sẽ gây cho đối phương bất ngờ. Trước hết, kế hoạch chỉ được thông báo cho ba thuyền trưởng chiến hạm. Thứ hai, họ chủ định đánh lừa người dân Brest, mà nhiều người trong số đó là điệp viên Anh và các thành viên của phong trào kháng chiến Pháp bằng cách sắp đặt một vũ hội phục trang, gây ấn tượng rằng họ không có ý định ra khơi trong tương lai gần. Và cuối cùng, để thêm ấn tượng rằng các nhiệm vụ chiến đấu tiếp theo mà "Scharnhorst", "Gneisenau" và "Prinz Eugen" phải đối mặt sẽ là tấn công đoàn công-voa của đối phương đang đi dọc bờ biển châu Phi ở phía Nam Đại Tây Dương, trên các tàu người ta chuyển đến các gói mũ sắt và và thùng dầu ăn, phía ngoài ghi "sử dụng trong các vùng nhiệt đới", ngoài ra, các dịch vụ bưu chính bình thường và giặt ủi, cung cấp thực phẩm vẫn tiếp tục - tất cả nhằm mục đích làm giảm mối nghi ngờ của kẻ thù về việc ra khơi sắp tới. 
 

[​IMG]
SMS Gneisenau trên biển, năm 1939.

Mặc dù tất cả các biện pháp phòng ngừa trên, Bộ Hải quân Anh, sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng tình hình, tuy nhiên vẫn đi đến kết luận ba tàu Đức đang chuẩn bị rời Brest và gần như chắc chắn chúng đã chọn con đường qua eo biển Anh. Người Anh lên kế hoạch chiến dịch "Fuller" với mục đích ngăn chặn chuyến đi của 3 tàu chiến qua eo biển trở về Đức. Các chuyến bay trinh sát của Anh vào các ngày 29 và 31 tháng Giêng, thực sự chỉ ra rằng trong cảng Brest đã kéo về một số lượng lớn các tàu cao tốc phóng ngư lôi, các khu trục hạm hạng nhẹ và các tàu quét mìn, điều đó rõ ràng nói về chuyến xuất bến sắp xảy ra. Vì vậy, ngày 03 tháng 2, Bộ Hải quân Anh đã ban hành lệnh tiến hành các biện pháp khác nhau, được phát triển mới một thời gian trước đây đối với trường hợp xảy ra các sự kiện đột biến như vậy. Dọc theo các tuyến đường biển có khả năng tàu địch đi qua, người ta rải mìn, còn radar phòng thủ bờ biển và
phi cơ của Bộ chỉ huy phòng thủ bờ biển thuộc Không quân Hoàng gia được đưa về mức báo động chiến đấu cấp cao nhất. Bây giờ, cả hai đối thủ đã sẵn sàng cho trận chiến, sau khi đã trù tính, trong tình trạng bí mật nghiêm ngặt, tất cả các hành động của mình cho đến từng chi tiết nhỏ nhất.

Chuyến khởi hành của các tàu Đức được lên kế hoạch vào nửa đêm ngày 11 tháng 2 năm 1942. Thời gian và ngày giờ đã được chọn sao cho tận dụng lợi thế của bóng tối một đợt trăng mới và thủy triều, làm tăng thêm 5 mét chiều sâu của luồng tàu, cũng như tốc độ dòng chảy liên quan là 3 hải lý. Ngay trước nửa đêm, cuộc không kích nghi binh đã được tổ chức; nhiều quả bom đã được thả xuống một số bãi cát hoang của cảng và cư dân Brest ẩn náu tránh cuộc không kích trong các hầm tránh bom. Trong khi họ chờ đợi còi báo yên, ba tàu Đức cùng với tám ​​khu trục hạm và 16 tàu nhỏ phóng lôi, nhổ neo và từ từ ra khỏi cảng .

Sau khi ra biển, thủy thủ đoàn cuối cùng mới được thông báo rằng họ đang trở về Đức. Tin này gây ra một cơn bão hân hoan với ý nghĩ được trở về nhà và được tham gia vào một chiến dịch táo bạo như vậy. Đêm tối và sương mù, các tàu đi gần sát bờ biển của Pháp đến mức có thể, theo một dải nước hẹp mới quét thủy lôi xong vài giờ trước đây bởi các tàu quét mìn Đức. Giữa các tàu duy trì chế độ im lặng vô tuyến và radar hoàn toàn, còn để trao đổi giữa các tàu, người ta sử dụng đèn chiếu hồng ngoại đặc biệt, vô hình với người Anh.

Các tàu chiến Đức có hỏa lực hùng mạnh: "Scharnhorst" và "Gneisenau" mỗi chiếc có chín pháo 280 mm, mười hai pháo 152 mm, mười bốn pháo 105 mm và một số lượng lớn pháo tự động 37 mm, ba mươi sáu ống phóng ngư lôi 533 mm. "Prinz Eugen" có tám pháo 203 mm, mười hai pháo 105 mm, mười hai pháo phòng không tự động 37 mm và mười hai ống phóng ngư lôi 533 mm. Ngoài ra, thêm vào đó là hỏa lực các khu trục hạm và tàu nhỏ phóng ngư lôi. Trên không, hải đoàn được yểm trợ của 250
phi cơ tiêm kích tầm xa dưới sự chỉ huy của phi công tiêm kích nổi tiếng của Không quân Đức là Adolf Galland, người có đến 94 chiến thắng về phần mình trong không chiến, còn đến cuối chiến tranh, ông sẽ được công nhận bắn rơi 103 phi cơ đối phương.

[​IMG]
SMS "Prinz Eugen" cũ, sau Thế chiến 2 với định danh USS Prinz Eugen, trước khi tham gia thử nghiệm bom hạt nhân tại đảo san hô Bikini năm 1946.

Thuộc quyền phía Anh, lần lượt, là toàn bộ hạm đội, và hàng trăm
phi cơ các loại, nhưng nó có lẽ mối đe dọa lớn nhất đối với người Đức đến từ mạng lưới radar của Anh trải dài dọc bờ biển phía nam nước này. Người Đức đã tiêm một liều nhiễu rất cẩn thận, để trong mọi trường hợp, không gây ra ngay cả những nghi ngờ nào dù nhỏ.




[​IMG]



Không ảnh của phi cơ trinh sát Anh quãng tháng 2-6 năm 1942 cho thấy (mũi tên phần dưới và giữa hình) SMS Scharnhorst đang sửa chữa tại quân cảng Kiel nước Đức Quốc Xã, sau khi vướng thủy lôi tháng 2 năm 1942 khi qua "Channel Dash" trong chiến dịch Cerberus.

Suốt đêm, hải đoàn trải dài, không bị
phi cơ trinh sát Anh chú ý, mở hết tốc lực tiến đến eo biển Dover. Bình minh đang đến gần. Sự căng thẳng của các thủy thủ Đức, đang chờ đợi cuộc tấn công của hạm đội đối phương có thể đến bất kỳ thời gian nào, bắt đầu lớn dần. Trong những giờ bình minh đầu tiên, hai chiếc phi cơ Heinkel He111 trang bị thiết bị gây nhiễu, bắt đầu chiến dịch gây nhiễu radar ven biển được chuẩn bị rất cẩn thận; họ bay dọc theo eo biển Anh, dọc bờ biển phía nam Vương quốc Anh, ngăn cản các radar Anh phát hiện trong không trung một nhóm lớn phi cơ bay hộ tống hải đoàn chiến hạm Hải quân Đức. Mặt khác, các trạm phát nhiễu trên mặt đất không được bật trước 09:00, nhiệm vụ của chúng là che giấu sự hiện diện của tàu chiến Đức và họ phải mở máy khi hải đoàn Đức đi vào vùng phát hiện của radar Anh đang cảnh giới  eo biển Dover. Vào thời điểm xác định, máy phát nhiễu được bật lên, chúng được tinh chỉnh khớp các tần số của radar Anh nên làm việc tốt đến mức một số trạm radar Anh đã phải tắt máy, trong khi những trạm khác thay đổi tần số hoạt động trong hy vọng hão huyền sẽ thoát khỏi nhiễu. Đột nhiên, một trạm radar hoàn toàn chưa biết bắt đầu phát sóng, nhưng nó cũng bị áp chế ngay lập tức. Tóm lại, các hoạt động gây nhiễu thành công đến nỗi các trắc thủ khai thác radar người Anh thậm chí không nghi ngờ có gì bất thường !

Đây là lần đầu tiên trong lịch sử hải quân, tác chiến điện tử được ứng dụng thực tế trong một tình huống chiến đấu. Hải đoàn Đức đi suốt gần mười giờ, nhanh chóng tiếp cận eo biển Dover. Không có dấu hiệu nhỏ nào cho thấy nó bị người Anh phát hiện, có vẻ như kế hoạch tác chiến điện tử được lập ra một cách tuyệt vời của người Đức đã mang lại thành công. Tuy nhiên, vào khoảng 10:00, một trong những radar của Anh bắt đầu phát sóng ở một tần số cao đến mức người Đức hoàn toàn không có cơ hội gây nhiễu; chính radar mới này đã báo cáo cả về các
phi cơ đối phương đang bay dọc bờ biển nước Pháp vào ở độ cao thấp. Khoảng 10:45, một số phi cơ tuần tra của Lực lượng Không quân Hoàng gia phải đối mặt với một nhóm lớn phi cơ Không quân Đức và khi cố gắng trốn tránh kẻ thù, họ hạ xuống cao độ đỉnh sóng, ở độ cao đó cuối cùng họ phát hiện ra các chiến hạm Đức. Do một số chậm trễ không giải thích được, Bộ chỉ huy Không quân và Hải quân Anh không biết gì về việc tìm thấy kẻ thù trong khoảng gần một giờ - cho đến 11:30. Lúc gần giữa trưa, khi hải đoàn Đức đang ở vị trí ngay trước Boulogne, đã vào tầm hủy diệt, bắn phá tại eo biển Dover, các khẩu đội pháo bảo vệ bờ biển của Anh mới khai hỏa từ cự ly 26 km. Tuy nhiên, không viên đạn nào trúng tàu Đức vì sương mù dày đặc không cho các pháo thủ Anh cơ hội quan sát điểm nổ xạ kích, và họ phải dựa vào radar của mình, vốn không đủ độ chính xác. Pháo bảo vệ bờ biển của Đức trên bờ biển nước Pháp ngay lập tức bắn trả và buộc đối phương phải im lặng.

Đây là nơi trận chiến thực sự bắt đầu. Thủy thủ Đức mặc dù đã một vài đêm không ngủ, nhưng đã được cảnh báo, chờ đợi cuộc tấn công của hạm đội Anh ở bất kỳ thời điểm nào. Họ chờ không lâu, khi sáu
phi cơ-phóng ngư lôi Fairey Swordfish thuộc phi đội 825 Hải quân Hoàng gia, hộ tống bởi 5 phi đội phi cơ tiêm kích, bước vào công kích. Tuy nhiên, sự phối hợp giữa các phi đội là hoàn toàn không thể có vì phi cơ Cá Kiếm vốn tốc độ chậm (232 km / h), phải tấn công từ chiều cao đỉnh sóng. Do đó, họ phải tấn công mà không có bảo vệ, và chính vì vậy, tất cả bọn họ bị bắn hạ không thương tiếc từng phi cơ một mà không có quả ngư lôi nào bắn trúng mục tiêu. Cuộc tấn công tự sát này được thực hiện với lòng can đảm vô biên, và viên sĩ quan chỉ huy của họ, Thiếu tá Hải quân Eugene Esmonde được truy tặng Victoria Cross.

[​IMG]Trước một phi cơ Cá Kiếm, những quân nhân KQ và HQ đã góp phần tiêu diệt thiết giáp hạm Bismarck của Đức Quốc Xã, Eugene Esmonde thứ 2 từ trái sang. Ảnh chụp trên hàng không mẫu hạm

 Ark Royal của Hải quân Anh, tháng 10 năm 1941.
Các cuộc tấn công tiếp theo được thực hiện bởi một đội tàu phóng ngư lôi, được phái gấp từ Dover đến. Những con tàu nhỏ, phù hợp hơn cho các cuộc tấn công ban đêm, không thể cạnh tranh với tàu khu trục Đức đi hộ tống, nhưng chúng biết cách tiếp cận đủ gần để phóng đạn ngư lôi. Người Đức, với sự trợ giúp của màn khói và các chiến thuật tránh ngư lôi, cũng như sự giúp sức của hỏa lực áp đảo, đã buộc đối phương phải rút lui. Tại thời điểm này, người Đức đang đặc biệt lo lắng và tự hỏi Hải quân Anh và Không quân Anh còn những món gì khác dành tiếp họ. Chẳng mấy chốc, mười hai khu trục hạm Anh đã tới; đồng thời 240 oanh tạc cơ cất cánh từ các phi trường Anh khác nhau, còn một phi đội
phi cơ thả thủy lôi bắt đầu rải mìn dọc theo tuyến đường biển có khả năng tàu Đức đi qua. Các khu trục hạm Anh can đảm tấn công các con tàu lớn của Đức, họ đến gần để phóng ngư lôi, nhưng mọi nỗ lực của họ đều vô ích và lòng dũng cảm của họ tỏ ra vô ích, trong khi đó, một trong các con tàu của họ đã bị hư hại nghiêm trọng do hỏa lực của người Đức.

Vào buổi chiều, "Scharnhorst" rung chuyển vì một vụ nổ bất ngờ. Đèn trên tàu tắt lịm, động cơ dừng làm việc. Tàu trúng mìn. Thủy thủ đoàn của tàu lặng lẽ quan sát xem "Gneisenau" và "Prinz Eugen" vượt qua; lệnh phải đi với bất cứ giá nào, và nếu một trong các con tàu bị bắn hỏng hoặc bị đánh chìm, những chiếc khác không cần phải dừng lại để giúp nó.

Trong khi thủy thủ đoàn của "Scharnhorst" cố gắng sửa chữa hư hại của tàu, trên bầu trời eo biển Anh diễn ra một trận không chiến tuyệt vọng. Ba mươi sáu
phi cơ-phóng ngư lôi Bristol Beaufort tấn công hải đoàn Đức, nhưng sự phối hợp hành động của họ tồi đến mức cuộc tấn công lại thất bại. Cùng lúc đó, thủy thủ đoàn của "Scharnhorst" đã nhanh chóng sửa chữa xong, con tàu tiếp tục hành trình.

