; }

QUỐC HIỆU VIỆT NAM THEO DÒNG LỊCH SỬ

Cali Today News – Quốc hiệu của nước ta (Việt Nam), với thời gian gần năm nghìn năm (4.896 năm = 2879 TCN+2017 SCN), soạn giả đã tham khảo qua các sử liệu, những Quốc hiệu đã ghi:
 
 1- Xích Quỷ: Theo cổ sử, Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngũ Lĩnh (nay Hồ Nam, nước Tàu) kết hôn với con gái bà Vụ Tiên, sinh một người con trai tư chất thông minh đặt tên là Lộc Tục. Đế Minh truyền ngôi cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc. Và phong Lộc Tục làm vua phương Nam xưng là Kinh Dương Vương vào năm 2879 (TCN), quốc hiệu là Xích Quỷ, lãnh thổ rộng lớn, phía bắc tới sông Dương Tử, phía nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), đông giáp Đông Hải, tây giáp Ba Thục (nay là tỉnh Tứ Xuyên nước Tàu). Dân số vào thời Văn Lang được ước tính khoảng 500.000 người. Kinh Dương Vương là thủy tổ của người Việt. 
 
 2- Văn Lang: Văn Lang là quốc hiệu thời Hùng Vương, đóng đô ở Phong Châu nay thuộc tỉnh Phú Thọ, truyền được 2.622 năm (2879 TCN-258 TCN), gồm có: “18 Chi với 47 Đời Vua”. Một đời vua trị vì trung bình 55 năm là đúng (2.622/47), không thể một đời vua trị vì 145 năm (2.622/18). Lãnh thổ Văn Lang: Đông giáp biển Nam Hải, tây đến Ba Thục, bắc đến Động Đình hồ, nam giáp nước Hồ Tôn (tức Chiêm Thành).
 
 3- Âu Lạc: Năm 221 (TCN), Tần Thuỷ Hoàng cử quân xâm lược nước ta. Thục Phán đã liên minh được các bộ lạc Âu Việt, lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Tần. Năm 208 (TCN), đánh đuổi được quân Tần ra khỏi bờ cõi. Thục Phán lên ngôi làm vua, đế hiệu là An Dương Vương. Nước Âu Lạc được hình thành với sự sáp nhập bởi 2 lãnh thổ Văn Lang (Lạc Việt) và Âu Việt. Địa bàn chính của nước ta khi ấy nằm trên ba quận: Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam. Nước Âu Lạc tồn tại 50 năm (257 TCN-207 TCN). Dân số cuối thời Âu Lạc, vào năm 210 (TCN) có khoảng 600.000 người.
 
 4- Nam Việt: Quốc hiệu Nam Việt vào thời nhà Triệu trị vì là 96 năm (207-111 TCN), lãnh thổ Nam Việt gồm các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây (nay thuộc nước Tàu) và miền Bắc Việt Nam ngày nay. Dân số thời nhà Triệu có khoảng 670.000 người. Kinh đô ở thành Phiên Ngung ở Quảng Châu (nay thuộc Quảng Đông nước Tàu). Có người nêu rằng Triệu Vũ Vương tổ tiên ở châu Chân Định (Tàu) nên không chính thống?! Nhưng khi xưa người Lạc Việt sống ở phía Nam bờ sông Dương Tử (nay đất Tàu) sau đấy bị người Hoa Hạ xâm chiếm. Ngoài ra, thời Triệu Đà các quý tộc bản xứ vẫn được giữ thái ấp. Thế nên, nhà Triệu cũng là chính thống vậy. Sau khi quân Hán chiếm được Nam Việt đổi ra Bộ Giao Chỉ. 
 
 5- Vạn Xuân: Là quốc hiệu nhà Tiền Lý (Lý Nam Đế: 503-548) và Triệu Việt Vương (544-602 SCN). Dân số vào năm 544, khoảng 1.000.000 người. Sau đấy bị nhà Tùy xâm lược.
 
