PHẠM TÍN AN NINH
Có
một dạo, đi đâu tôi cũng nghe thiên hạ hát bài Con Chim Đa Đa, “sao
không lấy chồng gần mà đi lấy chồng xa..” rồi đến bài Chị Tôi, “thế là
chị ơi rụng bông hoa gạo”. Đúng như người ta nói, Thơ và Nhạc có ngôn
ngữ riêng của nó. Một người không có nhiều chữ nghĩa như tôi, nhiều khi
say mê hát một bài hát mà sau đó suy nghĩ mãi vẫn không hiểu rõ ngọn
ngành, ý nghĩa một vài câu. Trong bài Chị Tôi, tôi cũng rất ư là lờ mờ
cái sự kiện.. rụng bông hoa gạo..và trời cho làm thơ.. này lắm. Dù vậy
tôi vẫn thấy bản nhạc phổ từ một bài thơ chỉ vỏn vẹn mấy câu này, khá
hay. Mà ngay đến cái sự hay này tôi cũng mơ hồ, không biết có đúng là
tôi biết thưởng thức thơ nhạc không, hay là chỉ vì có sự đồng cảm mà tôi
thấy lòng mình xúc động. Bởi vì mỗi lần nghe ai đó hát bản nhạc Chị
Tôi, tôi lại da diết nhớ đến bà Cô Út của tôi.
Từ
lúc chưa tròn ba tuổi, tôi lớn lên trong cái bất hạnh của một người
chưa hề có “bông hồng cài áo”. Mẹ tôi mất quá sớm, đến nổi tôi không bao
giờ hình dung được khuôn mặt hiền từ phúc hậu của bà như lời cha tôi kể
lại. Nỗi bất hạnh đó lại càng lớn hơn, khi tôi không có một bà chị nào
để được dịp nhìn dung nhan Chị mà mơ tưởng đến bóng hình của Mẹ. Ba tôi
đang dạy học ở trường Pháp Việt thì bị Việt Minh đưa ra liên khu năm làm
công tác “xóa nạn mù chữ”. Khi lớn lên một chút, bắt đầu nhận hiểu được
đôi ba điều quanh mình, tôi chỉ biết là hai anh em tôi lớn lên ở nhà
ông bà nội, và trong vòng tay yêu thương cùng giọng hát ru hời của bà Cô
Út.
Cô út tôi lớn hơn tôi hơn một con giáp. Ở
nhà quê nhưng bà có cái tên nghe rất lạ: Phạm Thị Mẫu Đơn. Cho mãi đến
lúc đi học tôi mới biết được cái tên này, vì mọi người đều gọi cô là con
Út hay cô Út. Sau này tôi hỏi ba tôi về cái tên trong giấy tờ của Cô,
được ông giải thích: Sự thực thì tên trong acte de naissance (khai sanh
hồi thời Pháp thuộc) của Cô út là Pham Thi Mau Dan (Phạm thị Mậu Dần),
nhưng khi Cô tôi lớn lên và có chút nhan sắc, thì ông bà nội lại lo cho
cái tuổi Dần cao số của Cô, nên khi có lệnh làm bản thế vì khai sanh
tiếng Việt, ông bảo ba tôi xuống Huyện, nhờ ông anh họ làm chánh lục sự,
sửa tên cô tôi thành Mẫu Đơn. Mang tên một loài hoa mà suốt cả một đời
cô tôi không biết đó là loại hoa gì, chỉ nghe thiên hạ bảo loài hoa này
đẹp lắm, thế thôi.
Có một điều chắc chắn là khi cô sinh ra
Trời đã không “cho làm thơ”, vậy mà suốt cả một đời Cô vẫn bị “vấn vương
với sợi tơ trời, tình riêng bỏ chợ tình người đa đoan”. Mà khổ thay,
thằng cháu của Cô cũng dốt nát, chứ phải có tài năng một chút thì hôm
nay nó cũng viết một bản nhạc hay chí ít cũng làm được mấy câu thơ để ca
ngợi Cô. Vì so với người chị trong mấy bản nhạc Chị Tôi, bà Cô của tôi
coi bộ còn thánh thiện và tội nghiệp hơn nhiều lắm.