Đến cuối ngày, 240 oanh tạc cơ của Không quân Hoàng gia phát động một làn sóng tấn công lặp đi lặp lại xuống các chiến hạm Đức, nhưng tầm nhìn không đủ làm cản trở các đường bay rất nhiều, trên thực tế, chỉ có bốn mươi
phi cơ có thể phát động cuộc tấn công, trong đó mười lăm chiếc bị bắn hạ, còn hai mươi chiếc - bị hư hỏng.

Vào khoảng 19:00 giờ, "Gneisenau" vướng mìn, nhưng thiệt hại không đáng kể, nó tiếp tục di chuyển với tốc độ 25 hải lý. Thêm vào cho mọi việc tồi tệ hơn, bây giờ lại nổ ra một cơn bão dữ dội. Tàu Đức mất liên lạc với nhau và không thể phân biệt sào ngắm do các tàu quét mìn thả đánh dấu. Sau đó, "Scharnhorst" lần thứ hai vướng mìn, nhưng lần này hậu quả nghiêm trọng hơn. Hầm tàu bị nước tràn vào khoảng 1.000 tấn, rất nhiều khoang bị ngập và mất điều khiển, tàu phải dừng lại và bắt đầu trôi dạt về hướng bãi mìn và bãi cát ngầm.

Trong đêm, Không quân Hoàng gia thực hiện hơn 740 phi vụ chống lại các tàu chiến Đức. Người Đức đáp trả  các vụ thả bom bằng hỏa lực pháo phòng không trên hạm của mình - thủy thủ Đức phải liên tục tưới nước cho các nòng súng bắn liên tục cháy đỏ ! Tuy nhiên, các cuộc tấn công này không mang lại bất kỳ kết quả thực sự nào.

Ngay trước bình minh, trên các tàu Đức loan truyền thông điệp về việc có các tàu lạ đang tiếp cận, tin này gây nhiều lo âu, bởi vì hải đoàn Đức không ở trong trạng thái có thể nghênh chiến hạm đội Anh, đặc biệt là vào thời điểm này. Tuy nhiên, hóa ra hai chiếc tàu không xác định được đó lại là các tàu hộ tống Đức, trong đêm tối đã mất liên lạc với các tàu khác. Mặc dù tất cả mọi thứ đã xảy ra, hải đoàn Đức vẫn thành công trong việc đạt mục tiêu của chiến dịch của mình mà không phải đối mặt với hạm đội Anh, đến buổi trưa ngày 13 tháng 2, nó đã về đến nhà.

Sự thành công của chiến dịch đầy khó khăn này được quyết định chủ yếu bởi công tác tổ chức gần như hoàn hảo của nó, và trên hết, biện pháp đối kháng điện tử.

Trường đoạn đó trong lịch sử hải quân nhấn mạnh tầm quan trọng thiết yếu của tác chiến điện tử : tính dễ bị tổn thương của radar khi bị gây nhiễu điện tử. Tính dễ bị tổn thương này dẫn đến một thực tế là tác chiến đối kháng điện tử vẫn còn nguyên hiệu quả ở ngày hôm nay.



CHƯƠNG 8. Tác chiến điện tử trên bầu trời nước Đức


[​IMG]Các tướng lĩnh KQ Anh thuộc Bộ Chỉ huy LLKQ thả bom Không lực Hoàng Gia Anh đang nghiên cứu bản đồ nước Đức trong Thế chiến 2, trái sang phải: Phó Thống chê KQ R.Graham, Thống chế KQ A.T.Harris Tư lệnh Bộ Chỉ huy KQ thả bom (cầm cây chỉ vào bản đồ), Phó Thống chế KQ R.Saundby Tham mưu trượng LLKQ thả bom.
Sau những tổn thất nghiêm trọng trong Trận chiến nước Anh, Không quân Đức được điều động khỏi Mặt trận phía Tây và triển khai đến các căn cứ không quân ở Đông Đức, để tham gia vào chiến dịch nước Nga, được đặt tên mã - "Operation Barbarossa". Do đó, Không quân Hoàng gia đã có cơ hội ra đòn trả đũa ồ ạt không trở ngại, dưới hình thức các cuộc dội bom không kích dữ dội xuống nước Đức như là một phần của chiến lược hủy diệt, cần phải có để bảo đảm chiến thắng của quân Đồng minh.

Các trận thả bom ban ngày nước Đức không thắng lợi, chủ yếu do tính dễ tổn thương của oanh tạc cơ trước tiêm kích đối phương, và
phi cơ tiêm kích của Không quân Hoàng gia không có khả năng để bảo đảm yểm trợ xa hơn vì giới hạn tầm bay của họ, nên dần dần người Anh chuyển sang các cuộc tấn công ban đêm. Bây giờ, vai trò của kẻ thù trong "cuộc chiến chùm tia" đã thay đổi ngược lại; thời gian này, người Anh phải phát triển được các hệ thống ổn định trước các sai số để có thể dẫn đường đến mục tiêu cho oanh tạc cơ của họ, và người Đức - phải tìm ra biện pháp đối kháng hiệu quả.

Trong Trận chiến nước Anh, người Anh đã nhận thấy
oanh tạc cơ của người Đức khó khăn thế nào để có thể đánh trúng mục tiêu, bất chấp các công cụ điện tử phức tạp mà họ có sẵn. Người Anh nay phải đối mặt với cùng một vấn đề, khi tiến hành không kích nước Đức.

[​IMG]Máy phát của hệ thống Gee (Gee hyperbolic navigation system).
Người Anh hy vọng đánh trúng các mục tiêu ở Đức mà không làm chủ được phương tiện dẫn đường vô tuyến chính xác hỗ trợ cuộc
thả bom chăng? Bộ Chỉ huy Không quân Hoàng gia vô cùng hoài nghi hiệu quả các vụ thả bom đầu tiên đất Đức. Thống chế Không quân Robert Saundby, Tham mưu trưởng Bộ chỉ huy Không quân thả bom Không lực Hoàng gia Anh, một lần có nhận xét với bộ tham mưu của mình rằng khi một phi đội oanh tạc cơ báo cáo rằng bom đã thả xuống mục tiêu xác định, thì chỉ có thể chắc chắn rằng những quả bom này đã được "gửi" đến mục tiêu đó mà thôi.

May mắn thay, người Anh đã phát triển vào năm 1938 một hệ thống định vị, tuy rằng tại thời điểm đó chưa bắt đầu sản xuất hàng loạt do quyền ưu tiên đã trao cho các dự án khác. Hệ thống này, được gọi là Gee, bao gồm ba máy phát, bố trí trên bờ biển, cách nhau 160 km. Công việc của chúng là đồng bộ hóa để phát ra một chuỗi xung phức tạp tuân theo một thứ tự xác định. Các hoa tiêu máy bay
thả bom có máy thu đặc biệt có thể đo lường sự khác biệt giữa sự xuất hiện của các xung phát tới từ các trạm trên. Đối chiếu với lưới bản đồ đặc biệt của châu Âu, các hoa tiêu có thể xác định vị trí của mình với sai số tối đa khoảng 10 km trên khoảng cách 650 km - 1.000 km tính từ trạm phát sóng.
[​IMG]

Sơ đồ đơn giản hóa về nguyên tắc thời gian-sai khác (time-difference principle). Độ sai khác delta giữa thời gian nhận các tín hiệu đồng bộ từ các đài phát sóng A và B là hằng số dọc theo mỗi đường cong.

Gee không dễ chế áp như với các hệ thống dẫn đường vô tuyến đầu tiên được người Đức sử dụng. Tuy nhiên, chẳng mấy mà người Đức nhận thấy các vụ
thả bom của quân Anh đã trở nên chính xác hơn, họ dồn tất cả những nỗ lực của mình để tìm hiểu hệ thống dẫn đường mới này. Trong năm 1942, họ đã thành công trong việc đó, và để đối kháng họ tạo ra các máy phát nhiễu công suất mạnh, gọi là Heinrich. Chúng được đặt tại các trạm mặt đất trong các nước bị chiếm đóng như Pháp, Bỉ và Hòa Lan, và với sự giúp đỡ của chúng, người Đức gần như hoàn toàn vô hiệu hóa bức xạ Gee, làm cho nó thực tế thành vô dụng ở lục địa châu Âu.

Sau khi hệ thống Gee bị vô hiệu, người Anh cố gắng đưa ra các hệ thống định vị khác, nhưng không hệ nào trong số đó bảo đảm được cho các vụ
thả bom đạt độ chính xác cần thiết. Cuối cùng, họ phát triển hệ Oboe ("Quan sát và đánh bom kẻ thù"), đó là kết quả của một quá trình nghiên cứu công phu hệ thống Knickebein của Đức. Hệ thống Oboe bao gồm một máy hỏi dành cho bức xạ tín hiệu và lắp đặt trên oanh tạc cơ, hai trạm mặt đất cách nhau một khoảng cách nhất định, được trang bị các máy phát (để tiếp nhận tín hiệu). Chúng được gọi, tương ứng, là Mèo và Chuột. Trạm mặt đất có thể tự động đo khoảng cách tới phi cơ đang bay. Hệ thống Oboe góp phần vào thành công đáng kể của các cuộc thả bom của quân Đồng minh xuống các nhà máy của Krupp tại Essen vào tháng Mười Hai năm 1942.

[​IMG]Dẫn đường và chỉ dẫn cho phi cơ: hệ thống hướng dẫn
thả bom chính xác nhất trong Thế chiến II được gọi là OBOE và được sử dụng chủ yếu cho các phi cơ De Havilland Mosquito của Bộ chỉ huy LLKQ thả bom thuộc RAF. Hình ảnh thể hiện: sơ đồ minh họa BCH KQ thả bom sử dụng OBOE.

Sau một thời gian, hệ thống Oboe bị người Đức phát hiện, họ ngay lập tức phát triển một quy trình REP thích hợp. Vì vậy, để thay thế Oboe, hoặc ít nhất là để loại bỏ các hạn chế của nó, người Anh cải tiến hệ thống dưới tên gọi H2S. Nó có chức năng đôi : chỉ dẫn chính xác đường đi và bảo đảm
oanh tạc chính xác hơn vào ban đêm. Không giống như các hệ thống trước đó, H2S không cần các trạm mặt đất : "trái tim" của nó là một radar được phát triển gần đây, có thể lắp đặt trên phi cơ. Hệ thống này sử dụng một đèn điện tử đặc biệt công suất rất mạnh gọi là magnetron, phát ra công suất 10 kW ở bước sóng 10 cm. Vì lý do này, radar mới được gọi là radar xăng-ti-mét, để phân biệt với các radar trước đó hoạt động ở bước sóng dài hơn nhiều.

[​IMG] 

Một bức ảnh màn hiển thị radar H2S chụp trong một cuộc không kích vào Cologne - các chú thích được thêm vào sau đó khi phân tích cuộc tấn công đã diễn ra. Có thể nhìn thấy sông Rhine chảy ngoằn ngoèo từ trên xuống dưới bên phải.

Mẫu thử nghiệm được lắp đặt trên phi cơ phục vụ thử nghiệm và đánh giá, kiểm tra để sử dụng trên các
phi cơ tiêm kích bay đêm. Các chuyến bay thử nghiệm chỉ ra rằng radar mới có thể phân biệt giữa khu vực xây dựng với vùng nông thôn và bề mặt biển với mặt đất. Chuyến bay thử nghiệm được tiến hành trong năm 1941, nhưng hệ thống chỉ được lực lượng không quân tiếp thu vào sử dụng trang bị rất lâu về sau, vì người Anh lo ngại nó có thể rơi vào tay của người Đức và được sao chép sử dụng trên phi cơ của họ. Quyết định cuối cùng về việc sử dụng H2S là do tổn thất oanh tạc cơ của Không quân Hoàng gia trong các cuộc không kích ban đêm trên đất Đức ngày càng tăng.

Bộ Tư lệnh tối cao Anh cũng lo lắng về việc người Đức có các hệ thống radar phòng không hay không. Ít nhất khi chiến tranh mới bắt đầu, nhiều người bị thuyết phục rằng họ không có thứ tương tự như người Anh, đang bố trí dọc theo bờ biển Vương quốc Anh, các ăng-ten khổng lồ nằm trên đất Đức hoặc các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng. Tuy nhiên, người Đức, trên thực tế, ngay từ đầu chiến tranh đã có radar phòng không, nhưng vì họ luôn luôn tiến bộ, nên xét thấy không cần thiết phải lập một mạng lưới radar phòng không, vốn đòi hỏi các ăng-ten khổng lồ tương tự như ăng-ten radar Anh của hệ Chain Home.


[​IMG]Chain Home Radar, năm 1939.

Và số thiệt hại
oanh tạc cơ Không quân Hoàng gia Anh ngày càng tiếp tục tăng, đã bắt buộc họ phải có thêm nhiều hơn nữa thông tin về radar phòng không Đức, để phát triển biện pháp đối kháng thích hợp có thể vô hiệu hóa hệ thống đó. Vì vậy, để đạt được điều này, trong một vài tháng, tình báo quân Đồng minh cố gắng thu thập thông tin về nó nhiều đến mức có thể. Trên bầu trời nước Đức, để tìm kiếm các ăng-ten radar, thường xuyên có các chuyến bay trinh sát, các tù binh bị thẩm vấn, và tất cả phi cơ Đức bị bắn rơi ở Anh, được khám xét kỹ lưỡng từng mảnh xác.

Trong tháng Mười Một năm 1940, từ trên không trung, gần Cherbourg, tại nước Pháp bị chiếm đóng, người ta đã thực hiện chụp được một bức ảnh thú vị. Trên ảnh có một đối tượng chưa biết, không có thể là bất cứ cái gì khác, ngoài radar, nhưng do ảnh được chụp từ một độ cao rất lớn, vật thể đó không thể nhận dạng được. Chỉ trong tháng 2 năm 1941, Không quân Hoàng gia đã chụp được một loạt các hình ảnh ở độ cao đủ thấp, để xác định vật thể bí ẩn này, trên thực tế, đó là ăng-ten của một trong những radar đầu tiên của Đức tên là Freya (nữ thần tình yêu và sắc đẹp của người Scandinavia vùng Bắc Âu), được phát triển từ năm 1939. Chức năng chính của nó là phát hiện phi cơ địch ở tầm xa nhất có thể - mà ngày nay chúng ta gọi là phát hiện sớm.


[​IMG] 

Sau này trong quá trình xung đột, chiến tranh radar đã vươn tới tầm cao mới của sự tinh tế. Trên hình là ăng-ten Đức của Klein Heidelberg, một hệ thống thụ động khai thác những cuộc truyền dẫn từ chuỗi Chain Home của Anh (CH), bị thu giữ ở Normandy.