 6- Đại Cồ Việt: Đinh Tiên Hoàng (968-979) đặt quốc hiệu Đại Cồ Việt vào năm 968, kế đến nhà Tiền Lê (980-1009). Quốc hiệu này tồn tại 86 năm (968-1054). Dân số nước Đại Cồ Việt vào năm 968 có khoảng 2.000.000 người.
 
 7- Đại Việt: Năm 1054, Lý Thánh Tông lên ngôi lấy quốc hiệu là Đại Việt, dân số nước ta lúc ấy khoảng 2.200.000 người. Lãnh thổ gồm Bắc Việt hiện nay và một phần nhỏ của tỉnh Quảng Tây (nước Tàu), phía nam tới Hà Tĩnh ngày nay. Quốc hiệu Đại Việt không liên tục (gián đoạn 7 năm thời nhà Hồ và 20 năm thời thuộc Minh, cộng lại 27 năm). Cuộc khởi nghĩa chống quân Minh của Lê Lợi, sau 10 năm (1418-1428) chiến đấu được toàn thắng, lấy lại quốc hiệu Đại Việt. Nước Đại Việt đã qua các triều đại: Nhà Lý: 215 năm (1010-1225), Nhà Trần: 275 năm (1225-1400), Nhà Hậu Lê: 100 năm (1428-1527), Nhà Mạc: 65 năm (1527-1592), Nhà Lê Trung Hưng: 255 năm (1533-1788), Nhà Tây Sơn: 14 năm (1788-1802). Quốc hiệu Đại Việt tồn tại 723 năm (1804- 1054-27). Đến năm 1804 lấy quốc hiệu là Việt Nam.
 
 8- Đại Ngu: Khi Hồ Quý Ly làm vua, lấy quốc hiệu là Đại Ngu, quốc hiệu này tồn tại 7 năm (1400-1407). Khi Lê Lợi lên ngôi, quốc hiệu Đại Việt được dùng lại. Và Dân số Đại Việt thời Lê Thánh Tông (1490) khoảng 4.000.000 người.
 
 9- Việt Nam: Năm 1804, vua Gia Long cử Lê Quang Định đi sứ sang Tàu xin lấy quốc hiệu là Nam Việt, chữ “Nam” là “An Nam” ở phương Nam và “Việt” có ý là “Việt Thường”. Nhưng quốc hiệu Nam Việt lại trùng với Nam Việt thời nhà Triệu, gồm cả Quảng Đông và Quảng Tây nước Tàu. Nhà Thanh ngại lẫn lộn, đổi ngược lại là Việt Nam. Lãnh thổ Việt Nam phía bắc giáp ải Nam Quan, phía nam giáp mũi Cà Mau. Dân số Việt Nam vào năm 1804, có khoảng 5.780.000 người.
     Quốc hiệu Việt Nam chính thức xuất hiện vào năm 1804, nhưng tham khảo qua một số sử liệu và tài liệu, tên gọi Việt Nam đã xuất hiện nhiều lần trước đấy khá lâu. Trong cuốn Dư Địa Chí của Nguyễn Trãi (1380-1442) có nói đến hai chữ “Việt Nam”. Tác phẩm của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), ngay lời mở đầu tập Trình tiên sinh quốc ngữ đã có câu: “Việt Nam khởi tổ xây nền”. Ngoài ra, bia Thủy Môn Đình ở biên giới Lạng Sơn, do Đô đốc phủ Lạng Sơn là Nguyễn Đình Lộc soạn năm 1670, thời vua Lê chúa Trịnh. Dòng đầu tiên của bài minh nơi bia đã viết “Việt Nam hầu thiệt. Trấn Bắc ải quan”, có nghĩa là: “Đây là cửa ngõ yết hầu của nước Việt Nam, là ải quan trấn giữ phương Bắc”.  
 
 10- Đại Nam: Năm 1820, vua Minh Mạng lên ngôi đổi quốc hiệu Việt Nam thành Đại Nam, ngụ ý một nước Nam rộng lớn, nhà Thanh không tán thành. Dù vậy, đến ngày 15-2-1839, vua Minh Mạng vẫn chính thức công bố quốc hiệu là Đại Nam. Dân số Việt Nam vào năm 1840 có khoảng 7.764.000 người. Quốc hiệu Đại Nam tồn tại đến năm 1945.
 
