300 lính Úc đơn vị tối mật 547 chờ huy chương
(05/08/2012)
Trong khi bản tin ABC của Úc
viết về Ðơn Vị 547 Signal Troop, một đơn vị bí mật của quân đội Úc tại
VN chuyên nghe lén băng tần truyền tin của CSVN, hiện đang chờ lãnh huy
chương... bản tin BBC tóm lược một bài trên báo Wall Street Journal giới
thiệu cuốn sách “Black April” của nhà nghiên cứu George Veith trong đó
cho thấy quân đội VNCH đã chiến đấu rất mực hào hùng bất kể các phương
tiện chiến đấu đã bị Quốc Hội Mỹ cắt bỏ trong các năm cuối Cuộc Chiến
VN.
Bản tin ABC từ Úc nói rằng đơn vị nghe lén 547 Signal Troop trong lực
lượng chiến binh Úc Châu đóng ở Núi Ðất, và trên phi cơ nhẹ thì bay với
thiết bị nghe lén tinh vi... là một công tác tối mật, đã cứu nhiều sinh
mạng lính Úc, và ngay bây giờ cũng còn trong hồ sơ tối mật. Lúc đó,
truyền tin qua sóng là chữ Morse được mã hóa.
Dù vậy, ABC nói nhiều phần công tác nghe lén này đã giải mật, thiết
bị nghe lén đang được Úc trưng bày ở nhiều nơi, kể cả Ðài Tưởng Niệm
chiến Tranh, “và cả ở các bảo tàng tại Mỹ,” theo lời Thiếu Tá Peter
Murray, người từng chỉ huy đơn vị bí mật này.
Trong suốt thời Chiến Tranh VN, có khoảng 200 tới 300 lính Úc trong đơn vị này, và bây giờ đang chờ xét lãnh huy chương.
Trong khi đó, cuốn sách “Black April” của George Veith, dày 587
trang, của nhà xuất bản Encounter, được nhà phê bình Mark Moyar giới
thiệu trên báo Wall Street Journal, nói rằng truyền thông thiên tả Mỹ đã
không chịu nhìn thấy rằng quân đội VNCH đã chiến đấu rất anh hùng, ngay
cả sau khi quân đội Mỹ đã rút đi và viện trợ bị cắt bỏ.
Trong khi báo Wall Street Journal(WSJ) đặt tựa đề bài viết là
“Abandoning Vietnam” (Bỏ Rơi VN), BBC dịch thẳng ra tiếng Việt theo tựa
đề sách là “Tháng Tư Ðen”.
Bài viết BBC lược theo WSJ sẽ trích đoạn như sau:
... Mang tên 'Tháng Tư Ðen', sách dày gần 600 trang của tác giả
George Veith vẽ lại bức tranh hãi hùng của những trận chiến cuối cùng
với sự thiệt mạng của 100,000 lính Nam Việt Nam.
Hà Nội ước tính họ mất 6,000 bộ đội chỉ trong vài ngày cuối Tháng Tư
năm 1975, theo điểm sách 'Tháng Tư Ðen' trên báo Wall Street Journal của
chuyên gia tư vấn quốc phòng Mark Moyar, người cũng là tác giả cuốn
'Thắng lợi Bỏ lỡ: Cuộc chiến Việt Nam, 1954-1965'.
Moyar đánh giá 'Tháng Tư Ðen' đã xuất sắc ‘điền vào khoảng trống lịch
sử của giai đoạn 1973-1975 khi Hoa Kỳ đã rút quân và cuộc chiến Việt
Nam không còn là mối quan tâm hàng đầu của các phóng viên Hoa Kỳ, khiến
các tài liệu tham chiếu bằng tiếng Anh để viết về giai đoạn này không có
nhiều.
Tác giả Veith đã dùng tới các sử liệu từ phía Việt Nam bao gồm của cả
miền Bắc và các cuộc phỏng vấn của ông với các tướng lĩnh Nam Việt Nam
trong quá trình nghiên cứu để viết sách.
