; }

TIỀN PHÁT HÀNH THỜI VIỆT NAM CỘNG HÒA

VIỆT NAM CỘNG HÒA tiền thân kế thừa từ QUỐC GIA VIỆT NAM do Quốc trưởng BẢO ĐẠI đứng đầu từ năm 1949-1955. 

Ngày 4 tháng 6 năm 1954, Pháp ký hiệp định trao trả độc lập cho Việt Nam. Bản hiệp ước do thủ tướng Nguyễn Phúc Bửu Lộc của chính phủ Bảo Đại và thủ tướng Pháp Joseph Laniel

 ký ghi nội dung điều khoản 3: Pháp cam kết trao trả lại cho Chính phủ Việt Nam các thẩm quyền và công vụ mà Pháp còn phụ trách. Trong đó, họ trao trả lại quyền tự chủ tiền tệ, tức giải tán Viện phát hành tiền tệ Đông Dương của mình để trao trả lại quyền phát hành tiền cho Việt Nam.


Ngày 21 tháng 12 năm 1954, Quốc trưởng Bảo Đại ký dụ số 18 thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam và Viện hối đoái riêng. Tuy nhiên trong thời gian đầu, tiền Việt Nam vẫn nằm trong khu vực đồng franc có tỉ giá 1 đồng Việt bằng 10 đồng franc.

Ngày 1 tháng 1 năm 1955, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam chính thức hoạt động tại số 17 Bến Chương Dương, Sài Gòn. Đồng bạc Đông Dương (piastres) được thay thế bằng đồng bạc Việt Nam. Trong những hoạt động đầu tiên là thu hồi tiền tệ do Viện Phát hành Quốc gia Việt, Miên, Lào (Institut d'Emission des Etats du Cambodge, du Laos et du Viet-Nam) cho lưu hành, để thay bằng tiền mới của Ngân hàng Quốc gia.

Ngày 17 tháng 12 năm 1955, tiền Việt chính thức tách ra khỏi các thỏa ước tiền tệ với Pháp trước đó bằng việc Thủ tướng Ngô Đình Diệm ký dụ số 15, bắt buộc tất cả hoạt động tiền tệ đều nằm dưới quyền kiểm soát của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam. Không còn nằm trong khu vực tiền Pháp, đồng Việt Nam được ấn định tỉ giá theo đôla Mỹ, thời điểm này 35 đồng bằng 1 USD, 98 đồng bằng một bảng Anh và 0,1 đồng bằng 1 franc.

 Đơn vị “đồng” là đơn vị tiền tệ đã có từ thời Việt Nam Cộng Hòa, được lưu hành từ năm 1953 đến ngày 02/05/1978. Dưới thời Việt Nam Cộng Hòa tiền được phát hành dưới hai hình thức là tiền giấy và đồng kim loại (được gọi là Su và Xu). Tiền được phát hành không đồng bộ mà ra đời rải rác qua từng giai đoạn theo từng giá trị khác nhau. Nhìn chung có thể chia ra thành 4 giai đoạn: 

            

– Giai đoạn 1: 1954 – 1955

– Giai đoạn 2: 1955 – 1963

– Giai đoạn 3: 1964 – 1966

– Giai đoạn 4: 1966 – 1975 

          Dưới đây là bộ sưu tập tiền được lưu hành trong giai đoạn chính quyền Việt Nam Cộng Hòa còn tồn tại. Cũng có một số mệnh giá đã được in hoặc đúc nhưng chưa kịp lưu hành thì chế độ Việt Nam Cộng Hòa đã sụp đổ. 

Đồng bạc nầy chưa hề phát hành dù đã in rồi





Giấy bạc 5 đồng, tên thường gọi là Cày Ruộng, phát hành năm 1955. Nhà in American Banknote Company


Tên thường gọi ở đây được gọi theo tên gọi mà giới sưu tập tiền đã đặt cho những mệnh giá này.


Giấy bạc 5 đồng, tên thường gọi là Con Phụng, phát hành ngày 25.11.1955. 