 11- Đế quốc Việt Nam:  Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp. Sau đấy, Hoàng đế Bảo Đại tuyên bố độc lập, xé hòa ước Patennôtre (1884) đã ký với Pháp, mời học giả Trần Trọng Kim lập chính phủ “Quân chủ lập hiến” ngày 17-4-1945, tồn tại chỉ được 5 tháng (17-4-1945 đến 25-8-1945). Việt Minh cướp chính quyền, vua Bảo Đại thoái vị ngày 25-8-1945, Đế Quốc Việt Nam chấm dứt. Dù thời gian ngắn ngủi, Chính phủ Trần Trọng Kim đã làm được nhiều việc hữu ích: Thả hàng ngàn tù nhân chính trị của các đảng phái, trong đấy có đảng viên cộng sản đã bị Pháp giam giữ. Cứu đói dân miền Bắc “Nạn đói năm Ất Dậu: 1945”. Một việc làm rất ý nghĩa do học giả Hoàng Xuân Hãn đề ra: Thay chương trình giáo dục chữ Hán và Pháp qua Quốc ngữ. Từ đấy, chương trình giáo dục bằng Việt ngữ được dùng sau này. 
 
12- Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: VNDCCH là tên gọi của nhà nước miền Bắc Việt Nam, từ năm 1945-1976. 
 
 13- Quốc gia Việt Nam: QGVN là danh xưng của toàn nước Việt Nam, từ khi Tổng thống Pháp Vincent Auriol và Cựu hoàng Bảo Đại ký Hiệp ước Elysée ngày 8-3-1949. Danh xưng Quốc gia Việt Nam tồn tại trong 6 năm (1949-1955). 
 
 14- Việt Nam Cộng hòa: Năm 1955, Ngô Đình Diệm phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, giải tán Quốc gia Việt Nam, thành lập chính thể Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) tại miền Nam Việt Nam. Dân số Việt Nam vào năm 1962, có khoảng 31.275.000 người (miền Bắc: 17.000.000 và miền Nam: 14.275.000). Việt Nam Cộng hòa sụp đổ vào năm 1975. 
 
 15- Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam: Ngày 2-7-1976, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà đổi tên thành Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam trên toàn quốc cho đến nay (2017). Dân số Việt Nam hiện nay (2017) khoảng 95 triệu người.
 
 *- Giao Chỉ đổi thành Giao Châu (Năm 203 SCN): Sau khi Mã Viện đánh thắng Trưng Vương, đất Giao Chỉ thuộc về nhà Đông Hán, phủ trị đóng ở Mê Linh, đến cuối thời Đông Hán dời về Long Biên. Năm Quý Mùi (203), “Sĩ Nhiếp xin đổi tên Giao Chỉ thành Giao Châu, vua Hán chấp thuận.
 
 *- An Nam: Tên gọi là An Nam có nguồn gốc từ thời Bắc thuộc (Việt Nam bị người phương Bắc/Tàu đô hộ), nhà Đường đặt vùng đất miền Bắc Việt Nam ngày nay là An Nam đô hộ phủ (673-757 và 768-866). Và danh hiệu An Nam Quốc vương xuất hiện từ năm 1164, thời vua Lý Anh Tông, do sứ thần Đại Việt là Doãn Tử Tư yêu cầu vua Tống. Từ đó, người Tàu thường gọi nước ta là An Nam. Trước năm 1945, người châu Âu (thời Pháp thuộc), người Pháp gọi Annam để chỉ người Việt cho cả 3 miền: Bắc Kỳ (Tonkin), Trung Kỳ (Annam, vì có triều đình Huế) và Nam Kỳ (Cochinchine).
 
     Cảm tưởng: QUỐC HIỆU VIỆT NAM
 
     QUỐC gia bền vững, vẹn toàn mong
     HIỆU chỉnh sửa sang, tha thiết lòng
     VIỆT tộc, giống nòi lưu luyến mến
     NAM phương, bờ cõi giữ gìn trông.
  
Nguyễn Lộc Yên 

No comments:

Post a Comment