Trận Bạch Đằng năm
1288 xảy
ra trên sông
Bạch Đằng
thuộc đất Đại
Việt, là một
trận đánh quan trọng trong các cuộc kháng
chiến chống Nguyên Mông trong lịch
sử Việt Nam.
Đây là chiến
thắng vẻ vang
của quân Đại
Việt do Quốc
công Tiết chế Trần
Hưng Đạo cùng
với Thái
thượng hoàng
Trần
Thánh Tông và
vua Trần
Nhân Tông chỉ
huy trước quân xâm
lược
Nguyên
Mông. Quân
Nguyên bị thiệt hại vô cùng nặng (với khoảng hơn 4 vạn quân sĩ bị loại khỏi vòng
chiến), và nhiều tướng Nguyên trong đó có cả Ô
Mã Nhi, Phạm
Nhàn và Phàn
Tiếp cũng bị
bắt sống và dâng lên Thượng hoàng Thánh Tông. Ngoài ra, có những 400 chiến
thuyền của quân Nguyên rơi vào tay quân Trần thắng lớn. Đại thắng trên sông Bạch
Đằng được xem là trận thủy chiến lớn nhất trong lịch sử Việt Nam, và là thắng
lợi tiêu biểu nhất của Đại Việt trong ba cuộc kháng chiến chống quân xâm lược
Nguyên-Mông.
Đại thắng này là một chiến quả của
kế cắm cọc trên sông Bạch Đằng của Hưng Đạo Vương, mở đầu với việc quân sĩ của
ông lừa được địch vào trận địa cọc nhân triều rút. Quân Nguyên vấp phải sự chiến
đấu mãnh liệt của quân Thánh Dực dưới quyền Nguyễn
Khoái (Bình
chương Áo Lỗ Xích của Nguyên Mông bị bắt trong trận này), tiếp theo đó các vua
Trần đem binh tới ác chiến, đập tan nát quân Nguyên. Tiếp theo đó, quân Trần mai
phục hai bên cũng dũng vũ xông ra, tiếp tục diệt tan quân địch. Khi nước triều
rút, quân Nguyên hoàn toàn lâm vào thảm họa. Với sự hoàn tất sứ mệnh phá hủy
đoàn binh thuyền của Ô Mã Nhi, toàn thắng này dẫn đến thắng lợi hoàn toàn của
Đại Việt trong cuộc Chiến
tranh Nguyên Mông-Đại Việt lần 3 và hoàn toàn phá tan âm mưu xâm
chiếm Đại Việt của nhà Nguyên. Chiến tích vẻ vang này của Trần Hưng Đạo cùng với
hai vị minh quân triều Trần đã lưu danh trong lịch sử Việt Nam, và là đề tài cho
nhiều tác phẩm văn
học
Việt
Nam thời Trung
đại, dưới ngòi bút của các danh sĩ Trương
Hán Siêu,
Nguyễn
Trãi,...
Trương Hán Siêu đã thuật lại diễn biến cuộc chiến này trong bài "Phú sông Bạch
Đằng" như sau: "Thuyền bè muôn đội, tinh kỳ phấp phới/Hùng hổ sáu quân, giáo
gươm sáng chói/[...]/Trận đánh được thua chửa phân/Chiến lũy bắc nam chống
đối/[...]/Tất Liệt thế cường, Lưu Cung chước dối/Những tưởng gieo roi một
lần/Quét sạch Nam bang bốn cõi/[...]/Trời cũng chiều người/Hung đồ hết
lối!"
Kế hoạch rút quân của quân Nguyên
Vào năm 1287, nhà
Nguyên mở đầu
cuộc xâm
lược Đại Việt
lần thứ ba, nhưng chỉ chiếm được kinh
thành
Thăng
Long không một
bóng người, và thủy quân Đại Việt do Phó tướng Nhân Huệ Vương Trần
Khánh Dư chỉ
huy đã đánh tan nát đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ trong trận
Vân Đồn. Trước
tình hình bất lợi, quân Nguyên định tổ chức rút về Trung Quốc theo nhiều hướng
khác nhau. Ngày 3 tháng 3 năm Mậu Tí (1288), Hữu thừa Trình Bằng Phi, Thiên tỉnh
Đạt Mộc thống lĩnh kị binh đi đón các cánh quân di chuyển bằng đường thủy (đoàn
thuyền của Trương Văn Hổ). Tuy nhiên khi qua chợ Đông-Hồ thì bị dòng sông chắn
ngang, phải quay lại, nhưng cầu cống đã bị quân nhà Trần bám theo sau phá hủy.