Cô lo lắng chăm sóc hai anh em tôi không
thua bất cứ một bà mẹ mẫu mực nào trên thế gian này. Lòng Cô lúc nào
cũng ” bao la như biển Thái Bình rạt rào”, lời của cô lúc nào cũng “tha
thiết như dòng suối hiền ngọt ngào” mà ông nhạc sĩ Y Vân đã từng ngợi
ca, vinh danh người mẹ. Cô cũng là cô giáo vỡ lòng, dạy tôi hai tiếng i
tờ, những câu tục ngữ ca dao. Lớn lên một chút, tôi được Cô ngồi bên
cạnh dạy đọc truyện Chàng Nhái Kiển Tiên, Thạch Sanh Lý Thông, Phạm Công
Cúc Hoa cho bà Nội tôi nghe mỗi tối. Mùa hè, tôi mê đá dế, Cô dẫn tôi
ra trước hồ sen tìm bắt những con dế mun mà mỗi trưa Cô không ngủ, ngồi
rình để nghe nó gáy từ chỗ nào. Thấy bọn trẻ hàng xóm thả diều, Cô cũng
mò mẫm cả một ngày làm cho tôi cái diều to nhất. Tôi mê nuôi chim, Cô đi
khắp nơi tìm mua cho tôi hai con chim keo màu xanh mướt và năn nỉ ông
chú tôi làm cho tôi cái lồng thật đẹp. Những lần bị “ấm đầu”, tôi tha hồ
nũng nịu, làm tình làm tội Cô tôi. Cô ngồi suốt bên cạnh, đắp lên trán
tôi một cái khăn ướt, nấu cháo cá bỏ nhiều tiêu cho tôi ăn để “tháo mồ
hôi”. Nghe nói Cô cũng ham học lắm, định xin ông bà nội cho học xong cái
bằng primaire thì theo ông chú tôi đi dạy học mấy lớp nhỏ trường làng,
Nhưng rồi mẹ tôi bất ngờ qua đời, bỏ lại hai anh em tôi. Cô đành phải
nghỉ học ở nhà để chăm sóc hai thằng cháu dại, một đứa bốn tuổi và một
đứa vừa mới lên hai. Năm tháng cô quanh quẩn trong nhà, làm công việc
gia đình và lo lắng cho hai anh em tôi. Khi nào rảnh rỗi Cô nhờ ông chú
của tôi chỉ cô học thêm mấy chữ tiếng Tây.
Cô chỉ có một người bạn thân, đó là bà
cô họ của tôi. Hai người cùng tuổi và học chung một lớp. Khi Cô Út nghỉ
học, thì bà cô họ này vẫn tiếp tục đi học mấy năm nữa, sau này làm y tá
và lấy một ông chồng Tây, làm trong viện Pasteur của bác sĩ Yersin ở
Nhatrang. Bà đi đó đi đây, lâu lâu trở về thăm quê vài bữa. Lần nào về
cũng ghé lại thăm Cô Út tôi và trò chuyện cả đêm. Trông bà thật sang
trọng. Cô Út thì trầm trồ những món nữ trang đắt tiền, nhất là sợi dây
chuyền vàng có mặt ngọc thạch, thời ấy rất hiếm hoi. Còn tôi thì say mê
chuyện đi đó đi đây mà bà cô họ thường kể cho cô cháu tôi nghe.
Dường như từ ngày bà cô họ đi theo
chồng, Cô Út không còn ai tâm sự, nên Cô thường tâm tình với anh em tôi
về chuyện tình duyên của mình. Có một ông thầy giáo dạy cùng trường với
chú tôi, gốc Bình Định, khá bảnh trai, lớn hơn Cô hai tuổi, rất thương
Cô và có nhờ người đến mai mối, nhưng Cô Út phần vì thương cảnh mồ côi
của anh em tôi, một phần bị ám ảnh bởi những lời đồn đãi của thiên hạ:
“tuổi Dần cao số, chỉ hạp với tuổi Dần”, nên Cô từ chối cuộc hôn nhân.
Ông thầy giáo Bình Định buồn tình nên xin đổi đi xa, làm lòng Cô cũng
xốn xang một dạo.
Năm tôi lên bảy, quê tôi có một trận lụt
lớn, trận lụt tháng mười. Tôi nhớ loáng thoáng lời Cô tôi giải thích,
vì “ông tha mà bà không tha, bà cho cây lụt hăm ba tháng mười”. Nước từ
đâu không biết tràn qua, kéo theo nhiều nhà cửa cây cối và cả trâu bò.