Radar này hoạt động ở bước sóng 2,5 m, có tầm phát hiện khoảng 160-200 km. Đến khoảng cách tối thiểu là 36 km, radar có thể phát hiện và theo dõi phi cơ với độ chính xác khoảng một km rưỡi về cự ly và 1 độ về phương vị. Anten phát của nó gồm một tập hợp lưỡng cực.

Các radar Freya đầu tiên được lắp đặt tại các trạm mặt đất cố định trải dài dọc theo bờ biển phía bắc các nước Pháp, Bỉ và Đức trên các tuyến tiếp cận của
oanh tạc cơ Không quân Hoàng gia Anh. Để bù đắp cho khuyết điểm của nó phải làm nhiệm vụ phái sinh chỉ huy xạ kích pháo cao xạ phòng không, xuất phát từ việc hạn chế tầm phát hiện tối thiểu 36 km, người ta thêm vào các radar này các đèn chiếu công suất lớn để chiếu sáng máy bay. Tuy nhiên, phương pháp này quá phụ thuộc vào thời tiết xấu vốn là đặc điểm của khu vực, đặc biệt là những đám mây, do đó ngành công nghiệp Đức đã phải chế tạo một radar khác, bảo đảm cung cấp thông tin chính xác hơn cho việc dẫn bắn pháo cao xạ và phi cơ tiêm kích đánh chặn chống các oanh tạc cơ của đối phương ở cự ly ngắn.

[​IMG] 

Minh họa radar Đức Freya thời Thế chiến 2 (An illustration of a German World War II Limber Freya Radar from TM E 11-219 "Directory of German Radar Equipment").
Người Anh, biết được tần số hoạt động và các đặc tính khác của radar Freya, bây giờ có cơ hội phát triển biện pháp REP thích hợp để vô hiệu hóa hoặc ít nhất làm giảm hiệu quả của các radar Đức. Ban đầu, khá dễ làm điều đó, vì tất cả các radar Freya đều làm việc trên cùng một tần số (120-130 MHz), tần số đó dễ dàng bị bao phủ bởi máy phát nhiễu Mandrel đang có của người Anh. Máy phát này phát ra tiếng ồn hỗn loạn tại các tần số hoạt động của Freya và do đó làm mù mắt nó. Thiết bị phát nhiễu Mandrel được cài đặt trên một chiếc
phi cơ đặc biệt đi kèm đội hình chiến đấu của các máy bay thả bom trong các cuộc tấn công của họ, giúp họ thâm nhập vào không phận của Đức. Người Đức đã cố gắng tránh áp chế bằng phương pháp thay đổi liên tục tần số hoạt động, bởi vậy người Anh không chịu thua kém, phải sản xuất một số lượng lớn các loại máy phát nhiễu các loại khác nhau để gây nhiễu các tần số khác nhau.

Trong một thời gian ngắn, tổn thất của người Anh giảm nhẹ, nhưng vào cuối năm 1942, thiệt hại bắt đầu tăng trở lại. Người Đức tạo ra một radar mới,thật hoàn hảo, gọi là Wurzburg, làm việc ở bước sóng khoảng 50 cm (565 MHz), có tầm xa khoảng 70 km và có khả năng đo lường không chỉ khoảng cách và hướng đến
phi cơ kẻ thù, mà còn đo cả cao độ của nó. Ngoài ra, nó cũng có một chùm tia rất hẹp, và khi sở hữu tất cả những phẩm chất này, radar có thể cung cấp với độ chính xác cao hơn hai chức năng đặc biệt quan trọng của hệ thống phòng không: hướng dẫn phi cơ tiêm kích đánh chặn oanh tạc cơ địch và điều khiển xạ kích pháo cao xạ phòng không.

[​IMG]
Freya - radar cảnh báo sớm của Đức sử dungh để phát hiện các oanh tạc cơ quân Đồng minh (tầm hoạt động: 125 dặm). Trong ảnh là một radar Freya với 2 hệ ăng-ten, một để sử dụng trong mặt phẳng đứng, một cho mặt phẳng ngang.

Bước tiến bộ hơn nữa trong lĩnh vực radar đã được thực hiện, khi người Đức tạo ra một radar mới, gọi là Liechtenstein BC để lắp đặt nó trên các phi cơ tiêm kích đánh đêm. Mặc dù nó chỉ có tầm 12 km, nhưng đóng một vai trò rất quan trọng trong hệ thống phòng không tích hợp. Hệ thống mô-đun này bao gồm một số lượng lớn các trạm, mỗi một trong số đó có nhiệm vụ bao quát một khu vực-ô vuông nhất định, mà toàn bộ lãnh thổ của đế chế Đức được phân chia thành các ô vuông như thế. Các trạm này tên gọi Himmelbett (giường giăng màn bốn cọc). Mỗi một trạm trong số đó có một radar Freya, hai radar Wurzburg, một trạm quản lý chỉ huy, một trạm liên lạc. Việc phát hiện ban đầu nhóm phi cơ Anh thường do Freya đảm nhiệm, sau đó nó lập tức báo cáo phát hiện của mình về trạm điều hành chỉ huy.
Phi cơ tiêm kích bay đêm, trang bị radar Liechtenstein BC ngay lập tức được phái lên ngăn chặn kẻ thù dưới sự chỉ huy của một trong những radar Wurzburg. Một radar Wurzburg khác bám sát phi cơ địch và tìm diệt cho hỏa lực pháo cao xạ, ngay sau khi phi cơ tiến vào cự ly tiêu diệt. Tất cả dữ liệu về các tọa độ và độ cao của oanh tạc cơ đối phương và tiêm kích bay đêm đánh chặn được đưa lên một bản đồ đặc biệt, được gọi là "bàn chiến thuật". Các điều hành viên, sử dụng thông tin của nó có thể làm các tính toán cần thiết để thực hiện cuộc chặn kích. Thông tin về tuyến đường bay, tốc độ và độ cao truyền qua trạm liên lạc thích hợp đến phi công phi cơ tiêm kích bay đêm, bằng cách đó được dẫn đến bán cầu sau (задния полусфера - ЗПС) của mục tiêu từ bất kỳ vị trí có thể nào của phi cơ anh ta. Khi phi cơ tiêm kích Đức ở trong phạm vi một km rười đến hai km cách phi cơ địch, trắc thủ trên phi cơ bật radar Liechtenstein BC, nó sẽ khóa mục tiêu, đưa đường cho tiêm kích xông đến phi cơ địch. Khi phi cơ tiêm kích ở trong phạm vi tầm xạ kích, Liechtenstein BC được sử dụng để điều khiển bắn pháo. Từ thời điểm này, cơ hội thoát thân của oanh tạc cơ đối phương trở nên rất mờ nhạt.

Hệ thống này làm việc rất tốt và có thể được coi là tiền thân của hệ thống phòng không hiện đại, mặc dù khả năng giới hạn của nó trong việc bám sát chỉ được một mục tiêu duy nhất. Bằng cách triển khai các hệ thống dọc theo bờ biển phía bắc, bắt đầu từ Pháp và tiếp tục về phía đông, một mạng lưới phòng không đã được thiết lập. Ngoài nước Đức, các hệ thống được bố trí ở cự ly cách nhau 32 km, còn trong nước Đức - ở khoảng cách 80 km.


[​IMG]Hệ thống ăng-ten cho radar trên
phi cơ FuG 202 "Lichtenstein B/C" trên một chiếc Junkers Ju 88 chuyên đánh đêm, ảnh chụp ngày 22 tháng 12 năm 1943.

Đến cuối năm 1942, khi tổn thất
phi cơ của quân Đồng minh do các phi cơ tiêm kích bay đêm Không quân Đức và các khẩu đội pháo phòng không trở nên quá cao, người Anh bắt đầu thường xuyên phái các phi cơ trang bị máy gây nhiễu Mandrel đến bờ biển của Đức, để phát nhiễu và gây khó dễ cho việc phát hiện tầm xa của radar Freya. Tuy nhiên, bất chấp tất cả các biện pháp trên, khi tổn thất của họ không hề giảm, họ mới rõ rằng sự thành công của phòng không Đức phụ thuộc không chỉ vào Freya radar, hay radar phối hợp Wurzburg, về điều này thì người Anh không có thông tin đầy đủ, nên không có khả năng áp chế.

Đồng thời, người Đức quyết định cố gắng tìm cách bảo vệ radar Wurzburg chống lại sự gây nhiễu của đối phương. Họ quyết định liên tục thay đổi tần số hoạt động, nhưng nhiệm vụ khó khăn hơn nhiều so với dự kiến, vì để làm điều đó cần giải quyết những vấn đề kỹ thuật đáng kể. Tuy nhiên, họ đã phát triển thành công một hệ thống luân phiên thay đổi ba tần số hoạt động cho radar Wuirzburg .  
Trong khi đó, tình báo Anh phát hiện gần Le Havre, trên đất Pháp bị chiếm đóng, một tổ hợp radar, một radar được xác định chắc chắn là Freya, trong khi hai radar khác được coi chính là loại mà oanh tạc cơ
Anh phải đối mặt - radar Wurzburg. Vì người Anh hoàn toàn không biết các đặc tính của radar (tần số, độ rộng xung, v.v), do đó họ không thể tìm được REP thích hợp, họ không có sự lựa chọn nào ngoài việc đánh chiếm nó.

Vào đêm ngày 27 sang ngày 28 tháng 2 năm 1943, tại trạm radar Bruneval, gần Le Havre, một nhóm lính nhảy dù được thả xuống, nhiệm vụ của họ là đưa về Vương quốc Anh những thành phần chính của radar Wurzburg. Lính nhảy dù, vận đồ đen, mặt ngụy trang đầy bụi than, đã thành công trong việc đột nhập vào trạm radar, và sau khi giết chết đội bảo vệ, họ tháo dỡ radar Wurzburg. Ngay sau khi chiến dịch hoàn thành, nhóm tiến ra bờ biển, nơi câch bờ một vài dặm, tàu ngầm đã chờ đợi họ. Tàu ngầm cần phải đưa người và số hàng hóa kỳ lạ của họ về Vương quốc Anh. Ngay sau khi các chuyên gia Anh nhận được trong tay mình các bộ phận này, họ lập tức bắt tay phát triển biện pháp đối kháng để vô hiệu hóa Wurzburg.

Một đêm tháng 5 năm 1943, một chiếc Junkers Đức Ju88R-1, có phi hành đoàn quyết định đào ngũ,
phi cơ của họ hạ cánh xuống một phi trường Anh. Đó là một thành công bất ngờ với người Anh, họ lập tức bắt đầu nghiên cứu radar của Ju88. Thậm chí họ còn tổ chức một chuyến bay thử nghiệm - tấn công trên không oanh tạc cơ Anh Handley - Page Halifax. Theo cách này, họ nhận được rất nhiều thông tin hữu ích, quan trọng nhất trong số đó là radar có ăng-ten khẩu độ mở bị hạn chế - chỉ 25 độ. Trận chiến mô phỏng với oanh tạc cơ Halifax cho thấy việc chuyển sang bổ nhào sẽ ngắt được việc radar Đức bám sát oanh tạc cơ .

[​IMG] 

Radar Wurzburg trên bãi biển Normandy
Người Đức, đến lượt mình, không ngủ yên trên vinh quang của họ, cũng tìm cách vô hiệu hóa radar của Anh bằng cách sử dụng nhiễu điện tử. Họ tạo ra thiết bị gây nhiễu đối với từng loại radar Anh, bao gồm cả radar dẫn bắn.

Chẳng bao lâu, quân Đồng minh nghĩ ra một máy gây nhiễu mới được gọi là Carpet (Tấm thảm), loại máy này cuối cùng đã có thể chế áp được radar Wurzburg của Đức. Đầu tiên, nó được lắp trên các
oanh tạc cơ Mỹ Boeing B-17, và nhờ có hệ thống chiến tranh điện tử mới, tổn thất của oanh tạc cơ quân Đồng Minh bắt đầu giảm ngay và giảm dần liên tục : trong vụ thả bom Bremen của Tập đoàn quân Không quân Mỹ số 8, tổn thất của Đồng Minh giảm 50 %.

Tuy nhiên , điều tồi tệ nhất đối với Luftwaffe vẫn còn chưa tới. Chiều tối ngày 24 tháng 7 năm 1943, các trạm radar của Đức tại Ostend phát hiện một số phi cơ Anh tiếp cận từ hướng Biển Bắc. Radar Wurzburg ở Hamburg, cũng phát hiện một số địch và báo về ban tham mưu Bộ chỉ huy tương ứng : "phi cơ đối phương đang tiếp cận ở độ cao 3300 mét". Đó là sự quan sát mục tiêu cuối cùng của họ, vì đột ngột số lượng các tín hiệu phản hồi của các mục tiêu trên màn hình toàn bộ các radar Wurzburg tăng lên mà không tỉ lệ tương xứng với nhau trước sự sửng sốt của các khai thác viên, họ không thể hiểu có thực hàng ngàn
phi cơ đang tham gia cuộc không kích này hay không. Cuối cùng, họ báo cáo rằng radar của họ không hoạt động đúng và yêu cầu được hướng dẫn.

Trong khi đó, một số
phi cơ quân Đồng minh đã bay gần đến vùng ngoại ô Hamburg, vì các khẩu đội pháo phòng không và các phi đội tiêm kích không thể đối phó với mối đe dọa do thiếu lệnh hướng dẫn của radar Wurzburg. Như thể bị bịt mắt một phần, người Đức không thể hiểu rằng một số lớn gồm 718 oanh tạc cơ hai động cơ và 73 oanh tạc cơ bốn động cơ, không cần bất kỳ sự hộ tống nào, đã bay đến trung tâm thành phố. Bộ chỉ huy Phòng không Hamburg, bối rối vì thiếu thông tin, cần để cho phép họ có ra lệnh khai hỏa hệ thống phòng không của mình hay không, và để không đưa ra xác nhận tính hiệu quả của biện pháp đối kháng điện tử của đối thủ của mình,  họ đã ra lệnh bắn mù vào các oanh tạc cơ. Tuy nhiên, đối phương sau khi đến được mục tiêu của họ, đã hoàn thành thành công một trong những cuộc không kích khủng khiếp nhất trong lịch sử.

Đó là một phương tiện đơn giản nhưng hiệu quả của đối kháng điện tử, lần đầu tiên được sử dụng chống lại radar Wurzburg - Window. Phương tiện đối kháng điện tử này nằm ở chỗ thả khỏi phi cơ những lá kim loại mỏng có chiều dài nhất định. Để áp
chế có hiệu quả radar đối phương, chiều dài của dải lá phải phù hợp với nửa bước sóng hoạt động của radar. Các bó giấy kim loại sau đó mở tung, dải lá kim loại tạo ra tín hiệu đáp ứng của các mục tiêu trên các màn hình radar và che dấu các tín hiệu phản xạ của các phi cơ thật hay mô phỏng sự hiện diện của một số lượng lớn kẻ địch. Các trắc thủ radar hoàn toàn bối rối bởi vô số chấm sáng nhấp nháy xuất hiện trên màn hình radar và không thể xác định số lượng và vị trí của số phi cơ đối phương đang tới gần.