Quân Nguyên rơi vào thế nguy, trước mặt thì bị quân Trần chận đường, sau lưng là
chướng ngại thiên nhiên. Tuy nhiên quân Nguyên do tra hỏi những tù binh nên đã
tìm được đường thoát, nửa đêm hôm đó cánh quân này đột phá vòng vây chạy trốn
theo con đường khác, phối hợp với một cánh quân Nguyên đang rút lui để cùng nhau
ra khỏi ải Nội Bàng. Tuy bị bất ngờ bởi sự thay đổi lộ trình của quân Nguyên,
quân đội nhà Trần đuổi theo đánh rất sát vào cánh quân đoạn hậu. Tướng Nguyên là
Vạn hộ Đáp Thứ Xích và Lưu Thế Anh phải dẫn quân quay trở lại phía sau đối phó
với quân Trần, sau một trận giao chiến bắt được và giết các tướng Trần chỉ huy
toán quân tập kích là các tướng Phạm Trù và Nguyễn Kị.
Ngày 7 tháng 3 năm Mậu Tý (8 tháng
4 năm 1288), cánh quân Mông Cổ rút bằng đường thủy đi tới Trúc Động, tại đây họ
bị quân nhà Trần chặn đánh, nhưng tướng Nguyên là Lư Khuê chỉ huy quân này đánh
lui quân nhà Trần và chiếm được 20 thuyền chiến.
Ngày 8 tháng 3 (9
tháng 4 năm
1288), Ô Mã Nhi không cho quân rút về bằng đường biển mà đi theo sông Bạch Đằng,
vì tính rằng đường biển đã bị thủy quân nhà Trần vây chặt thì phòng bị đường
sông có thể sơ hở, hơn nữa sông Bạch Đằng nối liền với nội địa Trung Quốc bằng
thủy lộ, thuận lợi cho việc rút lui.
Bố trí quân Trần
Năm 1288, sau khi rút lui khỏi kinh
đô Thăng Long, Trần
Hưng Đạo đã
quyết định đánh một trận lớn chống quân Mông Cổ xâm lược đi vào Đại Việt thông
qua sông Bạch Đằng. Sông Bạch Đằng trước đó cũng là một địa danh lịch sử khi
Ngô
Quyền đã từng
đánh thắng quân Nam Hán trong năm 938, kết thúc gần 1000 năm
Bắc
thuộc. Trần
Hưng Đạo đã nghiên cứu kỹ lưỡng quy luật thủy triều của con sông này để vạch ra
thế trận cọc để mai phục quân Mông Nguyên
Trần Hưng Ðạo chỉ huy quân dân Đại
Việt chuẩn bị một trận địa mai phục lớn trên sông Bạch Ðằng, là nơi đoàn thuyền
của quân Nguyên sẽ phải đi qua trên đường rút chạy. Các loại gỗ lim, gỗ táu đã
được đốn ngã trên rừng kéo về bờ sông và được đẽo nhọn cắm xuống lòng sông ở các
cửa dẫn ra biển như sông Rút, sông Chanh, sông Kênh làm thành những bãi chông
ngầm lớn, kín đáo dưới mặt nước. Ghềnh Cốc là một dải đá ngầm nằm bắt ngang qua
sông Bạch Ðằng nhưng phía dưới sông Chanh, đầu sông Kênh, có thể sử dụng làm nơi
mai phục quân lính phối hợp với bãi chông ngầm nhằm ngăn chận thuyền địch khi
nước rút xuống thấp. Thủy quân Đại Việt bí mật mai phục phía sau Ghềnh Cốc, Ðồng
Cốc, Phong Cốc, sông Khoai, sông Thái, sông Gia Ðước, Ðiền Công, còn bộ binh bố
trí ở Quảng
Yên, dọc theo
bờ bên trái sông Bạch Ðằng, Tràng Kênh ở bờ bên phải sông Bạch Ðằng, núi Ðá
Vôi..., ngoại trừ sông Ðá Bạc là để trống cho quân Nguyên kéo vào. Ðại quân của
hai vua đóng quân ở Hiệp Môn (Kinh Môn, Hải Dương) trong tư thế sẵn sàng lâm
trận cho chiến trường quyết liệt sắp xảy ra.