Nhà ông nội tôi rộng lắm, mấy cây cột lớn có chạm trổ nhiều hình cầm
thú, có mái ngói âm dương và nằm trên một nền gạch khá cao, được bao bọc
bởi đủ thứ cây ăn trái, vậy mà bây giờ chung quanh tôi chỉ thấy toàn
nước và nước. Ông Nội ra lệnh cho Cô phải giữ kỹ anh em tôi trên bộ phản
trong nhà. Hai ngày sau mưa gió đã tạnh, nhìn qua khe cửa, anh em tôi
thấy nước ngập cả sân nhà (nhà ông bà nội tôi có cái sân vuông khá rộng
bằng xi măng, có bờ thành thấp chung quanh), nên năn nỉ Cô Út ra bịt mấy
cái lổ lù, không cho nước rút, và đứng trên thềm nhà canh chừng cho anh
em tôi cởi truồng xuống sân bơi lội. Bất ngờ tôi phát hiện trong sân có
mấy con cá, anh em tôi tha hồ hò hét rượt bắt cá. Ông Nội tôi nghe ồn
ào, chạy ra nhìn thấy hai thằng cháu nội đang bì bõm trong cái sân ngập
tràn nước lụt, ông không la chúng tôi mà rầy Cô Út tôi một trận, rồi cấm
cung cô cháu tôi ở trên căn nhà thờ, lúc nào cũng đóng kín cửa, mà
trước đây rất ít khi tôi dám tới đây, vì rất sợ mấy cái bàn thờ có treo
những tấm hình và nhiều bài vị viết chữ nho, nhất là hai cỗ quan tài sơn
đỏ, có hình con rồng con phượng hai bên. Cô tôi bảo đó là hai chiếc
quan tài bằng gỗ quí để dành cho ông bà nội đến lúc qui tiên..
Thấy anh em tôi sợ, Cô Út trấn an bọn
tôi bằng cách kể chuyện linh thiêng của những ông bà, tổ tiên đã khuất.
Vong linh ông bà lúc nào cũng ở bên cạnh để phù hộ cho con cho cháu. Cô
còn bảo nếu có ước mơ điều gì, thắp hương thành tâm khấn nguyện, ông bà
sẽ ban cho những điều ước muốn đó.
Cô hỏi tôi, nếu bây giờ khấn nguyện xin
ông bà, thì tôi sẽ mơ ước được điều gì. Nhớ tới chuyện đi đó đi đây mà
tôi rất say mê mỗi lần bà cô họ có chồng Tây kể lại, tôi nhanh nhẩu:
– Con mơ ước mai mốt lớn lên con được đi đó đi đây như bà cô họ vậy.
Rồi tôi hỏi ngược lại Cô Út, Cô nhìn tôi cười:
– Còn Cô thì chỉ mơ ước được một sợi dây chuyền mặt cẩm thạch màu xanh như của cô ấy, và có khắc hai chữ MĐ chính giữa.
Tôi tin lời Cô, kéo tay Cô đến trước bàn
thờ thắp hương để hai cô cháu vái lạy xin Ông bà ứng nghiệm cho những
điều mơ ước. Cô chìu tôi, hai cô cháu quì trước bàn thờ. Cô thì im lặng,
còn tôi thì nói thật to lời ước của mình. Tôi sợ ông bà già quá, lảng
tai, không nghe rõ lời cầu xin của mình.
Mấy năm sau, tôi đành phải rời quê, chia
tay Cô Út vào Nha Trang đi học. Cô may cho tôi mấy bộ đồ mới, bao nhiêu
tiền dành dụm được cô sắm cho tôi một chiếc xe đạp có ghi đông hình chữ
U mà tôi rất thích. Những năm học ở Nha Trang, dù tuổi đã lớn, nhưng
lúc nào tôi cũng thấy thiếu vắng vòng tay và những lời trìu mến của Cô
tôi. Mỗi lần nghỉ hè về quê, tôi vẫn quanh quẩn ở bên Cô, như thuở mới
lên ba, lên năm ngày trước. Lúc này Cô tôi đang làm nghề thợ may, nhưng
chỉ làm việc tại nhà, để tiện việc săn sóc ông bà nội tôi, đã đến lúc
tuổi già sức yếu. Cô tự tay may cho anh em tôi mấy bộ đồng phục học trò.
Mùa hè trời nóng, tối nào cô cháu cũng mang chiếu ra trải bên cạnh hồ
sen trước nhà. Trong gió nội hương đồng, cô cháu nằm tâm sự thâu đêm.
Khi biết tôi đi lính, Cô Út buồn ghê
lắm. Hết ngăn cản rồi năn nỉ tôi. Cô bảo tôi không thương Cô, nên bỏ Cô
mà đi lính, biết bao giờ Cô cháu mới được bên nhau như những ngày xưa,
rồi Cô biết còn ai để mà tâm sự.
Nhớ tới trận lụt tháng mười năm nào, Cô dạy cho tôi thắp hương khấn nguyện ông bà, tôi thủ thỉ với Cô:
– Con đi lính là nhờ Ông Bà trên bàn thờ đã ứng nghiệm cho con điều ước, được đi đó đi đây, đúng như Cô bày cho con đó.
Cô vừa cười vừa lau nước mắt.