Người Anh suy nghĩ về phương tiện đối kháng này cả năm trước đây, ngay sau cuộc đột kích commando của họ vào Le Havre, trong đó một số thành phần radar Wurzburg đã bị thu giữ. Tuy nhiên, một thời gian họ ngần ngại áp dụng vì sợ rằng nó sẽ rơi vào tay kẻ thù, và có thể được sử dụng chống lại chính họ. Cuối cùng, Winston Churchill phải đích thân ra lệnh sử dụng trong cuộc không kích vào Hamburg dự kiến vào tháng 7 năm 1943. Mệnh lệnh của Không quân Hoàng gia về việc sử dụng phương tiện đối kháng điện tử này là đưa ra một câu điều kiện : "Hãy mở cửa sổ (window)" và vì vậy sau này, dải lá kim loại được gọi là cửa sổ, nhưng người Mỹ gọi chúng là “chaff” ("trấu") phần tử phản xạ chống radar (PRLO). Từ đây về sau sẽ viết tắt là PRLO.) - một thuật ngữ mà bây giờ được dùng để chỉ những phương tiện REP thụ động.


[​IMG] 

Bầu che radar H2S trên một chiếc phi cơ Handley Page Halifax của Anh.

Phương pháp đối kháng điện tử này
bảo đảm thành công lớn cho cuộc không kích Hamburg. Bị hoảng loạn bởi quá nhiều tín hiệu giả trên màn hình radar của họ, các khẩu đội pháo phòng không Đức không thể khai hỏa, còn các phi cơ tiêm kích không còn nhận được lệnh từ mặt đất. Các yếu tố khác góp phần vào thắng lợi của quân Đồng minh là điều kiện thời tiết tuyệt vời trong ngày hôm đó, sự rõ ràng của hình ảnh trên màn hình radar H2S của họ, do có sự tương phản rõ rệt giữa các tín hiệu phản xạ từ mặt đất và từ mặt nước cửa sông Elbe.

Mức độ tàn phá và thiệt hại về người do các cuộc không kích của Anh xuống Hamburg rất lớn. Chỉ trong hai tiếng rưỡi đồng hồ, 2.300 tấn bom đã trút xuống cảng và trung tâm thành phố. Đám cháy bùng lên rất mạnh biến thành một quả cầu lửa hút rất nhiều oxy, gây ra những trận gió rất mạnh kéo bật rễ cây, quét các vật và người xuống biển.

Trong số 791 oanh tạc cơ
tham gia cuộc không kích, chỉ có mười hai chiếc không trở về, một tỷ lệ tổn thất phi cơ ít hơn một phần ba so với tổn thất trung bình trong các cuộc không kích ban đêm gần đây nhất vào nước Đức. Ngoài ra, sự hỗn loạn phát sinh trong hệ thống phòng không của Đức, cho phép người Anh đánh bom thành phố với độ chính xác lớn hơn bao giờ hết. Cuộc thả bom Hamburg, chắc chắn là cuộc không kích thành công nhất từng thực hiện của các oanh tạc cơ Không quân Hoàng gia và thành công của nó trên một mức độ đáng kể thuộc về việc sử dụng biện pháp đối kháng điện tử đơn giản nhưng hiệu quả, đó là việc áp dụng các dải lá kim loại thông thường!

Đáng ngạc nhiên, nhưng lần đầu tiên ý tưởng áp dụng các lá kim loại cho mục đích này được chính người Đức đưa ra. Họ đã phát triển nó trong quá trình nghiên cứu radar nhiều năm trước khi chiến tranh bắt đầu. Khi Hitler đã được thông báo về khả năng sử dụng dải lá kim loại, mà người Đức gọi là Duppel, ông ta liền ra lệnh chấm dứt nghiên cứu và tiêu hủy tất cả các tài liệu kỹ thuật. Cũng như người Anh, ông ta sợ rằng các công cụ mới để đối kháng điện tử lại rơi vào tay kẻ thù và chúng có thể bị sao chép. Do đó, hệ thống cứ điểm phòng thủ đường không của Hamburg bị bất ngờ khi phương tiện này được sử dụng. Kể từ cái đêm khủng khiếp, giết chết hàng chục ngàn người, không ai có ý tưởng dù là nhỏ nhất về những gì thực sự đã xảy ra, và thậm chí cả các sĩ quan cấp cao của Bộ Tư lệnh Phòng không Đức, được báo cáo về điều đó, đã ra lệnh: "Đừng chạm vào những dải kim loại đó, nó có thể tẩm chất độc đấy".

Phải mất một thời gian dài trước khi người Đức nhận ra rằng vật thể lạ rơi xuống như mưa từ trên trời, là một công cụ đơn giản để đánh lừa radar và hệ thống dẫn đường. Ít nhất là hai mươi lăm dải là đủ để tạo ra một tín hiệu đáp ứng tương đương tín hiệu phản xạ của máy bay trên màn hình radar; một cách ngẫu nhiên là phần lớn radar Đức hoạt động ở các tần số từ 550 MHz đến 570 MHz là những radar dễ bị nhiễu nhất, do đó để tạo nhiễu cho chúng chỉ cần số lượng tối thiểu dải lá kim loại. Trong thời gian cuộc không kích Hamburg, mỗi chiếc phi cơ được giao vai trò đó, đã thả xuống hai tấn PRLO - tổng cộng 2.000 lá PRLO trong một phút!

Sau hai đêm cuộc không kích Hamburg được lặp lại, sau đó tiếp đến các cuộc không kích các thành phố lớn khác của Đức, và trong tất cả các cuộc
thả bom đó đều sử dụng biện pháp đối kháng điện tử mới. Trong sáu cuộc không kích đầu tiên đã có 4.000 phi vụ được thực hiện, tổn thất chỉ là 124 oanh tạc cơ (3 % tổng số), thấp hơn nhiều so với tổn thất phải chịu trong các cuộc không kích trước đó. Sau vài tháng, tướng Wolfgang Martini, người lãnh đạo ngành TTLL Không quân Đức, thừa nhận rằng thành công về mặt chiến thuật của kẻ thù là tuyệt đối.

[​IMG]

 Hamburg qua các cuộc thả bom của KQ Đồng minh 1942-1945

Tuy nhiên, như luôn luôn xảy ra trong TCĐT, điều đó sẽ sớm chấm dứt. Một thời gian ngắn sau khi cú sốc ban đầu đã trôi qua, người Đức tìm ra cách giải quyết vấn đề mới. Sau một thời gian, các trắc thủ khai thác radar có kinh nghiệm nhận thấy có thể phân biệt các tín hiệu phản hồi từ
oanh tạc cơ với các tín hiệu cửa sổ, vì phi cơ bay với tốc độ không đổi theo một hướng nhất định, còn dải nhiễu dường như cố định trên màn hình radar. Người Anh trả đũa bằng cách thả một số lượng lớn dải nhiễu lá kim, điều đó hoàn toàn phủ kín màn hình radar của đối phương.

Tại thời điểm này, người Đức quyết định tự mình sản xuất những dải lá kim vô giá ấy, và sáu tuần sau khi cuộc
thả bom Hamburg, họ sử dụng chúng với kết quả cực tốt trong một cuộc không kích của các oanh tạc cơ của mình xuống một căn cứ không quân Anh.

Ngoài ra, khi cố gắng nâng cao hiệu quả hệ thống phòng không, người Đức đã đưa ra một loạt phương tiện khác để thực hành phản-đối kháng điện tử (phản-REP). Một số trong đó sử dụng phương pháp phân biệt tín hiệu phản hồi từ phi cơ với tín hiệu phản xạ từ các vật kim loại khác. Mặt khác họ sử dụng rộng rãi thiết bị cho phép radar thay đổi tần số hoạt động, ngay khi nó vừa dính nhiễu của đối phương. Và trong cùng một hệ thống còn sử dụng hiệu ứng Doppler : sự thay đổi tần số của tín hiệu, xảy ra do sự chuyển động tương đối của máy thu với nguồn tín hiệu, do đó cho phép tính toán vận tốc xuyên tâm của mục tiêu. Trong trường hợp này, người Đức chuyển từ chế độ "video" sang chế độ "âm thanh", thay thế màn hình radar sang tai nghe, thông qua đó các phi công phi cơ tiêm kích đánh đêm có thể nghe thấy âm thanh cụ thể phát ra từ radar đối phương. Hệ thống này phản ánh sự biến đổi tốc độ của phi cơ đối phương qua sự thay đổi tín hiệu âm thanh, và các trắc thủ khai thác có thể phân biệt ngay cả việc phi cơ địch đang làm gì - bổ nhào hay cất lên.

Những thiết bị này được thiết kế để vô hiệu hoặc làm giảm hiệu quả của REP, được gọi là phương tiện phản REP. Hiện nay, trong mỗi radar quân sự về mặt cấu trúc đều có một số biện pháp phản REP có sẵn; điều này thường được thực hiện bằng chuyển mạch mục tiêu-góc của radar, hoặc thay đổi các tham số của nó (tần số, các tham số xung, v.v.). Ngày nay, rất nhiều phương pháp phản-đối kháng điện tử đang được sử dụng, và số lượng của chúng là vô hạn, vì đối với mỗi biện pháp đối kháng điện tử đều có một biện pháp phản đối kháng, còn đối với mỗi biện pháp phản đối kháng điện tử lại có một biện pháp phản-phản-đối kháng khác, và cứ như vậy.



[​IMG] 

Hình một Avro Lancaster KQ Anh thả bom đêm trên bầu trời Hamburg tháng 1 năm 1943.

Tuy nhiên, mặc cho tất cả các biện pháp được người Đức thực hiện để khắc phục tình hình, đêm này qua đêm khác, các thành phố của họ liên tục bị Bộ chỉ huy Không quân
thả bom Không lực Hoàng gia phá hủy. Trong suốt mùa hè năm 1943, việc các oanh tạc cơ Đồng minh sử dụng Window với cường độ cao trên thực tế đã làm tê liệt hệ thống phòng không của Đức vào ban đêm, và trong điều kiện tầm nhìn kém, khi nó chủ yếu dựa vào radar Wurzburg. Do đó, các trí tuệ siêu việt nhất của nước Đức trong lĩnh vực điện tử đã được huy động làm công việc phát triển các phương pháp khôi phục tính hiệu quả của hệ thống phòng không của họ.

Cần phải phát triển một radar mới hoạt động ở tần số khác nhiều so với các tần số hoạt động của các radar Wurzburg và Liechtensrein BC ở trong các băng tần liền kề để tránh sự áp
chế của các phương tiện REP của quân Đồng minh như các thiết bị chủ động (máy phát nhiễu Carpet), và thụ động (Window). Các nghiên cứu được tiến hành với một tốc độ khủng khiếp, vì mỗi ngày và đêm mất đi có nghĩa là lại có thêm sự hủy diệt của một thành phố nước Đức.

Trong tháng 10 năm 1943, một mẫu thiết bị mới đã sẵn sàng và trong những ngày đầu năm 1944 một radar mới, gọi là Liechtenstein SN2, đã được cài đặt trong gần như tất cả các phi cơ tiêm kích đánh đêm của Đức. Nó làm việc ở bước sóng 3,3 m, tương ứng với tần số khoảng 90 MHz, thấp hơn so với tần số hoạt động của cả radar Liechtenstein BC và radar Wurzburg một cách đáng kể. Và mặc dù nó có kích thước ăng ten lớn hơn nhiều, khá cồng kềnh, song nó có một lợi thế rõ rệt – góc quét quan sát là 120 độ theo hướng chiều rộng như vậy của chùm tia radar bảo đảm gia tăng sức mạnh của radar, làm cho nó không cần thiết bức xạ định hướng. Bây giờ, các
oanh tạc cơ của Anh gần như không thể thoát sau khi bị radar phát hiện, nhưng lợi thế lớn nhất của chùm tia rộng của radar nằm ở chỗ các phi cơ tiêm kích Đức bây giờ đã có thể theo dõi oanh tạc cơ của đối phương mà không cần dẫn đường, ngay lập tức sau khi nhận thông tin về thành phần các nhóm địch và tuyến đường bay gần đúng của nó.

Việc phát hiện các
oanh tạc cơ đối phương dễ dàng hơn nhờ hai yếu tố : tầm xa đặc biệt của radar mới là 64 km và thực tế là các oanh tạc cơ Anh gần đây đã chuyển sang một chiến thuật mới để tiếp cận mục tiêu, cách tiếp cận này quả thật đã làm cho việc phát hiện ra chúng bởi hệ thống mới của Đức đơn giản hơn nhiều. Biết rằng hệ thống phòng không của quân Đức chỉ có thể đồng thời theo dõi một phi cơ, họ đã quyết định bay liền sau nhau thay vì sử dụng đội hình bậc thang như họ đã làm trước đây. Nhưng các nhóm lớn như vậy có thể bị phát hiện từ mặt đất thậm chí khi không có radar.

Nhờ radar mới, chiến thuật phòng không của quân Đức đã được sửa đổi và cập nhật hoàn toàn, vì việc phòng thủ khu vực, phụ thuộc cứng nhắc vào dẫn đường của radar mặt đất, đã có thể bỏ qua. Bây giờ, các trạm kiểm soát chỉ huy mặt đất chỉ cần dẫn hướng các phi cơ tiêm kích tới nhóm địch, sau đó tiêm kích có thể tự thân hoạt động. Họ từ phía sau tiếp cận với nhóm
oanh tạc cơ của đối phương và bắt đầu "cuộc tàn sát" các oanh tạc cơ xấu số của quân Đồng minh. Trước đó, sau khi vượt qua bức tường radar phòng không, các oanh tạc cơ phải tranh đua chỉ với pháo cao xạ phòng không bảo vệ khu vực mục tiêu; nhưng giờ đây chúng liên tục bị đe dọa tấn công trong suốt quá trình bay đến mục tiêu, bắt đầu từ Bỉ và Hòa Lan và ngược lại – cho đến Biển Bắc, sau khi hoàn thành nhiệm vụ.