Ông Veith nhận xét thất bại trong Tháng Tư năm 1975 không phải do sự
lúng túng của chính quyền miền Nam và càng không phải do sự yếu kém trên
chiến trường của lực lượng Việt Nam Cộng Hòa.
Theo ông, lực lượng Nam Việt Nam bao gồm nhiều chỉ huy từng đẩy lùi
cuộc tấn công của miền Bắc hồi năm 1972 và đã có những trận đánh thành
công nhưng ít được biết tới trong giai đoạn 1973-1975.
Một số trận đánh trong đó quân miền Nam kháng cự kiên cường được nhắc
tới xảy ra trong Tháng Ba và Tháng Tư năm 1975 như các trận Mỏ Tàu và
Núi Bồng ở mạn Bắc, Bến Cầu và Chơn Thành ở miền Trung cũng như trận Cần
Thơ và Long An ở miền Nam.
‘Giết hại dân thường’
Theo bài điểm sách của chuyên gia Moyar, “[Ông] Veith đã minh chứng
thuyết phục rằng lý do gốc rễ của sự thất bại ở miền Nam là việc cắt
giảm trợ giúp của Quốc Hội Hoa Kỳ trong năm 1974 khi viện trợ quân sự
giảm gần một nửa”.
“Khi cuộc tấn công của quân Bắc Việt bắt đầu trong Tháng Ba năm 1975,
sự thiếu hụt nhiên liệu máy bay và phụ tùng không cho phép quân đội chở
lính tiếp viện bằng đường không nhằm củng cố biên giới miền Tây trải
dài 900 dặm (gần 1.500km).”
“Bởi vậy Bắc Việt được tự do để tập trung các cuộc tấn công với số quân lớn vào các thành phố và thị trấn trọng yếu”.
Ông Veith nói sự thiếu hụt không quân cũng làm cho miền Nam không thể
cho máy bay ném bom lực lượng miền Bắc ngay cả khi họ biết những nơi
đối thủ tập trung đông quân.
Ngoài ra việc dân thường di tản với số lượng lớn cũng ảnh hưởng đến khả năng triển khai và di chuyển quân của Nam Việt Nam.
Ông Veith nói “việc Bắc Việt Nam giết hại những người không cầm súng ở
Huế năm 1968 và dọc Quốc lộ 1 năm 1972 khiến người dân phát hoảng và họ
đã tràn ra các ngả đường khi quân miền Nam rút đi.
Việc tắc nghẽn đường và cầu khi dân thường di tản làm cho một số đơn
vị chiến đấu của VNCH không rút kịp và bị lực lượng miền Bắc tiêu
diệt...”
Ðiểm đặc biệt trong bài báo WSJ được BBC dịch là tuyến phòng thủ cuối
cùng ở Sài Gòn, “...Nam Việt Nam có tới hơn 760,000 binh sĩ nhưng chỉ
tập hợp được 110,000 ở Sài Gòn trong trận đánh cuối cùng.”
Bài báo WSJ ghi rằng lúc đó quân Bắc Việt đã mang 350,000 chiến binh
vào và được viện trợ đầy đủ nhờ chuyển Ðường Mòn Hồ Chí Minh thành xa lộ
và gắn ống dẫn dầu dọc theo đường này.
BBC kể lại:
“Trong phần kết thúc bài điểm cuốn 'Tháng Tư Ðen', chuyên gia quốc
phòng Moyar nói cuốn sách là lời nhắc nhở Hoa Kỳ về cái giá phải trả
bằng nhân mạng khi rời bỏ một đồng minh.
Ông nói 100,000 lính Nam Việt Nam, những người từng sát cánh với Hoa
Kỳ trong các trận đánh cuối cùng, đã bỏ mạng, bị hành quyết tức thì hay
chết vì bị hành hạ trong các trại ‘cải tạo’ khổng lồ.
Hơn nửa triệu người Nam Việt Nam cũng bỏ mạng trên biển khi bỏ trốn chế độ cộng sản.”
Bài trên WSJ nói, quân Bắc Việt trong những ngày cuối Tháng Tư Ðen đã bị giết 6,000 bộ đội.
nguồn : http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=150651&zoneid=36
No comments:
Post a Comment