Diễn biến trận đánh
Khi Ô Mã Nhi dẫn đoàn thuyền tiến
vào sông Bạch Đằng nhân lúc nước lớn, thủy quân nhà Trần tràn ra giao chiến, rồi
giả thua chạy vào sâu bên trong. Ô Mã Nhi trúng kế khích tướng nên thúc quân ra
nghênh chiến, các tướng Phàn Tham Chính, Hoạch Phong cũng ra tiếp ứng. Khi
thuyền quân Nguyên đã vào sâu bên trong sông Bạch Đằng, tướng Nguyễn
Khoái dẫn các
quân Thánh Dực ra khiêu chiến và nhử quân Nguyên tiến sâu vào khúc sông đã đóng
cọc, trong khi quân Trần đợi cho thủy triều xuống mới quay thuyền lại và đánh
thẳng vào đội hình địch. Bình chương Áo Lỗ Xích của Nguyên Mông đã bị bắt sống
trong cuộc chiến đấu quyết liệt của quân Thánh Dực.
Thủy quân Đại Việt từ Hải Đông -
Vân Trà từ các phía Điền Công, Gia Đước, sông Thái, sông Giá nhanh chóng tiến ra
sông Bạch Đằng, với hàng trăm chiến thuyền cùng quân lính các lộ dàn ra trên
sông và dựa vào Ghềnh Cốc thành một dải thuyền chặn đầu thuyền địch ngang trên
sông. Trong lúc thủy chiến đang diễn ra dữ dội thì đoàn chiến thuyền của hai vua
Trần đóng ở vùng Hiệp Sơn (Kinh Môn, Hải Dương) bên bờ sông Giáp (sông Kinh
Thầy, vùng Kinh Môn, Hải Dương) làm nhiệm vụ đánh cầm chừng và cản bước tiến của
địch, cũng tấn công từ phía sau khiến quân Nguyên càng lúng túng và tổn thất rất
nặng. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, "nước sông do vậy đỏ ngầu cả". Bị bất
lợi hoàn toàn, rất nhiều thuyền chiến của quân Nguyên bị cháy rụi. Bị tấn công
tới tấp trên sông, một số cánh quân Nguyên bỏ thuyền chạy lên bờ sông bên trái
của Yên Hưng để tìm đường trốn thoát, nhưng vừa lên tới bờ họ lại rơi vào ổ phục
kích của quân Trần, bị chặn đánh kịch liệt. Trời về chiều khi giao tranh sắp kết
thúc, Ô Mã Nhi cùng với binh lính dưới quyền chống cự tuyệt vọng trước sự tấn
công của quân Trần, vì quân Nguyên của Thoát Hoan không tới cứu viện, nên đạo
quân này hoàn toàn bị quân Trần tiêu diệt. Theo Nguyên sử, truyện của Phàn Tiếp
chép rằng kịch chiến xảy ra từ giờ mão đến giờ dậu, tức là từ sáng kéo dài đến
chiều tối mới kết thúc. Nguyên Sử có chép về tướng Nguyên Phàn Tiếp: "Tiếp cùng
Ô Mã Nhi đem quân thủy trở về, bị giặc đón chặn. Triều sông Bạch Đằng xuống,
thuyền Tiếp mắc cạn. Thuyền giặc dồn về nhiều, tên bắn như mưa. Tiếp hết sức
đánh từ giờ mão đến giờ dậu. Tiếp bị thương, rớt xuống nước. Giặc móc lên bắt,
dùng thuốc độc giết".
Bia Lý Thiên Hựu cũng chép: "Tháng
ba, đến cảng Bạch Đằng, người Giao chắn chiến hạm ngang sông để chống cự quân
ta, đến lúc nước triều rút, thuyền không tiến được, quân tan vỡ…". Lý Thiên Hựu
là 1 viên tướng Nguyên cũng tham gia trận Bạch Đằng.