[​IMG]Messerschmitt Me 110G-4 với ăng-ten radar đánh đêm phiên bản đầu FuG 220 + FuG 202 (antenna nhỏ)

Sự tiến bộ của người Đức trong lĩnh vực điện tử chưa kết thúc. Phi cơ tiêm kích được trang bị radar Liechtenstein SN2, và cả các RWR mới. RWR – là thiết bị có chức năng phát hiện bức xạ radar; nó thu nhận tín hiệu radar, nhưng bản thân không phát xạ. Công việc của RWR trên
phi cơ có thể so sánh với công việc của RWR Metox, hồi đầu chiến tranh được lắp đặt trên các tàu mặt nước và tàu ngầm Đức. Như đã đề cập ở trên, nó có hai lợi thế quan trọng đối với radar : đầu tiên nó là hệ thống hoàn toàn thụ động không phát ra năng lượng điện từ, không có khả năng phát lộ sự hiện diện của nó cho đối phương; và thứ hai, nó có tầm hoạt động lớn hơn so với radar. vì thế nó sẽ thu được bức xạ radar của đối phương sớm hơn là đối phương có thể thu nhận các tín hiệu phản hồi từ vật mang, mà trên đó lắp đặt RWR. Trên thực tế, điều này có nghĩa là các phi cơ tiêm kích Đức có thể thu được bức xạ radar oanh tạc cơ quân Đồng minh ở khoảng cách gần gấp hai lần so với cự ly radar trên oanh tạc cơ có thể phát hiện phi cơ tiêm kích Đức. Do đó, các phi cơ tiêm kích có thời gian dự trữ lớn hơn để lên kế hoạch tấn công của mình. RWR cũng có thể dẫn đường phi cơ tiêm kích tới nhóm phi cơ địch, vì mặc dù nó không có khả năng đo khoảng cách tới radar của đối phương, nhưng vẫn đưa ra được khá chính xác hướng mà từ đó thu được bức xạ. Ngoài ra, do hoàn toàn thụ động, RWR không nhạy cảm với nhiễu tạo ra bởi các dải lá kim loại, vốn gây rất nhiều rắc rối trong các trường hợp khác !  
Đến đầu năm 1944, Đức đã có hai loại RWR trên các
phi cơ-tiêm kích của họ. Đầu tiên, radar Naxos, có thể thu được bức xạ radar Anh H2S. Vì radar H2S, tại thời điểm đó chỉ được cài đặt trên các phi cơ chuyên dụng của lực lượng Dò đường Pathfinder (PFF- Pathfinder Force) ( lực lượng tìm kiếm đường tiếp cận mục tiêu) thuộc Không quân Hoàng gia, có nhiệm vụ đánh dấu mục tiêu cho các oanh tạc cơ bằng pháo sáng, bom phốt pho (lân tinh), Naxos dẫn đường cho phi cơ tiêm kích Đức đến thẳng chặn các phi cơ  trên, loại đóng một vai trò quan trọng trong chiến lược của người Anh.

RWR Đức thứ hai - Flensburg, được điều chỉnh để thu nhận bức xạ của một loại radar
phi cơ Anh khác - radar Monica, được cài đặt trong phần đuôi oanh tạc cơ Không quân Hoàng gia và cung cấp cảnh báo về sự tiếp cận của phi cơ tiêm kích đối phương ở bán cầu sau, điều đó cho họ thời gian để thực hiện động tác cơ động phòng thủ thích hợp. Người Đức tìm thấy một trong những hệ thống radar này trong đống xác của oanh tạc cơ Anh bị họ bắn rơi, và đi đến ý tưởng tuyệt vời sử dụng bức xạ của nó để tạo ra không nhiều hơn cũng không ít hơn một cách bám vào đuôi oanh tạc cơ của người Anh!
 RWR Flensburg đúng ra là một hệ thống tự dẫn đường, có thể dẫn phi cơ tiêm kích xộc thẳng vào đuôi đối thủ, nơi đặt radar của họ. Flensburg bao gồm bộ máy thu-so sánh và hai ăng-ten giống hệt nhau được lắp đặt trong đuôi phi cơ tiêm kích cách nhau góc 60 độ. Khi ăng-ten trái nhận được tín hiệu và RWR hiển thị nó trên mà chỉ thị của mình, đó chính là nó cho biết rằng oanh tạc cơ đang ở bên trái phi cơ tiêm kích (khu trục), và nếu ăng-ten bên phải nhận được tín hiệu, có nghĩa là oanh tạc cơ ở bên phải. Khi hai ăng-ten đều thu nhận được tín hiệu có cường độ bằng nhau, điều này có nghĩa rằng oanh tạc cơ kẻ thù ở ngay trước mặt. Với một thiết bị vô tuyến điện tử đặc biệt như vậy, Không quân Đức, lần đầu tiên, đạt được những kết quả to lớn.

Năm 1944, sự phá hủy hoàn toàn Berlin được ngăn chặn, điều đó trên một mức độ lớn chính là nhờ sự tiến bộ của người Đức trong lĩnh vực điện tử. Hiệu quả của các
phi cơ tiêm kích đánh đêm của Đức được hỗ trợ bởi lực lượng pháo phòng không được tổ chức tốt, không cho phép Không quân Hoàng Gia Anh gây ra sự tàn phá lớn ở quy mô khủng khiếp như sự tàn phá thành phố cảng Hamburg.

[​IMG]Pháo cao xạ 105mm Đức tại Zoo Flak Tower Berlin năm 1942
Trong thời gian này, tổn thất của Không quân Hoàng gia tăng đáng kể, còn tinh thần chiến đấu giảm đáng kể. Nhiều người trong số các phi công tốt nhất của Anh đã kiệt sức nghiêm trọng và thường xuyên, với những nguy hiểm không đáng kể hoặc khi phải đối mặt với khó khăn, thả bom trên biển hoặc trên đồng trống. Nghe tiếng ồn không thể lay chuyển của
phi cơ tiêm kích đang tiếp cận, các xạ thủ trên không hoảng sợ, và đôi khi do nhầm lẫn, họ bắn hạ phi cơ của quân mình.

Tình trạng hỗn loạn như thế đạt đến đỉnh cao trong các đêm từ ngày 30 sang ngày 31 tháng 3 năm 1944 khi các
phi cơ tiêm kích Đức, được các RWR của mình dẫn đường, tấn công một số oanh tạc cơ của Không quân Hoàng gia trên bầu trời Brussels và buộc họ phải bước vào một cuộc không chiến, kéo dài suốt đoạn đường đến Nuremburg - mục tiêu không kích, và trên toàn bộ đoạn đường trở lại. Quân Đồng minh bị mất 95 trong tổng số 795 oanh tạc cơ tham gia cuộc không kích, còn 71 phi cơ khác quay trở lại phi trường của mình với nhiều hư hại nặng, 12 chiếc khác gặp nạn khi hạ cánh. Kết quả cuối cùng - tổn thất 115 oanh tạc cơ và 800 thành viên phi hành đoàn giàu kinh nghiệm. Đó là một thắng lợi lớn cho người Đức; một trong các phi công bắn rơi bảy oanh tạc cơ, nhiều người khác - bắn hạ từ hai đến ba đối thủ. Chiến thắng này phần lớn có thể được giải thích nhờ tính ưu việt của nước Đức trong giai đoạn này của cuộc chiến tranh trong lĩnh vực tác chiến điện tử (REB).

Hoàn cảnh đối với Không quân Hoàng gia trở nên ngày càng tồi tệ và tồi tệ hơn cho đến khi thành công không bất ngờ đổ xuống đầu họ và họ không có được cơ hội sửa chữa tình hình bằng sự trả đũa điện tử tương ứng. Vào rạng sáng ngày 13 tháng 7 năm 1944, một trong những phi cơ tiêm kích đánh đêm của Đức hiện đại nhất - Junkers Ju 88G-1, do lỗi hệ thống định vị dẫn đường đã bay lạc và hạ cánh xuống đất Anh. Nó được trang bị các thiết bị điện tử mới nhất (radar SN2, radar cảnh báo sớm Flensburg và một số đài liên lạc vô tuyến điện mới rất hiệu quả), ngoại trừ radar cảnh báo sớm RWR Naxos, mà may mắn thay cho người Đức, vẫn chưa được cài đặt trên phi cơ này. Các chuyên gia người Anh ngay lập tức bắt tay kiểm tra kỹ lưỡng tất cả các thiết bị trên
phi cơ và rất lo lắng khi họ nhận ra nhiệm vụ của Flensburg. Thay vì bảo vệ các oanh tạc cơ chống lại phi cơ khu trục của đối phương, các radar được lắp đặt ở đuôi phi cơ lại thu hút chúng như một miếng thịt thu hút lũ ruồi và tạo rất nhiều điều kiện thuận lợi cho chúng tấn công họ.

Pháo đài bay B-17 Không lực Mỹ
thả bom Berlin năm 1944
Để xua tan sự hoài nghi của Bộ Chỉ huy Không quân Hoàng gia, các chuyến bay thử nghiệm đã được tổ chức, trong đó bảy mươi
oanh tạc cơ cùng loại Lancaster, mỗi chiếc trong số đó được trang bị một radar đuôi, được lệnh mô phỏng một cuộc không kích vào đất Đức tương tự như nhiệm vụ quân sự thực. Khi một phi cơ chiến đấu Ju88, điều khiển bởi phi hành đoàn Anh, cất cánh, tất cả các oanh tạc cơ được lệnh phải bật thiết bị điện tử của mình. RWR Flensburg có thể phát hiện bức xạ radar Anh ở cự ly gần 80 km và không bật radar riêng của mình, Ju88 đã có cơ hội tiến vào đuôi các oanh tạc cơ Lancaster và chiếm vị trí thuận lợi nhất để nổ súng. Nghi ngờ về hiệu quả của Flensburg đã tan biến và toàn bộ thiết bị radar nhanh chóng được gỡ bỏ khỏi các oanh tạc cơ Không quân Hoàng gia.

Trong khi đó, một số lượng lớn dải lá kim loại đã được sản xuất, chúng được cắt sao cho phù hợp với bước sóng của radar Liechtenstein SN2 và từ cuối tháng 7 năm 1944 đã được áp dụng. Việc sử dụng Window mới và gỡ bỏ các radar đuôi
phi cơ, đã làm cho tổn thất của người Anh trong các cuộc không kích đêm trên đất Đức bắt đầu giảm đáng kể.

Khi đó, người Đức cố gắng tìm giải pháp kỹ thuật khác để làm giảm nhiễu tạo ra bởi Window, chẳng hạn như sửa đổi ăng-ten radar của họ. Khi người Anh biết điều này, họ bắt đầu sử dụng các dải kim loại rất dài (đến 120 mét) gắn liền với một chiếc dù nhỏ, mỗi dải kim loại có thể mô phỏng tín hiệu phản hồi của một chiếc
phi cơ lớn. Người Đức đã buộc phải sửa đổi radar của họ một lần nữa, cố gắng để thoát khỏi tác động của các phương tiện đối kháng điện tử mới của Vương quốc Anh.

Đồng thời, chiến tranh tiếp diễn, người Đức bắt đầu trải nghiệm một loạt các vấn đề khác nhau : tổn thất ngày càng tăng của các phi công dũng cảm và giàu kinh nghiệm của họ, những khó khăn của việc đào tạo người mới bù cho những người đã mất và sự thiếu hụt nhiên liệu ngày càng tăng.

Trong lúc đó, người Anh đang ngày càng bị thuyết phục rằng cần dồn mọi nỗ lực để vô hiệu hóa các thành phần điện tử của hệ thống phòng không Đức. Để làm điều này, họ xây dựng một phi đội 
đặc biệt, chủ yếu là Short Stirling với thiết bị gây nhiễu Mandrel trên phi cơ, có khả năng gây nhiễu radar cảnh báo sớm Freya. Phi cơ Short Stirling cũng mang một số lượng lớn các PRLO Window, cho phép chúng, đơn độc hoặc theo từng cặp, tạo ra trên màn hình radar của kẻ thù các tín hiệu phản xạ giả sự hiện diện của một nhóm lớn oanh tạc cơ. Điều đó sẽ đánh lạc hướng sự chú ý của hệ thống phòng không Đức khỏi các phi cơ thả thực, đã tiến hành một cuộc thả bom trên một đối tượng khác.

Tuy nhiên, cho đến khi kết thúc chiến tranh, ngành công nghiệp Đức đã có thể bắt kịp với người Anh, khi tạo ra hai hệ thống radar mới, mà các phương tiện đối kháng điện tử của phe Đồng minh chống lại nó không hiệu quả. Hệ đầu tiên gọi là Neptun và có thể được cấu trúc lại để làm việc trên một trong sáu tần số từ 158-187 MHz - ở các bước sóng dài tương ứng từ 1,9 đến 1,6 m, mà không thể gây nhiễu nhờ PRLO Window. Radar thứ hai, được gọi là Berlin, vào thời của mình, là một phát minh mang tính cách mạng và làm việc trong dải bước sóng cm. Ăng-ten của nó không còn là một hệ thống phức tạp các lưỡng cực được lắp đặt ở một khoảng cách nhỏ với vỏ
phi cơ, còn có một ăng-ten parabol được lắp đặt trong phần mũi phi cơ. Tuy nhiên, cho đến khi chiến tranh kết thúc mới chỉ có một vài mẫu của radar này được ra đời.

Các
phi cơ Đức Junkers 88G-7b được trang bị radar Neptun, cũng như thiết bị có thể phân biệt phi cơ địch-ta, là tiền thân của hệ thống nhận dạng quốc tịch, hiện đang được cài đặt trên tất cả các phi cơ chiến đấu hiện đại, và có thể phân biệt phi cơ địch với phi cơ mình. Chúng cũng được trang bị radar vô tuyến đo cao, la bàn vô tuyến, máy thu dẫn đường an toàn, máy in mã Morse đơn giản tọa độ phi cơ truyền về cho trạm mặt đất, thiết bị cho phi cơ hạ cánh và hai đài vô tuyến mới băng sóng ngắn KV và cực ngắn UKV. Vì radar Neptun được xây dựng trên cơ sở bức xạ định hướng và công suất lớn, còn các tín hiệu của máy thu-teletype "thông qua" rất tốt nhờ sử dụng mã Morse, các hệ thống này rất bền vững trước sự chế áp. Máy bay kiểu Junkers Ju88G-7b cũng được trang bị RWR Naxos, còn RWR Flensburg được thay thế bằng máy trắc giác nhiệt Kiel, loại này phản ứng với bức xạ hồng ngoại của các "điểm nhiệt" - ống xả động cơ các phi cơ địch.

Trong những tháng cuối của cuộc chiến tranh, hai bên bắt đầu sử dụng các thủ đoạn dưới dạng các mục tiêu giả. Radar không thể xác định hình thức và đặc tính của đối tượng phát hiện, do đó chỉ có thể sử dụng các vật kim loại khác nhau để tạo ra các tín hiệu giả, mà trong một số trường hợp nhất định sẽ được coi là các
phi cơ thực, tàu biển thực v.v.