Khi vào quân trường, hai người đầu tiên
tôi viết thơ là Ba tôi và Cô. Tôi kèm theo tặng Cô tấm ảnh mặc quân
phục, tóc vừa cắt ngắn ba phân. Cô viết thư khen “chú lính sữa của cô
trông oai phong ghê lắm”.
Mấy tuần sau khi tôi được gắn alpha, Cô
theo Ba tôi vào tận quân trường thăm tôi, mang theo cho tôi cả chục xoài
tượng và mấy cái bánh rán (bánh cam) mà lúc nhỏ tôi rất thèm ăn.
Ra trường, trước khi trình diện đơn vị,
tôi dành trọn mười lăm ngày phép quanh quẩn bên Ba tôi và Cô. Lúc này
ông bà nội tôi đã qua đời và cô vẫn ở vậy chăm sóc ngôi nhà từ đường và
lo việc cúng kỵ ông bà. Đêm nào Cô cũng niệm hương khấn vái thì thầm
trước bàn thờ ông bà nội và má tôi, rồi bảo tôi cùng lại chấp tay lạy.
Tôi nghe Cô xin ông bà và Má tôi phù hộ tôi, tránh được lằn tên mũi đạn.
Hơn mười năm trong lính, toàn là đánh
đấm. Rất nhiều lần thoát chết trong đường tơ kẻ tóc, tôi tin vào những
lời thì thầm khấn vái hằng đêm của Cô.
Lần đầu tiên về phép từ một chiến trường
khói lửa ở cao nguyên, tôi dành dụm mấy tháng lương, và mất hai ngày ở
thành phố Ban Mê Thuột tìm mua cho Cô sợi dây chuyền vàng có mặt cẩm
thạch hình trái tim, loại đắt nhất. Tôi ngồi chỉ cho họ kẻ hai chữ MĐ
thật đẹp chính giữa.
Tôi về bất ngờ. Khi mới bước vào cổng
nhà nội, tôi thấy Cô đang quét lá dưới gốc cây xoài. Con chó không nhận
ra tôi sủa inh ỏi, Cô dừng tay nhìn. Mãi khi tôi đến gần Cô mới nhận ra.
Cô nắm tay tôi mắng yêu:
– Tổ cha mày, vậy mà Cô cứ tưởng là ông thầy nào.
Tôi cười đùa:
– A, chắc là Cô Út tưởng con là ông thầy Bình Định ngày xưa chớ gì.
Buổi chiều, sau khi cơm nước xong, tôi
dắt tay Cô tôi lên căn nhà thờ để cùng tôi thắp hương và lạy ông bà. Khi
đứng lên, tôi bảo Cô nhắm mắt lại để thấy một điều kỳ diệu, rồi choàng
vào cổ Cô sợi dây chuyền tôi vừa mua tặng. Lúc mở mắt ra, Cô mân mê cái
mặt cẩm thạch rồi cảm động nắm tay tôi:
– Cái này mắc tiền lắm. Con đi lính lương ba cọc ba đồng, lấy tiền đâu mà mua tặng Cô.
Tôi cười:
– Đâu phải con mua, mà là ông bà cho Cô
theo lời ước của Cô đó chứ. Cũng như ông bà đã cho con bây giờ được đi
đó đi đây rồi đây nè. Lời cầu xin của Cô cháu mình linh thiêng quá phải
không Cô ?
Thời gian này ở quê nội tôi mất an ninh.
Ban ngày tôi quanh quẩn bên cô. Đến chiều, Cô dắt tôi xuống nhà chú tôi
ở bên huyện ngủ. Cô ở với tôi tới tối mịt mới về.
Ngày mãn phép, tôi trở lại đơn vị, Cô
giặt ủi mấy bộ áo quần của tôi xếp vào túi xách, kèm theo một gói xôi
đậu xanh, để ăn dọc đường. Ngồi trên xe đò, khi lấy gói xôi ra ăn, tôi
thấy có một cái túi nhỏ may bằng vải, mở ra tôi mới biết, một xấp tiền
mới tinh xếp ngay ngắn trong đó. Nhớ tới cô, nước mắt tôi cứ trào ra.
