; }

VÔ TUYẾN TRUYỀN HÌNH TRƯỚC 1975 TẠI MIỀN NAM


thvn9-saigon-logo Đài THVN9 là đài truyền hình đầu tiên của Việt Nam. Nó phát sóng lần đầu tiên vào lúc 18 giờ 58 phút ngày 7-2-1966 với thời lượng 1 giờ. Buổi phát hình cuối cùng kết thúc lúc 23 giờ 58 phút ngày 29-4-1975.

Các buổi phát sóng bắt đầu với nhạc hiệu “Này công dân ơi, đứng lên đáp lời sông núi…” từ bài hát Tiếng Gọi Công Dân (tên mới của bài La Marche des Étudiants – Thanh Niên Hành Khúc do Lưu Hữu Phước sáng tác từ năm 1939 và sau đó có một số tên mới như Tiếng Gọi Thanh Niên,…) và lời chào của xướng ngôn viên: “Đây là Đài Truyền hình Việt Nam, phát hình trên băng tần số 9, xin kính chào quý vị.”

Trong năm đầu tiên, THVN9 phát sóng từ trên chiếc máy bay bay vòng vòng trên bầu trời Saigon ở độ cao 3-6km, phủ sóng từ Phan Thiết tới Long An. Có 3 chiếc máy bay C-121 Super Constellation (biệt danh là Blue Eagles) bay truyền phát sóng truyền hình cho hai đài truyền hình Việt Nam và Quân đội Mỹ. Một chiếc C-121 thứ tư chuyên phát sóng âm thanh tiếp âm từ hệ thống 1965 World Series. Tới tháng 10-1966 THVN9 mới bắt đầu phát sóng từ mặt đất sau khi trụ sở đài với tháp ăngetn khổng lồ được xây dựng xong tại số 9 đường Hồng Thập Tự.

THVN9 thuộc Nha Vô tuyến Truyền hình Việt Nam của Việt Nam Cộng hòa. Sau này, nó thuộc Tổng cục Truyền thanh, Truyền hình và Điện ảnh dưới quyền Bộ Dân vận.

Để đào tạo chuyên viên Việt Nam, chính phủ cử tám người sang Đài Loan thụ huấn trong 6 tháng cùng hai học viên khác do cơ quan Viện trợ Văn hóa Á Châu cử đi, tổng cộng là 10 người. Trong đó có một người là Tổng thư ký Bộ Quốc gia Giáo dục và hai cô nhân viên thuộc Bộ học về chương trình giáo dục bằng VTTH, hai người thuộc Thông tin Công giáo.

Phía Nha VTTH có các nhân viên học về kỹ thuật, về làm chương trình và về đạo diễn. Đến Đài Bắc, các học viên được tập huấn tại Quang Khải Xã, đài truyền hình lớn nhất Đài Loan lúc ấy. Họ được làm quen với tất cả các công đoạn làm chương trình truyền hình như lập kế hoạch, viết bản tóm lược, phân cảnh, đạo diễn, quay phim, thu hình, âm thanh, bày trí phông, hướng dẫn diễn viên và hóa trang. Người hướng dẫn là chuyên viên thuộc Quang Khải Xã và từ hai đài truyền hình ở Đài Trung và Đài Nam.


Họ được sử dụng máy móc giống như dàn thiết bị mới được trang bị ở Sài Gòn. Trong khi lưu lại, họ được dự các buổi phúc khảo hoặc việc sản xuất thực tế của các chương trình thường xuyên của Quang Khải Xã. Khóa huấn luyện kết thúc vào cuối tháng 3 năm 1967. Sau khi về nước, họ đã có thể sản xuất trọn vẹn một chương trình Việt Nam...

Đài THVN được phát trên băng tần số 9 trong khi đài Quân đội Mỹ AFVN phát tín trên băng tần số 11.

Cùng lúc với đài THVN9, ở miền Nam còn có đài truyền hình của Quân đội Hoa Kỳ phát bằng tiếng Anh, lúc đầu gọi là AFRTS (Armed Forces Radio Television Service), đến năm 1967 thì đổi là AFVN (Armed Forces Vietnam Network), cũng phát từ trên máy bay ở kênh 11. Đài này phục vụ các lực lượng Mỹ ở Việt Nam, chiếu nhiều phim Mỹ, như những bộ phim nhiều tập Combat! (phim chiến tranh thời Chiến tranh thế giới thứ 2), Bonanza (phim cao bồi Viễn Tây), Astro Boy (phim hoạt hình thiếu nhi gốc Nhật),… Người dân ở khu vực Saigon và phụ cận cũng có thể thu được đài Mỹ này bên cạnh các đài Việt Nam.

Trong suốt thời gian tồn tại (1966 – 1975), đài THVN9 phát sóng trung bình 6 giờ/ngày và chỉ gia tăng thời lượng vào dịp lễ Tết – đây là con số kỷ lục tại các nước châu Á lúc đó, khi mà ngành truyền hình còn rất sơ khai.

Còn tại miền Bắc, theo ký giả Huy Đức (tác giả của Bên Thắng Cuộc) thì ngày 7 tháng 9 năm 1970, miền Bắc mới cho phát thử một chương trình truyền hình đen trắng và phải sau ngày 30 tháng Tư 1975, một số người dân ở Hà Nội, mới được “xem vô tuyến” nhờ các máy thu hình đưa từ miền Nam ra chuyển hệ hoặc đưa từ Liên Xô và các nước Đông Âu. Truyền thông báo chí, ngay cả của nhà nước cũng phát triển rất hạn chế ở miền Bắc. Trong thập niên 1960, trong một xã may ra có ông chủ tịch hay bí thư là có được chiếc máy thu thanh hiệu Xiong Mao hoặc Orionton. Sau năm 1975, những chiếc radio bán dẫn Nhật như Standard, National… được các anh bộ đội, các cán bộ vào Nam công tác đưa ra nhưng nó vẫn là một mặt hàng bị “nhà nước quản lý”.

Theo ký giả Phạm Công Luận, “Máy vô tuyến truyền hình xuất hiện tại Việt Nam lần đầu tiên vào năm 1966. Một cái TV Denon 12 inches giá 16.500 đồng, 19 inches giá 30.000 đồng. Nhà nhà đều sắm tivi. Ai không có thì đi coi cọp. Ăng ten mọc như mắc cưởi trên các nóc nhà, nhứt là ở các tỉnh. Chương trình được hâm mộ nhất là cải lương và đài Mỹ. Batman xuất hiện khắp hang cùng ngõ hẻm. Lúc đó điện còn yếu, mỗi nhà mua một survolteur để tăng điện cho tivi”.

Nhờ vào nền tảng của sự tự do, chỉ trong vòng 9 năm (1966-1975), chương trình truyền hình và chương trình phát thanh của Sài Gòn đã phát triển thật phong phú và đa dạng, ngoài là một phương tiện giải trí cho mọi gia đình, nó còn mang lại nhiều kiến thức bổ ích cho học sinh, sinh viên.







No comments:

Post a Comment