Người Đức sử dụng nhiều mục tiêu giả ở khu vực Berlin để ngăn chặn sự phá hủy hoàn toàn thủ đô của họ. Trong các hồ ở gần đó họ bố trí một số lượng lớn các mục tiêu bằng kim loại, hy vọng đánh lừa các oanh tạc cơ
của quân Đồng Minh, những người sử dụng radar H2S để thả bom mù.

Những phương tiện khác tinh vi hơn đã được cả hai bên sử dụng trong giai đoạn cuối chiến tranh. Trên bầu trời nước Đức diễn ra một cuộc đấu tranh liên tục giữa radar, đối kháng điện tử, và phản đối kháng điện tử. Chắc chắn, nó là một trong những nhiệm vụ khó khăn nhất của cuộc Chiến tranh Thế giới thứ Hai và xét từ quan điểm khoa học, khi cả hai đối thủ không vượt được nhau trong sự hoàn thiện về kỹ thuật, và xét từ quan điểm ứng dụng tác chiến, trong đó hai bên đã chiến đấu với lòng quyết tâm tuyệt vọng, lòng can đảm và những kinh nghiệm tuyệt vời.

Sau khi Hoa Kỳ tham gia Chiến tranh Thế giới II, số lượng máy bay tham gia vào mỗi chiến dịch quân sự đã tăng lên đáng kể. Trong những tháng cuối cùng của chiến tranh, nước Đức đã bị
thả bom dữ dội hàng ngày với không ít hơn 1.000 oanh tạc cơ được hộ tống bởi 600-700 phi cơ tiêm kích, còn ban đêm - gần như cùng một số lượng như vậy các oanh tạc cơ của Không quân Hoàng gia.

[​IMG] 

Phế tích Thế chiến 2 - Nhà thờ Kaiser Wilhelm Memorial Church tại Berlin-Charlottenburg, bị quân Đồng minh dội bom, được giữ lại làm đài tưởng niệm.

Cuộc đối đầu giữa bản thân các phi cơ tiêm kích, chiến thuật đánh đêm và đánh ngày, tổ chức và hiệu quả của hệ thống phòng không, những cải tiến liên tục trong lĩnh vực phát hiện, công tác dẫn đường và chỉ huy mặt đất là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến kết quả của cuộc chiến tranh, mà kết quả không rõ ràng cho đến tận ngày cuối cùng của nó. Thiệt hại
phi cơ trên đất Đức của quân Đồng minh đặc biệt lớn; người ta tính rằng tổn thất nằm trong khoảng 12-15.000 phi cơ.

Cũng như trong Trận chiến nước Anh, cuộc đấu tranh giữa radar và đối kháng điện tử đóng vai trò vô cùng quan trọng trong các chiến dịch đường không trên bầu trời nước Đức, lần đầu tiên có lợi cho một bên, sau đó lại là bên khác, nếu đánh giá theo hiệu quả của việc áp dụng các thiết bị điện tử mới và sử dụng các yếu tố bất ngờ để bắt kẻ thù trở thành không vũ khí.


 CHƯƠNG 9. Nghi binh điện tử trong chiến dịch "Overlord"



[​IMG]
Trong cuộc đổ bộ Normandy có tên mã "Overlord", đối kháng điện tử lần đầu tiên trong lịch sử, đã trở thành một phần hữu cơ của các kế hoạch chiến lược. REP, quả thật, đã trở thành một trong những yếu tố quan trọng nhất của toàn bộ kế hoạch chiến dịch, được các nước Đồng minh lập ra đối với một trong những chiến dịch quân sự khó khăn nhất trong lịch sử.

Việc đổ bộ có tầm quan trọng sống còn, nhưng thành công của nó không có nghĩa đã được xác định trước. Người ta biết rõ rằng giai đoạn quan trọng nhất của chiến dịch là khoảng thời gian binh sĩ từ tàu đổ bộ được đổ lên bờ. Giai đoạn này có thể kéo dài trong vài giờ, và nếu đối phương tập trung một cách cần thiết để tấn công các binh sĩ đang đổ bộ, kết quả có thể là một vụ thảm sát, vì binh sĩ cực kỳ dễ tổn thương khi phải "bám vào bờ".

Vì vậy, Bộ Chỉ huy Liên quân Đồng minh coi cực kỳ quan trọng việc đánh lừa người Đức và che dấu địa điểm đổ quân đích thực, do đó, giữ chậm sự di chuyển lực lượng dự trữ chiến lược của họ đến khu vực có thể đổ bộ. Đã quyết định cố gắng thuyết phục người Đức rằng cuộc đổ bộ sẽ được thực hiện gần Calais, trong khi trên thực tế nó diễn ra trên bờ biển Normandy. Kế hoạch hoạt động điện tử đặc biệt phức tạp, tất nhiên, nó hoàn toàn bí mật. Nó được đưa vào vận hành chỉ trong một vài ngày trước Ngày X và bao gồm một sự kết hợp các hoạt động thực và giả.

Bờ biển Normandy, nơi quân Đồng Minh lựa chọn để tiến hành cuộc đổ bộ của mình, đã được tăng cường phòng thủ đáng kể cũng như toàn bộ bờ biển phía bắc châu Âu. Thống chế Von Rundstedt chỉ huy sáu mươi sư đoàn, là thành phần cơ hữu của cái gọi là Bức tường Đại Tây Dương - một hệ thống công sự trải dài từ Hà Lan đến Vịnh Biscay. Một thống chế nổi tiếng là Rommel chỉ huy các khu vực phòng thủ từ Hà Lan đến sông Loire.

Người Đức tất nhiên biết rằng các nước Đồng Minh đang lên kế hoạch xâm nhập châu Âu, và chắc chắn họ sẽ đổ bộ ở đâu đó trong miền Bắc Pháp. Von Rundstedt đã bị thuyết phục rằng họ sẽ đổ bộ ở Calais; còn Rommel, tuy nhiên, cho rằng cuộc đổ bộ sẽ diễn ra trên các bờ biển Normandy.

Ý kiến các nhà lãnh đạo Đức về địa điểm đổ bộ cũng phân tán. Sự khác biệt về quan điểm như trên gây ra bởi một số hành động có chủ ý của Đồng Minh để bắt người Đức tin rằng họ sẽ đổ bộ tại Calais.

Người Đức tất nhiên đã làm tất cả mọi thứ để gây khó khăn cho kế hoạch của quân Đồng minh, họ tiến hành một chiến dịch tuyên truyền ca ngợi khả năng bất khả xâm phạm của bức tường Đại Tây Dương. Trong một chương trình radio tháng 3 năm 1944, khoảng hai tháng trước Ngày X , họ cho rằng chuỗi radar của họ, trải dài dọc theo toàn bộ lãnh thổ cả nước Đức, hiệu quả đến mức bất kỳ
phi cơ hoặc chiến hạm nào của đối phương đều sẽ chịu sự giám sát liên tục. Và, khi có các phương tiện ấy, công cuộc phòng thủ nước Đức có thể vận hành với tốc độ vượt trội và đầy hiệu quả.

Đồng minh biết rằng người Đức đã lắp đặt dọc theo bờ biển phía bắc Pháp ít nhất 120 Radar để phát hiện các đoàn công-voa của Anh trong eo biển La Manche và chỉ huy xạ kích cho các khẩu đội pháo binh phòng thủ bờ biển. Với sự trợ giúp của không ảnh và điện tử, họ biết tất cả về toàn bộ chuỗi trạm radar của Đức, bao gồm các trạm radar cách nhau ở cự ly 16 km. Còn trên một số đoạn bờ biển chúng bố trí cách nhau 800 mét.

Các chuyên gia Anh về thiết bị điện tử từ trước đã bắt đầu phát triển các biện pháp đối kháng cụ thể. Họ chọn đoạn dài nhất của bờ biển Scotland, giống bờ biển Normandy, dựng tại đó 3 trạm radar Đức chiến lợi phẩm, thuộc ba loại chính của hệ thống radar bảo vệ bờ biển Normandy. Mỗi ngày,
phi cơ, chiến hạm và tàu đổ bộ được trang bị các thiết bị chiến tranh điện tử đã thực hiện đổ bộ tập dượt trên bờ biển Scotland. Các sĩ quan-chuyên gia tác chiến điện tử với tư cách quan sát viên, xác định xem các "chiến lợi phẩm" phát nhiễu radar của đối phương ra sao. Kết quả của những bài diễn tập được biên soạn một danh sách chi tiết các yêu cầu đối với các thiết bị lắp trên chiến hạm và phi cơ phải tham gia vào cuộc xâm nhập. Mỗi phi công và hoa tiêu được hướng dẫn rõ ràng về những gì anh ta nên làm vào Ngày X.

Kế hoạch này dựa trên hai hoạt động chính. Đầu tiên là áp
chế các trạm radar Đức ở khu vực Normandy, để ngăn chặn sự phát hiện các lực lượng hải quân đang đến gần. Hoạt động thứ hai bao gồm việc đánh lạc hướng các trạm radar Đức ở khu vực Calais bằng việc mô phỏng sự hiện diện của một lực lượng hải quân lớn đang đến gần Calais. Các biện pháp hỗ trợ khác được lên kế hoạch phối hợp chặt chẽ với hai hoạt động lớn này. Với mục đích phao tin đồn nhảm, trong khu vực Dover bắt đầu chương trình phát sóng giả công suất lớn để tạo ấn tượng trong khu vực này đang tập trung quân đội, sẵn sàng xâm nhập vào khu vực Calais. Các điệp viên lan truyền tin đồn và các thông điệp giả để tiếp tục gây nhầm lẫn về vấn đề này. Quân đội đã được tập trung ở một khu vực khác, và cuối cùng, liên lạc vô tuyến của đối phương bắt đầu bị gây nhiễu liên tục.

Việc đổ bộ được dự kiến bắt đầu vào 06:30 ngày 06 tháng 6. Trong đêm từ ngày 05 sang ngày 06 Tháng Sáu, một hạm đội khổng lồ khoảng 2.700 tàu thuyền các loại với hàng trăm ngàn người trên tàu, nhổ neo tại các cảng khác nhau ở phía tây nam nước Anh và từ từ di chuyển đến bờ biển Normandy. Đồng thời, hai mươi
phi cơ được trang bị thiết bị làm nhiễu Mandrel công suất lớn, bay dọc theo bờ biển phía nam nước Anh, trên độ cao khoảng 6.000 mét , ngụy trang che dấu sự hiện diện của các tàu đang tiếp cận trước các trạm radar của Đức trên bờ biển Normandy.

Gần như đồng thời, một số phân hạm tàu cỡ nhỏ có các tấm kim loại đặc biệt, kéo theo các phao và bóng thám không tráng kim, rời các cảng khác nhau gần Dover, nhằm mô phỏng các tín hiệu phản xạ tương đương với các tín hiệu của các chiến hạm lớn. Ngay sau đó, một số
phi cơ bay qua đầu chúng, thả một lượng lớn PRLO Window để tạo ấn tượng về việc một đoàn công-voa tàu biển đang tiếp cận bờ biển nước Pháp gần Calais.

Ngay sau khi đến giờ đổ bộ, cùng một lúc, tất cả các thiết bị chiến tranh điện tử trên các tàu đều được bật lên, tạo ra nhiễu đủ để vô hiệu hóa hiệu quả của radar kiểm soát hỏa lực pháo binh Đức.

Tất cả mọi thứ diễn ra theo đúng kế hoạch, và cuộc đổ bộ Normandy được Đồng minh kết thúc hoàn toàn thắng lợi. Kế hoạch tác chiến điện tử được lập nên một cách hiệu quả đã bảo
đảm ngăn ngừa việc đưa vào hoạt động các đơn vị dự trữ chiến lược của người Đức cho đến khi quân Đồng minh đã chiếm xong bàn đạp một cách thuận lợi. Quân Đồng minh không bị thiệt hại, vì va chạm với các lực lượng chính của quân Đức đã không xảy ra trong suốt thời gian đổ bộ. Sự nhầm lẫn gây ra bởi các chiến dịch điện tử của quân Đồng minh tiếp tục cả vào ngày hôm sau khi đổ bộ, buộc chính phủ Đức, bao gồm cả Hitler, đi đến các sai lầm nghiêm trọng trong việc đánh giá tình hình và đưa ra quyết định không chính xác.

Sự thành công của các ứng dụng đối kháng điện tử trong cuộc xâm nhập Normandy được thể hiện tốt nhất trong những lời của Winston Churchill :

"Những nỗ lực của chúng tôi để đánh lạc hướng, trước và sau Ngày X, được lập kế hoạch để gây nhầm lẫn trong việc ra quyết định, thành công của các biện pháp đó là tuyệt vời và hệ quả của nó ảnh hưởng đến quá trình cuộc chiến trong suốt một thời gian dài".


CHƯƠNG 10. Tác chiến điện tử trên không gian chiến trường Địa Trung Hải
 


[​IMG]

Loạt bắn của pháo hạm 320mm trên thiết giáp hạm Ý Giulio Cesare trong trận Punta Stilo năm 1940


Nói chung, tác chiến điện tử trên không gian chiến trường Địa Trung Hải chưa bao giờ đạt đến tầm mức của Trận chiến Anh quốc hoặc các trận chiến trên Đại Tây Dương. Tuy nhiên, tại một số giai đoạn của chiến tranh, radar đóng một vai trò rất quan trọng. Ví dụ, trong trận chiến giữa các lực lượng hải quân Anh và Ý, sau khi Ý tuyên bố chiến tranh ngày 10 Tháng Sáu năm 1940.

Nhiệm vụ chính của hạm đội Anh ở Địa Trung Hải, đóng căn cứ chủ yếu trong cảng Alexandria Ai Cập, là giữ tuyến đường biển công khai với Man-ta - một căn cứ hải quân và không quân trọng yếu. Hải quân Ý, đến lượt họ, phải duy trì tuyến hàng hải công khai với Libya, Albania và Eritrea để cung cấp cho quân đội của họ mọi thứ cần thiết.

Đương nhiên, cả hai hạm đội đều có nhiệm vụ ngăn chặn việc kẻ thù đạt được các mục tiêu của mình. Để làm điều này, mỗi bên dành cả ngày lẫn đêm mở một số lượng lớn các chiến dịch hải quân, cố gắng bảo vệ đoàn công-voa của mình và tấn công đoàn công-voa của đối phương.