Tôi theo đơn vị lưu động nay đó mai đây,
nên rất khó nhận thư từ hộp thơ KBC hậu cứ ở Ban Mê Thuột. Từ Quảng
Đức, xuống Lâm Đồng rồi Phan Thiết. Mãi hơn nửa năm sau tôi mới nhận
được cùng một lúc năm lá thư của Cô tôi gởi. Tôi mừng, khi Cô kể là có
một ông thầy giáo gốc Huế, cùng tuổi dần với Cô, đã có một đời vợ, cùng
làm nghề dạy học. Nhưng chỉ mới vài tháng sau đám cưới, người vợ trẻ bị
chết cùng với mấy đứa học trò trong một trận pháo kích. Ông buồn quá,
một phần không muốn mỗi ngày bị ám ảnh bóng hình của người vợ trẻ vừa
mới chết oan, một phần không muốn nhìn thấy cái thành phố có những lăng
tẩm uy nghi của một triều đại, nhưng đã để lại quá nhiều tranh chấp tôn
giáo, phủ bóng mây mù chính trị lên từng ngôi trường, từng bục giảng.
Bạn bè ông có mấy kẻ đã vào bưng. Ông xin chuyển vào dạy ở quê tôi vì có
gia đình người bác ruột, ngày xưa làm xếp ga rồi lấy vợ ở lại đây luôn.
Tôi viết thơ cho Cô, lên mặt thuyết
giảng tình yêu, nào chuyện “hữu duyên thiên lý năng tương ngộ” nào là
“cả hai người cùng một tuổi Dần, thì sau này tát biển đông cũng cạn”.
Mấy tháng sau tôi nhận thư hồi âm của
Cô, có kèm theo lá thư ngắn của ông Thầy Huế mà nội dung là một bài thơ
ngợi ca người lính.
Tôi để dành tiền lương hằng tháng, chờ
ngày về ăn đám cưới. Tôi đến một tiệm bán hàng thêu ở thành phố Phan
Thiết đặt thêu một bức tranh có hình hai con cọp âu yếm nhau trong một
rừng đầy hoa sim tím dưới ánh trăng để làm quà cưới cho Cô. Sau trận Mậu
Thân, đơn vị tôi tiếp tục mỗi ngày sống trong lửa đạn. Tôi không nhận
được lá thư nào của Cô tôi. Tôi nghĩ chắc là Cô đã làm đám cưới, nhưng
không biết có theo chồng về thăm Huế hay không. Tôi lo cho Cô, khi biết
cả thành phố Huế đang đắm chìm trong vành tang trắng.
Mấy tháng sau, tình hình trở lại yên
tĩnh, được mười ngày phép, tôi khăn gói về thăm quê. Cô tôi vẫn sống âm
thầm một mình trong nhà ông nội, Đám cưới không thành, không phải ông
thầy Huế phụ tình, như một vài người bà con trong họ đã cảnh giác Cô từ
lúc mới quen ông:” đừng có quá tin mấy chàng trai xứ Huế”. Oan ức và tội
nghiệp cho ông. Ông về Huế ăn Tết và xin cha mẹ được cưới Cô tôi, nhưng
rồi không ngờ phải cùng chịu chung số phận với mấy ngàn người bất hạnh.
Ông mất tích trong đêm mùng hai Tết. Mãi đến ba tháng sau, người nhà
mới tìm được xác của Ông trong một hố chôn người tập thể.
Cuối cùng thì.. Cô tôi “vẫn chưa lấy chồng! “. Trên bàn thờ, tấm ảnh nhỏ của ông Thầy Huế được đặt ở một góc khiêm nhường.
Năm 1975, miền Nam bất ngờ thua trận,
tôi bị tù đày từ Nam ra Bắc, đến tận Lào Cai, Yên Bái. Ba tôi và ông chú
bị bắt vào trại cải tạo trong Nam. Vợ con tôi cùng gánh chịu bao đắng
cay hệ lụy, bơ vơ nheo nhóc. Lá chưa rụng mà phải về cội, vợ con tôi lại
dắt díu nhau về ở với Cô tôi trong ngôi nhà xưa của ông bà nội, bây giờ
trở nên trống vắng, nên chắc buồn và tĩnh mịch hơn xưa. Vợ tôi phải
bươn chải làm ăn, nuôi bầy con bữa đói bữa no. Cô tôi bán đủ thứ trong
nhà, và cuối cùng bán luôn cả sợi dây chuyền mặt cẩm thạch mà cô đã từng
nâng niu như bảo vật, để lo cho mấy đứa con của tôi, và cùng vợ tôi
dành dụm gởi cho tôi một ký lô đường và mấy lọ tép mỡ sau khi biết tôi
vừa trải qua một cơn kiết lỵ, chỉ còn da bọc lấy xương. Tội nghiệp, tôi
chỉ được phép nhận 200 gram đường và một lọ tép mỡ, số còn lại bị sung
vào nhà bếp hậu cần, vì số quà gởi “ngoài qui định, không nằm trong
chính sách”.
Tháng 6 năm 1976, ba tôi chết trong trại
cải tạo Đá Bàn. Nhưng mãi đến năm năm sau tôi mới nhận được tin buồn.