Kết cục
Quân nhà Trần đại thắng, bắt được
hơn 400 chiến thuyền, tướng Đỗ Hành bắt được tướng Nguyên là Tích Lệ Cơ và Ô Mã
Nhi dâng lên Thượng hoàng Trần Thánh Tông. Thượng hoàng đã vui vẻ hậu đãi những
viên bại tướng này. Khoảng hơn 4 vạn tướng sĩ Nguyên Mông đã bị loại ra khỏi
vòng chiến. Tướng Nguyên là Phàn Tiếp bị bắt sống, rồi bị bệnh chết, trong khi
một bại tướng khác là Phạm Nhan thì đã bị Trần Quốc Tuấn cho trảm quyết.Cánh
thủy quân của quân Nguyên hoàn toàn bị tiêu diệt. Chiến thắng vinh quang của
quân Đại Việt trong trận sông Bạch Đằng năm 1288 được xem là một trận đánh
hủy diệt và thủy chiến lớn nhất trong lịch sử kháng chiến của dân tộc
Việt
Nam, và cũng
được xem là thắng lợi tiêu biểu nhất của quân Đại Việt trong ba cuộc kháng chiến
chống quân xâm lược Nguyên-Mông, dẫn đến chấm dứt thắng lợi cho Đại Việt trong
cuộc Chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt lần thứ ba .
Mặc dầu về sau này, "Giao
Chỉ" hãy còn
"ngứa ngáy trong tim Hốt
Tất Liệt", đại
thắng của Quân
đội Đại Việt
trong trận sông Bạch Đằng không chỉ hoàn tất mục đích đập vỡ đoàn binh thuyền
của Ô Mã Nhi, mà còn hoàn toàn phá vỡ âm mưu xâm
lược Đại Việt,
và qua đó Đế
quốc Mông Cổ
không thể nào làm chủ cả Đông
Nam Á.
Di tích bãi cọc
Bạch Đằng
Nằm trên đường trục đường
giao thông từ Hà Nội về thành phố Hạ Long, bãi cọc Bạch Đằng ở thị xã Quảng Yên
thuộc khu di tích lịch sử chiến thắng Bạch Đằng là điểm dừng chân không thể bỏ
qua. Từ ngã tư thị xã Quảng Yên đi về hướng Phà Rừng khoảng 2 km, rẽ trái khoảng
500 m, du khách sẽ đến với bãi cọc Yên Giang, một phần của trận địa cọc Bạch
Đằng năm xưa.
Khu
di tích lịch sử chiến thắng Bạch Đằng
Biển chỉ dẫn vào bãi cọc Yên Giang,
thuộc thị xã Quảng Yên, Quảng
Ninh.
|
Dấu
tích còn sót lại của một cây cọc tại di tích chiến thắng Bạch Đằng ở bãi
cọc Yên Giang.
|
Những dấu tích trong trận đồ năm xưa khi
nước cạn.
|
Ngoài dấu tích bãi cọc ở Yên Giang còn
có bãi cọc Đồng Vạn Muối được giới khảo cổ học nghiên cứu năm
2009.
|
Khoan thăm dò lấy mẫu năm 2013 tại Đồng
Má Ngựa, dấu tích bãi cọc Bạch Đằng thứ
ba.
|
Hai
cây lim cổ thụ giếng rừng trên 700 tuổi là dẫn tích của một cánh rừng cổ ở
khu vực gần sông Bạch Đằng (phường Yên Giang), nơi cung cấp cọc gỗ
cho những trận đánh nổi tiếng năm
xưa.
|
Miếu Vua Bà phường Yên Giang. Tương truyền
rằng trong chuyến đi thị sát địa hình chuẩn bị chiến trường, Trần Hưng Đạo
qua bến đò gặp một cụ bà bán nước đã hỏi thăm vùng đất này. Bà cụ đã cung
cấp cho ông lịch triều con nước, địa thế dòng sông và còn bày cho chiến
thuật hoả công để đánh giặc. Sau khi thắng trận, Trần Hưng Đạo đã quay lại
bến đò tìm bà cụ bán hàng nước thì không thấy nữa, ông đã xin vua Trần
phong sắc cho bà là “Vua Bà” và lập đền thờ tại
đây.
|
Di tích bãi cọc Yên Giang nằm
ở cửa sông Chanh có hình chữ nhật dài khoảng 120 m, chiều rộng khoảng 20 m. Sau
lần khai quật đầu tiên vào năm 1958 và nhiều lần sau đó vào các năm 1969, 1976,
1984, 1988... cho thấy cọc ở đây chủ yếu là gỗ lim, táu dài 2,6 - 2,8 m, đường
kính 20 - 30 cm. Phần cọc được đẽo nhọn dài 0,5 - 1m để cắm thẳng xuống sông với
khoảng cách trung bình 1 m.