[​IMG]Tuần dương hạm hải quân Ý "Fiume" năm 1933
Như chúng ta đã biết từ các chương trước, ngay trước khi bùng nổ Thế chiến 2, các nghiên cứu và phát triển bí mật về radar đang được tiến hành ở nhiều quốc gia, bao gồm cả Anh và Ý. Tuy nhiên, trong khi ở Ý radar vẫn còn ở giai đoạn mô hình thử nghiệm (vì những lý do đã nói ở trên), thì ở Anh người ta đã bắt đầu sản xuất hàng loạt, và đã được tiếp nhận vào kế hoạch trang bị, chủ yếu là do yêu cầu cấp bách của công tác phòng không.

Vào tháng Chín năm 1939, khi cuộc chiến tranh bắt đầu, ở Anh đã có cuộc vận động công nghệ và công nghiệp lớn, dẫn đến việc áp dụng các trạm radar đầu tiên. Chúng tỏ ra rất hữu ích. Trong Trận chiến nước Anh chúng đã phát hiện ra các máy bay Đức vào ban đêm và trong điều kiện tầm nhìn kém trên một cự ly lớn hơn nhiều so với mắt thường không thiết bị có thể cho phép.

Tuy nhiên, trong thời gian những cuộc giao tranh đầu tiên giữa 2 hạm đội trong suốt mùa hè năm 1940 (trận Punta Stilo ngày 09 tháng 7 năm 1940 và Cape Spada ngày 19 tháng 7 năm 1940), người Ý đã có những ý kiến mạnh mẽ rằng người Anh không có radar trên tàu của họ. Quan sát này, tuy nhiên không dẫn đến hành động nào và không khiến nhà chức trách Ý tăng tốc độ thử nghiệm mẫu radar tại Viện nghiên cứu của Học viện Hải quân Livorno. Thay vào đó, họ quyết định sử dụng một số ít các chuyên gia họ hiện có về ngành điện tử vào các công việc khác nhau mà họ coi là cấp bách hơn.

Ju-87-Stukas của quân đoàn không quân 10 Đức Quốc xã (X. Fliegerkorps Luftwaffe) xuất phát từ căn cứ trên đảo Sicily thả bom bắn hư hỏng hàng không mẫu hạm HMS Illustrious tại vị trí cách đảo Malta 160 km trong chiến dịch "Excess" tháng 1 năm 1941

Vào tháng Giêng năm 1941, quân đoàn không quân Đức X CAT (quân đoàn không quân X) đang hoạt động rất hiệu quả, bước vào tham chiến trên Địa Trung Hải, để hỗ trợ cho lực lượng quân đội phe Trục. X CAT đến Sicily vào giữa đợt hoạt động của một chiến dịch quan trọng bằng hải quân và không quân của người Anh là "Excess", nhằm cung cấp hậu cần cho Malta. Vào đêm trước chiến dịch quan trọng này của hạm đội Ý, các điện đài viên Đức đã được phái đến chiếc kỳ hạm Ý để bảo đảm thông tin liên lạc vô tuyến với X CAT. Như chúng ta sẽ thấy về sau, điều này dẫn đến những hậu quả không mong muốn cho Hạm đội Ý.

Một đoàn công-voa Anh từ Gibraltar ra khơi, trong sự hộ tống của 16 tàu chiến, ít nhất 5 trong số đó có radar trên tàu. Trong eo biển Messina một hải đoàn tàu chiến tiến từ Alexandria ra nhập đội hình với họ, hải đoàn quân sự này gồm 1 thiết giáp hạm, các tuần dương hạm và khu trục hạm, hai tuần dương hạm đến từ biển Aegean, cũng như  các chiến hạm "Southampton" và "Gloucester", không tàu nào trong số đó có trang bị radar.

Đoàn công-voa Anh và đoàn chiến hạm hộ tống bị tấn công liên tục bởi lực lượng không quân và hải quân Ý cùng
phi cơ Đức thuộc X CAT. Điều tồi tệ hơn cả đã xảy đến với các chiến hạm Anh "Southampton" và "Gloucester". Không có radar trên tàu, họ đột nhiên bị hàng chục chiếc phi cơ mà họ không thể phát hiện tiếp cận và thả bom. "Southampton" bị hư hỏng nặng đến mức người ta phải đánh đắm, còn "Gloucester" mặc dù bị hư hỏng, vẫn đến được Malta.

[​IMG]Bom PC 500 thả từ oanh tạc cơ
bổ nhào Stukas Ju87 trúng HMS Southampton, tháng 1 năm 1941, chiến dịch "Excess".

Sau những sự kiện trên, nhu cầu về radar đã được coi là hết sức quan trọng như một phương tiện để phát hiện
phi cơ địch đang đến gần. Ngày càng có nhiều chiến hạm Anh được trang bị radar và hạm đội Ý đã sớm bắt đầu cảm thấy tác động của chúng. Trong thời gian bắn phá Genoa của một đơn vị hải quân Anh, đóng căn cứ tại Gibraltar, diễn ra vào tháng 2 năm 1941, các chiến hạm Anh đã có thể phát hiện các phi cơ trinh sát Ý trước khi phi cơ phát hiện trực quan được chiến hạm. Vì vậy, các chiến hạm có thời gian để thay đổi hướng cho đến khi tiêm kích cất cánh lên ngăn chặn.

Trong trận Cape Matapan, xảy ra vào đêm ngày 28 Tháng Ba năm 1941, người Anh đã có thể nhờ sự trợ giúp của radar mà chặn đánh được một đơn vị hải quân Ý gồm ba tuần dương hạm độ choán nước 10.000 tấn, bốn tàu khu trục ở cự ly lớn hơn tầm tối đa phát hiện trực quan vào ban đêm.

Tối 27 tháng 3, Đô đốc Cunningham, Tư lệnh Hạm đội Địa Trung Hải Anh quốc, được thông báo về cuộc tấn công sắp xảy ra của hạm đội Ý vào đoàn công-voa tàu buôn đang đi về hướng Hy Lạp, và ông ra lệnh cho một đơn vị hải quân, bao gồm một hàng không mẫu hạm, ba thiết giáp hạm, bốn tuần dương hạm và chín khu trục hạm đến trợ giúp. Chỉ có ba trong số các tàu trên - hàng không mẫu hạm "Formiddable", thiết giáp hạm "Valiant" và tuần dương hạm "Ajax" có radar trên tàu. Đó là loại radar 279 , nhiệm vụ chủ yếu để theo dõi trên khoảng cách lớn các mục tiêu trên không và hướng dẫn tiêm kích đến chặn chúng.

Buổi tối ngày 26 tháng 3, cùng với các điện đài viên người Đức trên tàu, đơn vị hải quân Ý rời cảng. Nhiệm vụ của các điện đài viên là bảo
đảm tiếp xúc vô tuyến điện cần thiết với X CAT Đức, vì Bộ chỉ huy quân đội Ý yêu cầu. Cả hải đoàn Anh và Ý đều hướng tới đảo Crete và họ đến đó vào ngày 28 cùng tháng.

[​IMG] 

Tuần dương hạm hải quân Ý "Zara" trong trận Punta Stilo 1940

Nhiều cuộc di chuyển của các hạm đội thực hiện ngày hôm đó, vượt quá phạm vi của cuốn sách này, được giới hạn trong câu chuyện về các thực tế và sự kiện liên quan đến trận chiến ban đêm ngoài khơi Cape Matapan, trong đó radar đóng vai trò chi phối.

Lúc 20:15 ngày 28 tháng 3, radar trên tàu tuần dương Anh "Ajax" - một trong các tàu của hải đoàn, bao gồm các thiết giáp hạm "Warspite", " Valiant" và " Barnham" và hàng không mẫu hạm "Formiddable", nhận thấy trên màn hình radar của mình về bên trái hướng tàu có một vật gì ở cự ly khoảng 10 km. Đô đốc Pridham-Vippell, chỉ huy đơn vị tàu tuần dương, chỉ báo cáo về tiếp xúc radar với Tư lệnh của ông và tiếp tục đi theo hướng cũ. Đô đốc Cunningham, đang ở trên tàu "Warspite" quyết định đi bằng cả hải đoàn, và tìm hiểu tiếp xúc radar đó là gì.

Khoảng một giờ sau, "Valiant" thiết lập được tiếp xúc radar với một tàu lạ dường như đang thả trôi ở khoảng cách 10 km. Nó duy trì tiếp xúc radar cho đến khi chưa đến gần tàu lạ ở khoảng cách khoảng 7000 mét và chưa nhìn thấy con tàu trôi. Đồng thời, "Warspite"  - tàu kỳ hạm, đi bên trái của "Valiant", đột nhiên nhìn thấy hai tuần dương hạm lớn của kẻ thù, đang thả trôi trên gần như đúng hướng các thiết giáp hạm Anh. Radar "Valiant" ngay lập tức hướng đến những mục tiêu mới và xác định cự ly - 8500 mét. Theo các dữ liệu này, ba thiết giáp hạm chĩa đại bác vào chúng. Các thiết giáp hạm Anh đều đặn tới gần, cho đến khi họ cách các mục tiêu khoảng 2.500 mét. Tại thời điểm này khu trục hạm hạng nhẹ "Greyhound" đang đi hộ tống thiết giáp hạm, chĩa sang hai tàu những chiếc đèn chiếu công suất lớn của nó. Chúng là các tàu "Zara" và "Fiume". Chúng đến trợ giúp tàu "Pola" đang trôi, nó trúng một quả ngư lôi thả từ
phi cơ-phóng ngư lôi. Các thiết giáp hạm Anh khai hỏa pháo chính. Sau hai hoặc ba phút từ "Zara", "Fiume" và các tàu khu trục "Alfieri" và "Carducci" bay ra các mảnh kim loại nóng cháy. Tuy nhiên, bất chấp cuộc tấn công chớp nhoáng, "Alfieri" bằng cách nào đó đã có thể tiếp cận gần lại đối phương và dưới vỏ bọc của màn khói nó khai hỏa, buộc các thiết giáp hạm Anh rút lui. Trong đêm, 4 tàu Ý bị chìm, còn "Pola" biến mất khỏi tầm nhìn của hải đoàn vào lúc bình minh, nó được tiễn đưa xuống tận đáy biển bằng các trái ngư lôi phóng từ các tàu khu trục Anh "Jervis" và "Nubia".

Đêm đó chết trận có đô đốc Cattaneo - Tư lệnh hạm đội Ý, thuyền trưởng của một số tàu và phần lớn các thủy thủ đoàn.


[​IMG] 

Bản đồ trận Mũi Matapan tháng 3 năm 1941

Tiếp theo trận Cape Matapan là các sự kiện bi thảm khác, chúng là kết quả sự yếu kém của ngành công nghiệp Ý. Mặc dù mệnh lệnh khẩn cấp sản xuất năm mươi radar Gufo cho tàu chiến Hạm đội Hải quân Ý, ngành công nghiệp Ý không nắm được bí quyết sản xuất các linh kiện điện tử quan trọng, chẳng hạn như ống tia điện tử, mà người Mỹ đã cung cấp ở dạng mẫu thử nghiệm. Vì vậy, việc sản xuất các hệ thống radar trên đã bị đình chỉ.

Trong vòng vài tháng, người Anh, mà vào thời gian này đã có được những kinh nghiệm to lớn về xạ kích đêm dưới sự điều khiển của radar, trên thực tế, không mấy khó khăn trong việc tấn công các đoàn công-voa Ý đi đến các cảng Bắc Phi.

Một trong những thảm kịch ban đêm như vậy xảy ra đêm 26 tháng 7 năm 1941, khi các tàu phóng lôi Ý có một nỗ lực táo bạo vượt qua tuyến phòng thủ cảng Valletta ở Malta. Một radar nhỏ , lắp đặt trên hòn đảo này, phát hiện ra các tàu phóng lôi Ý đang tiến tới ở cự ly khoảng 32 km. Các tàu Ý đi thẳng đến trước đại đội pháo bảo vệ bờ biển sẵn sàng chiến đấu, đang chĩa nòng đại bác chính xác vào chúng và khai hỏa.

Trong khi Hải quân Ý chờ đợi việc sản xuất radar Gufo, nước Đức cho họ mượn RWR Metox, đã được chứng minh là rất có giá trị ở Đại Tây Dương. Người ta lắp chúng trên các
chiến hạm lớn của Ý, trên các khu trục hạm hộ tống đoàn công-voa và các tàu ngầm. Ngoài ra, trên các tàu vận tải khác nhau cũng trang bị các radar khác, chẳng hạn như radar De Te mẫu Fu.Mo.24/40G, có tầm phát hiện khoảng 20-25 km. Máy thu Metox ngay lập tức chứng tỏ giá trị của nó. Nhờ khả năng phát hiện bức xạ điện từ của radar kẻ thù, người Ý có được khả năng kịp thời làm công tác chuẩn bị cần thiết để đẩy lùi các cuộc tấn công bất ngờ.

Nếu như người Ý kích thích sự phát triển của hệ thống TCĐT, khi đó các chiến dịch ở Địa Trung Hải, không nghi ngờ gì nữa, sẽ có kết quả hoàn toàn khác. Việc lắp đặt trên quy mô lớn RWR, như đã đề cập trong các chương trước, có tầm phát hiện lớn hơn so với radar thông thường, sẽ cho phép họ phát hiện kẻ thù trước khi người Anh tìm ra họ và sau đó áp chế radar của họ. Việc bị tiêu diệt hoàn toàn trong biển Aegean, ngoài khơi Cape Matapan, hy sinh 2.300 thủy thủ, chính là cái giá mà người Ý phải trả cho việc thiếu các thiết bị chiến tranh điện tử cho phép họ tránh trận chiến chết người này.

Khi những radar Gufo đầu tiên rốt cuộc cũng được lắp đặt trên các
chiến hạm Ý, chuyện đã quá muộn; Ý đã thua trong chiến tranh. Bài học rút ra từ những sự kiện này cho thấy hệ thống mẫu radar thử nghiệm và các trang thiết bị tác chiến điện tử khác vẫn sẽ như vậy, nếu các nghiên cứu không được hỗ trợ bằng sự phát triển cần thiết của ngành công nghiệp điện tử làm chủ được các công nghệ mới nhất và khả năng sản xuất hàng loạt các linh kiện thành tố. (Ngày hôm nay, dĩ nhiên, ngành công nghiệp Ý đã là một trong những ngành tiên tiến nhất trên thế giới trong lĩnh vực tác chiến điện tử.)

[​IMG] 

HMS Illustrious dưới cuộc tấn công của Ju 87 tại Cảng Lớn, Malta. Hàng không mẫu hạm nằm bên phải chiếc cần cẩu lớn.