Tôi khóc đến không còn nước mắt.
Tám năm sau, tôi cũng được thả về. Lúc
này vợ tôi không còn sống ở quê nội tôi, vì không tìm ra công việc gì
làm, nên phải dắt theo hai đứa con nhỏ nhất trở lại Ninh-Hòa sống cùng
ông bà già vợ của tôi, rồi chạy được cái “hộ khẩu” ở đây luôn. Còn bốn
đứa con lớn thì vẫn ở lại quê nội tôi, nhờ cô tôi nuôi nấng. Sum họp
được mới năm hôm, thời gian chưa đủ làm quen với mấy đứa con, mà lúc ra
đi đứa nhỏ nhất còn nằm trong bụng mẹ, tôi được công an thị trấn Ninh
Hòa gọi lên cho biết là chính quyền trên huyện không chấp nhận tôi tạm
trú ở đây. Tôi bị gởi trả lại trại tù, rồi được chỉ định về “quản chế”
tại nơi sinh quán. Cuối cùng, thì tôi cũng trở lại trong vòng tay của Cô
tôi. Có điều bây giờ, Cô phải nuôi thằng cháu, đã gần nửa đời người, mà
bỗng dưng trở thành vô gia cư nghề nghiệp. Ăn cơm nhà nhưng hằng ngày
tôi phải đi đắp đê, làm thủy lợi cho “nhân dân”. Cô tôi bây giờ ốm yếu,
đôi mắt buồn hiu hắt. Sau mấy năm khóc than cho những mất mát đổi thay
trong gia tộc, Cô đã già nhiều trước tuổi. Vậy mà bây giờ còn phải lo
gánh vác cho mấy cha con tôi. Đã vậy, ông chú của tôi, sau khi ở trại
cải tạo về, phải dắt vợ và hai đứa con gái đi kinh tế mới. Bà thím bị
sốt rét chết hai năm trước khi tôi về. Cứ vài hôm, ông chú phải tay dắt
tay bồng đưa hai đứa con về đây gởi cho Cô tôi. Nhiều lúc âm thầm nhìn
Cô “lưng còng uốn nặng kiếp long đong”, tôi nghẹn ngào muốn khóc, nhưng
có lẽ tôi cũng không còn nước mắt.
Khi tính chuyện vượt biển, tôi tâm sự
xin Cô cùng đi với chúng tôi. “Dù trôi nổi ở đâu, có cô bên cạnh là con
mãn nguyện rồi”, Nhưng cô bảo Cô đã già, không muốn rời bỏ quê hương,
hơn nữa còn phải trông coi ngôi nhà từ đường và mồ mả ông bà, không để
cho hương tàn khói lạnh. Và còn phải phụ giúp ông chú tôi đang ốm đau,
lo cho hai đứa con của chú ấy nữa.
Mấy ngày sau, tôi thấy Cô xuống tóc, và
ăn chay trường. Đêm nào cũng quì trước bàn thờ. Tôi biết là Cô đang cầu
nguyện cho tôi đi đến bến bờ. Hôm tiễn biệt, Cô nắm chặt tay tôi: “xin
ông bà và cha mẹ con phù hộ cho vợ chồng con và mấy đứa nhỏ” rồi im lặng
nhìn tôi với hai hàng nước mắt.
Thuyền ra đến hải phận quốc tế thì gặp
bão. Mưa gió suốt mấy ngày, không còn trăng sao để mà định hướng. Tất cả
đàn bà con nít xuống dưới khoang thuyền. Chỉ có bọn đàn ông chúng tôi ở
lại phía trên chống chọi với phong ba. Trong những lúc nguy khốn nhất,
tôi lại nghĩ đến Cô, nhớ những lời cầu nguyện của Cô mà lấy lại niềm tin
và can đảm. Cuối cùng, một chiếc tàu chở dầu của Vương quốc Nauy đã cứu
vớt chúng tôi trước khi cơn bão chính ập tới. Từ trên tàu, vị thuyền
trưởng giúp chuyển hộ mỗi người ba cái điện tín cho thân nhân. Người đầu
tiên tôi báo tin mừng là Cô.
Sau khi định cư, tôi thường xuyên gởi
thư thăm Cô và kèm theo tiền để giúp Cô cùng gia đình ông chú, và xây
lại mồ mả ông bà. Cô mừng ghê lắm. Lá thư nào Cô cũng viết thật dài,
khuyến khích tôi cố gắng làm lại cuộc đời và dạy dỗ cho con cái phải
biết sống theo đạo lý và đừng bao giờ quên quê hương, nguồn cội của
mình.