Giấy bạc 2 đồng, tên thường gọi là Chiếc buồm, phát hành 1955. Nhà in American Banknote Company 

Giấy bạc 1 đồng, tên thường gọi là Đập Lúa, phát hành năm 1955

 Giấy bạc 50 đồng, tên thường gọi là Tím Chăи Trâu, phát hành năm 1956. Nhà in American Banknote Company (Mỹ)


Giấy bạc 20 đồng, tên thường gọi Nâu, phát hành 1962. Nhà in American Banknote Company (Mỹ)
 Giấy bạc 10 đồng, tên thường gọi Đỏ Lăиg Ông, phát hành 1962. Nhà in American Banknote Company

Giấy bạc 1 đồng, tên thường gọi là Sở Thú. Phát hành ngày 25.11.1955. Nhà in Bradbury Wilkinson (Anh Quốc)

Giấy bạc 200 đồng, tên thường gọi là Bụi Trúc Tím. Phát hành năm 1958. Nhà in American Banknote Company

Giấy bạc 500 đồng, tên thường gọi là Dinh Độc Lập. Phát hành năm 1962. Thomas De La Rue (Anh Quốc)

Tờ giấy bạc 10 đồng, hay còn được gọi là Cá Hóa Long, phát hành năm 1955. Được in bởi nhà in Thomas De La Rue (Anh Quốc )



Giấy bạc 100 đồng, tên thường gọi Máy Cày, phát hành năm 1955. Nhà in American Banknote Company (Mỹ)

Giấy bạc 200 đồng. Tên thường gọi là Lính Bồng Súng. Phát hành năm 1955. Nhà in American Banknote Company

Giấy bạc 500 đồng.Tên thường gọi trong giới sưu tầm: Thiên Mụ. Năm phát hành: 1955. Nhà in: American Banknote Company (Mỹ).


     








Tờ bạc ông bà già được in năm 1955 là một trong những mệnh giá chưa được phát hành vào thời kỳ này.













Giấy bạc 500 đồng – Dinh Độc Lập. Giấy bạc 20 đồng – Nâu. Giấy bạc 10 đồng – Đỏ Lăиg Ông. Phát hành 1962.

    Giấy bạc 500 đồng – Viện Bảo Tàng, 1964. Giấy bạc 20 đồng – Cá hoa văи. Giấy bạc 1 đồng – Máy cày

           Cả hai đều được phát hành năm 1966. Nhà in Bradbury Wilkinson



        Giấy bạc 500 đồng, tên thường gọi là Trần Hưng Đạo. Giấy bạc 200 đồng, tên thường gọi là Nguyễn Huệ. Giấy bạc 100 đồng, tên thường gọi là Lê Văи Duyệt. Phát hành 1966.

          Giấy bạc 100 đồng, 1970. Giấy bạc 50 đồng, 1969. Giấy bạc 20 đồng, 1969.




  Giấy bạc 1000 đồng, phát hành năm 1971. Giấy bạc 500 đồng. Giấy bạc 200 đồng. Tờ 500 và 200 phát hành năm 1970

       Phía trên là một trong những bộ tiền được yêu thích nhất do thể hiện được niềm tự hào dân tộc.


Bộ tiền giấy miền Nam phát hành năm 1972 này được bán trên мạиɢ cho những người sưu tầm tiền Việt


















Giấy bạc 1.000 đồng, tên thường gọi trong giới sưu tầm là Con Voi. Giấy bạc 500 đồng, tên thường gọi Con Cọp. Cả hai đều được phát hành năm 1972. Nhà in Thomas De La Rue (Anh Quốc)













Giấy bạc 200 đồng – Con nai. Giấy bạc 100 đồng – Con trâu.  Giấy bạc 50 đồng – Con ngựa. Phát hành năm 1972. 
      Nhà in Bradbury Wilkinson (Anh Quốc)




 Giấy bạc mệnh giá 1000 đồng, phát hành đầu năm 1975








                     Giấy bạc mệnh giá 10000 đồng  5000 đồng


Đây là hai tờ giấy bạc với mệnh giá lớn là 10.000 đồng và 5.000 đồng, là những đồng tiền phát hành sau cùng của Ngân hàng Quốc Gia Việt Nam vào đầu năm 1975. Rất ít người thấy được và càng ít người có được những đồng tiền này


Tiếp đến là hình ảnh những đồng tiền kim loại được đúc dưới thời Việt Nam Cộng Hòa. Lúc này do chữ quốc ngữ chưa thống nhất trong cách gọi nên đồng tiền hay được gọi là “Su” hoặc “Xu” đều đúng cнíɴн tả.