Trong các chiến dịch đường không ở Địa Trung Hải, radar và tác chiến điện tử đóng vai trò khá khiêm tốn trong những năm đầu chiến tranh. Không quân Ý (Regia Aeronautica) khác với Luftwaffe trong Trận chiến Anh quốc, không cảm thấy bất kỳ nhu cầu cấp thiết nào về các thiết bị dẫn đường vô tuyến để hướng dẫn cho các oanh tạc cơ
của họ. Ngoài ra, đảo Man-ta, trên đó vỏn vẹn chỉ có một số phi cơ lỗi thời của Anh, không được họ coi là mục tiêu ưu tiên.

Tuy nhiên, tình hình đã thay đổi vào năm 1942, khi đảo Malta trở thành trở ngại cho vận tải đường biển của phe Trục, vốn phải bảo đảm cung cấp hàng đến các cảng Bắc Phi. Thiếu radar và thiết bị điện tử là sự việc có tác động lớn đến thành công của các vụ
thả  bom hòn đảo này của các quốc gia phe Trục.

Việc loại bỏ các radar cảnh báo sớm của Anh trên đảo Malta được coi là ưu tiên cao nhất của Bộ Tư lệnh tối cao Ý, đặc biệt là dưới dạng một cuộc xâm nhập được lập kế hoạch lên hòn đảo. Thiết bị được thiết kế và phát triển bởi Viện nghiên cứu công nghệ vô tuyến điện Không lực Ý tại Guidoni, gần Rome, với sự phối hợp của Lục quân và Hải quân, dưới sự lãnh đạo của Giáo sư Latmirala, là rất độc đáo, rất mới và là sự hợp nhất cùng nhau của máy thu và máy phát nhiễu. Nó được xây dựng, theo một sơ đồ siêu phản ứng được phổ biến rộng rãi thời đó, mà bây giờ không còn được sử dụng nữa do những khó khăn của việc điều khiển nó chính xác và xu hướng gây nhiễu rất mạnh cho binh sĩ quân mình ở bên cạnh thiết bị. Chính khả năng tiêu cực đó của sơ đồ đã được giáo sư Latmirala sử dụng để tạo ra tiếng ồn ở tần số hoạt động của radar đối phương, nhưng với tần số lặp lại xung khác nhau để chế áp máy thu. Những thiết bị gây nhiễu đầu tiên làm việc tại tần số 170-220 MHz và bức xạ công suất từ 10-20 watt.

Máy thu-phát nhiễu của giáo sư Latmirala được sử dụng trong các chiến dịch quân sự trong một giai đoạn ngắn, vì ngày 08 tháng 9 năm 1943 Ý đã ký thỏa thuận ngừng bắn. Do đó, nó ít có tác động đến kết quả của cuộc chiến tranh ở Địa Trung Hải, nơi phi cơ Ý phải hoạt động mà không có radar và thiết bị bảo vệ họ khỏi radar Anh. Để giúp đồng minh Ý của mình, người Đức phái đến Bắc Phi quân đội và xe tăng của họ. Đồng thời, họ bắt đầu đặt radar của họ lên chính lãnh thổ nước Ý, cũng như các hải đảo của nó, nhưng giữ bí mật với bản thân người Ý; số lượng các hệ thống radar được lắp đặt ở Ý, chủ yếu là mẫu Freya và Wurzburg, đã dần dần tăng lên.

Khi thảo luận về vấn đề cuộc xâm nhập của Đồng minh lên Sicily, đã quyết định rằng đầu tiên cần biết nhiều hơn về các radar Đức được bố trí ở phía nam Ý. Để thực hiện nhiệm vụ trinh sát điện tử đã sử dụng oanh tạc cơ
Wellington của Không quân Hoàng gia, được trang bị máy thu RWR. Bay ở độ cao thấp, họ cố gắng để thu một tín hiệu radar mạnh, và khi họ bắt được một trong số tín hiệu đó, họ bay về phía nguồn phát của nó, để tìm hiểu xem cường độ của tín hiệu có tăng lên không. Như thế, họ đã có khả năng xác định các tọa độ hoặc ít nhất là hướng của radar. Các chuyến bay như vậy rất nguy hiểm, vì thường xuyên oanh tạc cơ Wellington phải bay rất gần với radar và chịu một mối nguy hiểm chết người là bị bắn hạ bởi lưới lửa của các khẩu đội pháo phòng không. Tuy nhiên, các oanh tạc cơ Wellington đã phát hiện được gần như tất cả các trạm radar của Đức ở Sicily và miền Nam nước Ý, thậm chí bất chấp thực tế là trên phi cơ không có máy vô tuyến trắc giác .

[​IMG]Bom không đối hạm có điều khiển của Đức Quốc xã - Fritz X (Air-to-Ship Wireless Guided Gliding Bomb)
Vào cuối năm 1942, để thay thế các
oanh tạc cơ chậm chạp và lỗi thời Wellington, các phi cơ tối tân hơn và được trang bị tốt hơn đã được triển khai đến từ Mỹ. Đó là oanh tạc cơ bốn động cơ B-24 Liberator. Trong thành phần phi hành đoàn của nó có các chuyên gia dân sự về trinh sát điện tử để bảo dưỡng thiết bị thu nhận trên phi cơ. Để tránh bị phát hiện từ mặt đất trong thời gian các chuyến bay đêm, các phi cơ được sơn màu đen, còn các ống xả của động cơ được che bằng các bầu dập lửa. Tại phần đuôi của chúng có gắn ăng-ten RWR, được điều chỉnh trước theo tần số radar phi cơ tiêm kích đánh đêm của Đức. Khi phát hiện bức xạ radar phi cơ tiêm kích Đức, trên bảng điều khiển của phi cơ, đèn cảnh báo màu đỏ sẽ cháy sáng. Để xác định hướng đến của các tín hiệu trạm mặt đất, trên mỗi đầu cánh phi cơ B -24 người ta lắp hai ăng-ten của máy thu radar; chúng được điều chỉnh theo tần số của radar Freya và Wurzburg. Khi chặn tín hiệu radar, trắc thủ vận hành có thể nghe thấy trong tai nghe tần số lặp của xung radar đối phương. Sau đó, anh ta ra lệnh cho phi công cơ động B-24 cho đến khi nào âm lượng các xung từ hai máy thu còn chưa như nhau. Điều này có nghĩa là bây giờ B-24 sẽ bay thẳng tới radar và bằng cách đó các trắc thủ vận hành có thể xác định với độ chính xác vừa đủ phương vị của nó. Tuy nhiên, phương pháp này không phải là không có nhược điểm. Nó không cho độ chính xác đủ để định vị radar, cũng có nghĩa là phi cơ phải bay quá gần với radar với việc tiếp theo là phạm vào khu vực diệt mục tiêu của các khẩu đội pháo cao xạ của hệ thống phòng không.

Những vấn đề trên đã được giải quyết sau khi lắp đặt trên oanh tạc cơ B- 24 những bộ vô tuyến trắc giác đầu tiên. Các thiết bị này có thể xác định hướng tới của bức xạ điện từ của radar. Sau việc đó, B -24 không còn cần phải bay vào hướng các trạm radar của Đức để lấy phương vị của chúng; chỉ cần bay song song với bờ biển, và qua những khoảng thời gian xác định đều đặn lấy phương vị radar. Tiếp sau đó, vị trí của radar được xác định bằng phương pháp tam giác trắc giác.

Với sự trợ giúp của phương pháp này, quân Đồng minh đã có thể xác định không chỉ tọa độ của tất cả các trạm radar của Đức tại Ý, mà còn cả các trạm thiết lập dọc bờ biển phía nam nước Pháp. Tầm quan trọng của phát hiện này được đánh giá cao trong cuộc đổ bộ của Đồng Minh lên Sicily - vào Salerno và Provence. Trước mỗi chiến dịch họ
thả bom hệ thống radar ven biển, mà nếu không sẽ cảnh báo người Đức về việc họ đang đến gần.

Tuy nhiên, vào tháng Chín năm 1943, mặc dù tất cả các biện pháp phòng ngừa, các nước Đồng minh phải đối mặt với một thách thức mới không lường trước trong lĩnh vực EW. Người Đức đã phát minh ra một vũ khí chống hạm mới khủng khiếp - bom công phá cao có động cơ hỏa tiển, dẫn đường bằng vô tuyến đến mục tiêu từ
phi cơ vận tải. Bom được gọi là Henschel Hs293, được dẫn với trợ giúp của hệ thống điều khiển vô tuyến bốn tần số từ trên oanh tạc cơ Junkers Ju88 và Heinkel He177; khi gửi tín hiệu vô tuyến điều khiển các bánh lái lệch gắn trên thân bom, trắc thủ vận hành trên phi cơ có thể điều khiển đường bay của nó.

[​IMG] 

Pháo tháp số 2 của thiết giáp hạm hải quân Ý Roma, pháo cỡ 15-inch (381-mm), nổ tung ngày 9 tháng 9 năm 1943, sau khi trúng bom lượn điều khiển bằng vô tuyến Fritz-X.

Bằng chứng về độ chính xác và sức mạnh hủy diệt rất lớn của quả bom mới mang tính cách mạng là một sự kiện đã diễn ra ở Địa Trung Hải. Ngày 09 tháng 9 năm 1943, một ngày sau khi giữa Ý và các nước Đồng minh ký kết thỏa thuận ngừng bắn, hạm đội hải quân Ý bao gồm ba thiết giáp hạm có độ choán nước 35.000 tấn mỗi tàu: "Roma", "Vittorio Veneto" và "Italia", sáu tàu tuần dương và hai nhóm tàu khu trục, phóng hết tốc lực về cảng La Maddalena ở Sardinia. Ngay sau khi nhìn thấy đảo Asinara, các tàu đổi hướng 45 độ vào cảng ở cửa sông La Maddalena. Nhưng khi họ vừa mới vượt qua eo biển Bonifacio, từ Supermarine - Bộ Chỉ huy tối cao Hải quân ở Rome, nhận được điện vô tuyến, thông báo cảng La Maddalena đã bị người Đức chiếm đóng. Do đó, họ được lệnh đổi hướng và đi về cảng Beaune của Tunisia.

Trong khi các tàu Ý quay hướng và một lần nữa ra khơi, người Đức, không nghi ngờ gì nữa, đã chặn và giải mã thông điệp của người Ý, họ ngay lập tức cho
phi cơ của họ cất cánh lên không trung để thả bom tàu chiến Ý. Trên tất cả các tàu chiến người ta nhận ra rằng oanh tạc cơ Junkers đã thả những quả bom với động cơ hỏa tiển được điều khiển bằng radio, vì điều này được thực hiện ở tốc độ cao hơn so với bom thông thường và chúng rơi thẳng vào mục tiêu. Hai quả bom trúng chiếc thiết giáp hạm "Roma" - kỳ hạm của hạm đội, gây thiệt hại nghiêm trọng cho nó đến mức con tàu vỡ làm đôi và chìm với gần như toàn bộ thủy thủ đoàn.

Một vài ngày sau đó, ngày 14 (11?) tháng 9 năm 1943, trong cuộc đổ bộ của Đồng Minh tại Salerno, bom mới tái áp dụng đã tàn phá thiết giáp hạm Anh "Warspite" và tuần dương hạm Mỹ "Savannah". Các thủy thủ đoàn của cả hai tàu báo cáo rằng các quả bom thả từ oanh tạc cơ
Đức, xét theo hành vi của chúng, được điều khiển bằng sóng radio.

[​IMG]USS Savannah (CL-42) trúng một bom Đức điều khiển bằng sóng vô tuyến khi yểm trợ Liên quân ngoài bờ trong chiến dịch Salerno, 11 tháng 9 năm 1943. Bom trúng nóc pháo
tháp số 3 cỡ 6"/47 và chui sâu vào thân tàu rồi mới nổ. Ảnh cho thấy vụ nổ tuôn khói ra qua nóc pháo tháp cũng như qua thân tàu phía dưới đường mớn nước. Trên nền trước là một thuyền máy phóng lôi đang chạy ngang qua. Ảnh của Naval Historical Center.
Bộ Tư lệnh tối cao Hải quân Anh và Mỹ rất lo lắng về độ chính xác của bom mới, họ ngay lập tức triệu tập các chuyên gia kỹ thuật từ các quốc gia của họ lại để cố gắng tìm cách đối phó với mối đe dọa mới.

Ý tưởng đầu tiên đến với họ là trên các tàu của Đồng minh hoạt động ở Địa Trung Hải sẽ lắp các máy thu đặc biệt; chúng sẽ thu, ghi và phân tích các tín hiệu sóng điện từ phát ra từ máy bay đang
thả bom và tiếp theo đó là lái bom. Điều đó sẽ phải làm vào thời điểm tàu đang bị tấn công, và các quả bom đang được lái thẳng vào họ - đây không phải là chuyện đùa !

Sau một thời gian, quân Đồng minh may mắn chiếm được một trong những trái bom Hs-293, thả rơi vào vùng nước ven biển Libya mà không phát nổ. Nghiên cứu kỹ lưỡng trái bom và phân tích các bức xạ chặn được cho thấy hai trong số bốn tần số dẫn đường hỏa tiển là cao hơn dải tần số có thể nghe được và cao hơn tần số có thể ghi lại được bằng thiết bị khi đó đang sử dụng. Trong khi các máy thu-ghi mới có khả năng phát hiện các tần số cao như vậy được vội vã chế tạo, hiểu biết về nhiệm vụ của hai tần số khác đã đủ để thiết bị điện tử gây nhiễu ngẫu nhiên "làm mù" hệ thống này của đối phương. Các mẫu đầu tiên của thiết bị đã được lắp đặt trên các tàu khu trục Mỹ "Davis" và "Jones" và đã gây nhiễu thành công cho các hệ thống dẫn đường vô tuyến của bom Đức.

Sau đó, các chuyên gia phát hiện ra rằng hai tần số không nghe được chỉ đơn giản là các tần số siêu âm và bốn tần số chỉ đơn giản là các lệnh cơ động "lên cao”, "xuống thấp", "sang phải" và "sang trái". Sau phát hiện này, các nước Đồng minh đã có thể can thiệp vào việc điều khiển, thông qua việc truyền các lệnh giả, đánh lệch quả bom nguy hiểm chết người ra khỏi hướng bay của nó. Một khi quân Đồng minh đã tạo ra được máy gây nhiễu có khả năng làm việc này, không tàu nào trong số các tàu của họ còn bị trúng các trái bom điều khiển bằng radio, và loại bom trên cũng không được đối phương sử dụng nữa, sụ hữu dụng của nó cũng trôi qua rất nhanh !

No comments:

Post a Comment