Cô ở xa tôi cả nghìn trùng mà lúc nào
tôi cũng tưởng Cô vẫn đang đâu đó bên mình. Mỗi lần gặp khó khăn, phiền
muộn trên xứ người, cứ nghĩ đến Cô là lòng tôi phấn chấn. Bây giờ Cô đã
già và chắc cũng yếu đi nhiều lắm. Vậy mà chỉ với hình bóng thôi, Cô đã
cho tôi biết bao nghị lực.
Hai năm sau, tôi lại nhận được tin buồn.
Ông Chú của tôi, sau bao năm chống chọi với bệnh tật mang về từ trại
cải tạo, vừa mới lìa đời, giao hai đứa con gái lại cho Cô tôi nuôi nấng.
Tội nghiệp cho Cô, đúng là “Trời không nín gió cho ngày Cô sinh”, tuổi
già rồi mà phải còn cưu mang con cháu. Lá thư báo tin buồn này là lá thư
cuối cùng Cô tự tay nắn nót viết cho tôi. Những lá thư sau đó, mấy đứa
con gái ông chú tôi viết. Tôi lo lắng hỏi Cô, Cô chỉ bảo đôi mắt của cô
bây giờ hơi kém, nhưng dặn dò tôi không phải gởi thuốc thang gì, vì ở
trong nước Cô mua cũng được. Cô khẩn khoản muốn tôi đưa mấy đứa con về
cho Cô gặp lại một lần.
Hơn mười năm sau, khi nghe nhà nước có
chút đổi thay, gọi những người vượt biển có tội phản bội tổ quốc ngày
xưa là khúc ruột ngàn dặm, tôi dắt theo ba đứa con lớn về thăm quê
hương. Đúng hơn là về tìm ngôi mộ cha tôi chôn trong núi bên trại cải
tạo Đá Bàn và thăm bà Cô suốt cả một đời bảo bọc chúng tôi. Nhớ lại kỷ
niệm xưa, tôi nhờ cô con gái lớn ở bên Cali, đến khu Phước Lộc Thọ tìm
đặt mua cho tôi một sợi dây chuyền vàng, có mặt màu xanh cẩm thạch, khắc
hai chữ MĐ chính giữa. Tôi nghĩ có lẽ đây sẽ là món quà có ý nghĩa, đền
bù lại sợi dây chuyền tôi tặng Cô lúc trước, và để cho Cô được trẻ lại
những ngày xưa.
Tôi không báo trước ngày về, vì muốn làm
cho Cô bất ngờ và không phải khăn gói vào tận Sài gòn để đón cha con
tôi, như lời cô hứa.
Quê nội tôi, cái làng Phú Hội một thời
trù phú như cái tên gọi, bây giờ sao mà cằn cỗi, điêu tàn. Khi bước vào
cổng nhà nội, tôi xa lạ đến thẩn thờ. Ngôi nhà ngày xưa rộng lớn, hồi
còn nhỏ tôi đi còn sợ lạc, sao bây giờ nhỏ nhoi, tiêu điều và hiu quạnh
quá. Tôi đứng giữa cái sân gạch mà ngày nào trời lụt, anh em tôi tha hồ
bơi lội như trong một dòng sông, bây giờ chỉ còn lại cái nền loang lổ,
phủ đầy những lá của cây xoài già héo úa, một thời xum xuê làm “bóng mát
thiên đường” để Cô cháu tôi ngồi đọc truyện cho bà nội tôi nghe trong
những buổi trưa hè. Cái hồ sen tỏa hương thơm ngát ngày xưa, bây giờ là
một cái ao cạn đầy cỏ dại. Chỉ còn lại tiếng dế than rên rỉ. Không nghe
con chó sủa. Nó là con vật trung thành, không giống như một số người sau
tháng tư năm nào, phản suy phù thịnh. Có lẽ nó cũng buồn mà chết rồi
sau cuộc đổi đời của chủ. Tôi và ba đứa con lạc lõng trong ngôi nhà mà
tất cả đã từng một thời lớn lên ở đó, với biết bao là kỷ niệm buồn vui.
Trong nhà không có một ai, ngoài bóng dáng của chính mình ngày trước.
Bước ra cửa sau, tôi đứng lặng người khi thấy Cô Út ngồi quay lưng, vãi
thức ăn cho một bầy gà. Mái tóc Cô bạc trắng. Cha con tôi đến đứng phía
sau lưng, mà Cô không biết.
Mấy đứa con tôi cười khúc khích, Cô quay
lại. Tôi ôm chầm lấy cô, nghẹn ngào không nói nên lời. Tôi ngạc nhiên
khi nghe cô hỏi: đứa nào đây? Chẳng lẽ mới mười năm mà cô không còn nhận
ra tôi. Buông cô ra, tôi suýt hét lên, khi biết là đôi mắt của Cô đã
mù. Tôi chỉ thốt lên được mấy tiếng “Cô ơi, thằng Ninh đây Cô”, rồi khóc
nức nở.