           Đồng tiền Quốc gia Việt Nam 1953: 10 Su – 20 Su -50 Xu

         Đồng 50 Xu phát hành thời Tổng thống Ngô Đình Diệm, trong hai đợt 1960 và 1963 với hai cách ghi mệnh giá khác nhau “50 SU” và “50 XU”

Tiền 1 đồng phát hành năm 1960

Tiền 1 đồng phát hành năm 1964

Tiền 5 đồng phát hành năm 1966
Tiền 10 đồng và 20 đồng phát hành năm 1968

Tiền 10 đồng phát hành năm 1970

Tiền 1 đồng và 5 đồng phát hành năm 1971

Tiền 10 đồng phát hành năm 1974
Tiền 50 đồng phát hành năm 1975



Tích sản năm 1975

Khi chính thể Việt Nam Cộng hòa tan vỡ thì trong kho hầm sắt của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam có 1.234 thoi vàng và một số tiền cổ bằng vàng. Tổng cộng là hơn 16 tấn (Về sau, lượng vàng này được đưa qua Liên Xô bán cùng với các loại vàng có trong nước gồm tất cả 40 tấn để trả nợ và giải quyết các nhu cầu khó khăn của thời bao cấp) và 5,7 tấn vàng gửi tại ngân hàng Thụy Sĩ.

Ngoài ra, một số vàng khá lớn và đá quý do các tư nhân ký gửi vẫn còn ở ngân hàng. Theo cuốn Lịch sử ngân hàng Việt Nam, toàn bộ số tiền mặt của Việt Nam Cộng hòa thu được hơn 150 tỉ đồng. Trong đó, tiền các loại thu được trong kho Ngân hàng Quốc gia 125 tỉ đồng, gồm cả những tờ mệnh giá 1.000 đồng in hình các con thú mới chuẩn bị phát hành vẫn đang niêm phong dưới tầng hầm Ngân hàng Quốc gia. Tiền quỹ lưu dụng 7,8 tỉ đồng và tiền quỹ của các ngân hàng tư nhân trên 19 tỉ đồng.

Ngân hàng Quốc gia Việt Nam còn có nhiều trương mục ký thác dự trữ ngoại tệ ở ngoại quốc như Ngân hàng Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ ở hai chi nhánh New York và San Francisco; Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (Bank of International Settlements, BIS) ở Basel, Thụy Sĩ; Bank of America và Citibank. Số ngoại tệ này phần lớn đầu tư vào công khố phiếu. Tổng dự trữ ngoại hối là 252,2 triệu USD, số dư có 138.798.820 USD do Ngân hàng Quốc gia Việt Nam và 26 ngân hàng thương mại gửi ở nước ngoài mà chủ yếu là Mỹ và Thụy Sĩ.

Tích sản của Việt Nam Cộng hòa ký thác ở Hoa Kỳ nói chung lập tức bị niêm phong, chính sách cấm vận của Mỹ đã phong tỏa hơn 93 triệu USD. Số ngoại hối còn lại cũng chưa thể rút ngay được, trong khi lượng ngoại tệ bằng tiền mặt tiếp quản được cả hệ thống ngân hàng Sài Gòn chỉ hơn 201.000 USD.

Sau này, số ngoại tệ khả dụng của Việt Nam Cộng hòa gửi ở nước ngoài cũng được Vietcombank tiến hành các thủ tục rút dần về nước để giải quyết tình trạng khan hiếm ngoại tệ nghiêm trọng. Riêng hơn 93 triệu USD bị Mỹ phong tỏa cũng được thu hồi sau khi bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Theo ông Nguyễn Duy Lộ - nguyên phó tổng giám đốc Vietcombank, Việt Nam không chỉ thu hồi được tất cả số tiền gốc ngoại tệ ký gửi ở nước ngoài mà còn lấy được cả lãi với tổng số lên đến gần 396 triệu USD.

No comments:

Post a Comment