Bãi cọc Bạch Đằng thuộc phường Yên
Giang.
|
Tuy ngày nay đa phần các đầu
cọc đã bị mục gẫy, du khách vẫn có thể hiểu thêm về lịch sử của bãi cọc cũng như
nghệ thuật quân sự tài tình của Trần Hưng Đạo qua tấm bia đá dựng ngay gần đó.
Trên bia ghi rõ: "Dựa vào địa thế sông Bạch Đằng (thế kỷ thứ XIII), lòng sông có
nhiều bãi bồi và dải đá ngầm, Trần Hưng Đạo đã cho đóng những bãi cọc ở vị trí
hợp lý tạo thành một trận địa cọc chặn đánh đường rút chạy của giặc Nguyên
Mông".
Cách bãi cọc Yên Giang vài km
là bãi cọc đồng Vạn Muối, nằm ở cửa sông Rút, thuộc phường Nam Hòa được nhân dân
Quảng Yên phát hiện trong quá trình canh tác, đào ao. Sau lần khảo sát và khai
quật năm 2005, cho thấy những cọc gỗ cắm đứng và cắm xiên trong khu vực đồng Vạn
Muối thuộc nhiều loại gỗ được sử dụng cả thân và cành. Đường kính mỗi cọc từ 7 -
10 cm, phần được vạt nhọn chỉ khoảng 25 - 30 cm. Tuy nhiên, mật độ cọc ở đây
được cắm rất dày, phổ biến cách nhau từ 40 - 60 cm, một số cọc chỉ cách nhau từ
10 - 30cm.
Theo các nhà nghiên cứu, đây
là nửa phía Nam của trận địa cọc Bạch Đằng, còn nửa phía Bắc là bãi cọc Yên
Giang. Do giữa hai bãi cọc có một dải cồn đá cao, khi nước triều xuống thuyền
không qua được buộc phải đi vào sát bờ. Vì vậy, Trần Hưng Đạo đã chọn vị trí cắm
cọc ở hai bên cồn đá tạo thành một phòng tuyến hình chữ V bịt chặt lấy họng sông
Bạch Đằng để chặn đường rút lui của quân địch tạo nên chiến thắng vẻ vang của
trận chiến trên sông Bạch Đằng năm 1288.
Khai quật bãi cọc đồng Má Ngựa năm
2010.
|
Cũng trong địa phận phường
Nam Hòa, thị xã Quảng Yên, bãi cọc đồng Má Ngựa đã được phát hiện và tiến hành
khảo sát, khai quật vào năm 2010. Đây là bãi cọc thứ ba thuộc bãi cọc Bạch Đằng
nằm ở cửa sông Kênh, cách bãi cọc đồng Vạn Muối khoảng 1 km về hướng Nam. Bãi
cọc có chiều dài 70 m, rộng 30 m, cắm cọc thuộc nhiều loại gỗ có đường kính từ 6
- 22 cm dày đặc thành dải như một lớp tường thành.
Ba bãi bãi cọc Yên Giang,
Đồng Vạn Muối và Đồng Má Ngựa đã làm thành những bãi chông ngầm lớn, phức tạp,
kín đáo dưới mặt nước khóa chặt đường tháo lui ra biển, giúp tiêu diệt và bắt
sống 600 chiến thuyền với 4 vạn binh tướng quân Nguyên – Mông trong lần thứ ba
chúng xâm lược nước ta năm 1288.
Để khám phá các giá trị lịch
sử, khoa học và quân sự của chiến thắng lịch sử năm 1288, du khách ngoài tham
quan, tìm hiểu bãi cọc Bạch Đằng, có thể ghé thăm các di tích khác như đền Trần
Hưng Đạo, miếu Vua Bà, bến Đò Rừng, đình Yên Giang, đền Trung Cốc, đình Trung
Bản thuộc thị xã Quảng Yên và đình Đền Công - miếu Cu Linh thuộc thành phố Uông
Bí, tỉnh Quảng Ninh đã được xếp hạng Di tích quốc gia đặc
biệt.
No comments:
Post a Comment