Sau một khắc yên lặng, tôi nghe Cô cười, rồi đưa hai tay sờ lên đầu lên mặt tôi, rồi đến mấy đứa con tôi.
Tôi dìu Cô vào nhà. Nhưng cô bảo là cô
đi được. Cô nói là cả một đời cô ở đây, mọi ngõ ngách và đồ đạc trong
nhà như in trong trí. Tôi hỏi mấy đứa con ông chú đâu mà để cô ở một
mình. Cô cho biết là nhờ dành dụm số tiền tôi gởi về, đứa lớn đã ra nghề
thợ may, vừa lấy chồng, mở tiệm ở dưới huyện. Còn đứa nhỏ, Cô cho đi
học làm y tá, vẫn còn ở với Cô.
Thấy chúng tôi về, mấy người hàng xóm
sang thăm. Ai cũng nhắc lại cái thời anh em tôi còn bé và ca ngợi Cô tôi
hết lời. Không biết ai nhắn tin, hai cô em, con ông chú tôi cũng về
ngay, có cả thằng em rể. Sau này tôi mới biết nó chính là cháu họ của
ông thầy giáo Huế, người tình của Cô Út ngày xưa.
Có sẵn chiếc taxi thuê bao, tôi mời Cô
và mấy đứa em xuống phố ăn cơm, nhưng Cô không cho, bảo hai đứa em con
ông chú làm thịt mấy con gà để mấy cô cháu vừa ăn vừa nói chuyện cho
vui.
Cả một tuần sau, tôi bận rộn lo việc cải
táng phần mộ của ba tôi từ Đá Bàn về chôn trong nghĩa trang gia tộc,
bên cạnh ngôi mộ của má tôi và ông bà nội. Cô Út theo ra đến tận nghĩa
trang, đưa tay sờ ngôi mộ mới xây của ba tôi, rồi khóc sụt sùi.
Hai tuần sau, tôi quanh quẩn bên cạnh cô
tôi, kể lại hầu hết những kỷ niệm ngày xưa, và cuộc sống ở xứ người. Cô
bảo có lần nằm chiêm bao, cô thấy ông thầy Huế về thăm Cô, nhưng người
ông bê bết máu, Cô lấy khăn lau mãi mà máu vẫn cứ ứa ra.
Đêm nào trước khi đi ngủ, Cô cũng bảo
cha con tôi thắp hương và lạy trước bàn thờ. Tôi lại nhớ tới những điều
cô cháu tôi ước mơ thuở trước.
E dè mãi, đến đêm cuối cùng, khi đứng
trước bàn thờ, tôi lấy sợi dây chuyền vàng có mặt cẩm thạch ra, đeo vào
cổ cho Cô. Tôi ôm chặt Cô thì thầm: “xin cho con trả lại Cô cái điều mà
ngày xưa cô mơ ước”. Ba đứa con tôi vỗ tay phụ họa: “đẹp lắm ! bà Nội
ơi, đẹp lắm!”
Cô tôi không mân mê cái mặt cẩm thạch
như lần trước, cách đây hơn bốn mươi năm, khi tôi tặng Cô, mà chỉ đứng
lặng im, bất động. Tôi biết, trong đôi mắt mù lòa kia, dù không còn thấy
cái mặt cẩm thạch màu xanh có khắc hai mẫu tự tên mình, nhưng Cô tôi
đang nhìn thấy cả một quá khứ xa xăm, bao la và sâu thẳm như chính tấm
lòng Cô.
Cuối cùng thì tôi cũng phải chia tay Cô,
bỏ lại đằng sau dấu tích của cả một phần đời, mà tất cả vui buồn bây
giờ đều đã trở thành kỷ niệm, nằm sâu chôn chặt tận đáy lòng. Tôi nghĩ,
có lẽ đây là lần cuối cùng tôi gặp Cô.
Dắt ba đứa con bước ra khỏi cổng nhà ông
Nội, tôi không dám quay đầu nhìn lại. Một câu hỏi chợt lóe lên trong
đầu: Rồi mai này, tôi lại tiếp tục lưu lạc tha phương. Cũng như sợi dây
chuyền mặt cẩm thạch tôi vừa mới tặng cho Cô tôi, liệu cái việc đi đó đi
đây trên xứ lạ quê người của tôi, có còn là những điều mà Cô cháu tôi
đã từng một thời mơ ước?
Phạm Tín An Ninh
No comments:
Post a Comment