“Ở
Mỹ hoặc phương Tây, thỉnh thoảng các ông kêu gọi đàn ông “đứng lên” vì
tổ quốc. Ở Nga chỉ có chút khác biệt, chúng tôi bảo các cô gái hãy “nằm
xuống” – một viên tướng KGB về hưu nói.
Hai
quốc gia được cho là áp dụng “mỹ nhân kế” trong tình báo nhiều nhất là
Nga và Trung cộng. Cơ quan tình báo Liên Xô KGB dùng tiếng lóng “chim
én” để chỉ phụ nữ và “quạ đen” để chỉ đàn ông được huấn luyện quyến rũ
các mục tiêu có thông tin quan trọng.
Không
bình luận về chuyện các điệp viên của mình có dùng sex để đổi thông tin
không, nhưng một vài quan chức CIA nói “thỉnh thoảng” nó vẫn xảy ra, và
tuy “bẫy mật” không phải là cách tốt nhất để chiêu dụ quan chức nước
ngoài nhưng đôi khi “nó giải quyết được một số vấn đề ngắn hạn”.
Oleg
Kalugin, tướng KGB đã về hưu, một lần được hỏi tại sao nhiều điệp viên
Nga sử dụng sex trong công việc như vậy, đã trả lời đơn giản: “Ở Mỹ và
phương Tây, các ông kêu gọi đàn ông “đứng lên” vì tổ quốc. Ở Nga có
chút khác biệt, chúng tôi kêu gọi các cô gái hãy “nằm xuống””.
KGB
vốn tin rằng người Mỹ là những kẻ cuồng sex theo chủ nghĩa vật chất, vì
thế các điệp viên của họ sẽ dễ dàng bị sắc đẹp đưa vào tròng. Không chỉ
dùng tình dục cho các nhiệm vụ tức thời, KGB còn xem đó như một phương
án dự phòng, nếu một viên chức Mỹ nào đó trở nên quan trọng trong tương
lai, họ đã có đủ phương tiện để “thu phục” anh ta.
CIA
thì ngược lại, họ rất hạn chế sử dụng chiêu này với các đối thủ nước
ngoài. “Thu dụng một cách cưỡng ép thường không có hiệu quả. Chúng tôi
thấy tiền và sự tự do vẫn hấp dẫn hơn”, theo lời một cựu điệp viên. Nếu
tình cờ CIA biết một điệp viên Xô Viết nào đó có cô bạn gái, họ sẽ thử
chiêu dụ cô gái đó như một cầu nối. Một khi đã nắm thóp được anh ta, họ
sẽ tìm cách biến anh chàng thành gián điệp cho mình.
Mật ngọt chết ruồi
Năm
1955, John Vassall, một viên thư ký đồng tính làm việc cho Cố vấn hải
quân của Đại sứ quán Anh tại Matxcơva bị một nhóm “quạ đen” của KGB đưa
vào tròng. Sau khi tham gia một bữa tiệc trác táng, John được cho xem
những tấm hình của chính mình trong tình trạng không thể tệ hơn. Liên
tiếp tám năm sau đó, anh ta buộc phải làm gián điệp cho Nga.
“Mới
xem được 3 tấm hình tôi đã không chịu nổi nữa. Chúng làm tôi phát bệnh.
Thì tôi chứ ai, bị chộp trong lúc đang vui sướng …với nhiều gã đàn
ông”, báo Telegragh trích dẫn những dòng hồi tưởng của anh chàng không
may mắn.
Cùng
khoảng thời gian đó, Bộ phận tình báo hải ngoại của Stasi (Cục an ninh
quốc gia Đông Đức) cũng tung ra hàng loạt các “điệp viên Romeo” để quyến
rũ các nữ thư ký làm việc cho chính phủ Tây Đức. Khoảng 40 phụ nữ đã bị
kết án vì đã tuồn bí mật cho người tình của mình, không hề nhận ra họ
là gián điệp nước ngoài.
Bức tường Berlin năm 1961
“Khi
bắt đầu, tôi còn không có khái niệm gì về kết quả nó sẽ mang lại”,
Markus “Mischa” Wolf, một trưởng bộ phận gián điệp Stasi, sau đó nói.
Điều thú vị là, Markus tin rằng bí mật sẽ được tuôn ra nhiều hơn nếu đó
là tình yêu thật sự thay vì chỉ là “tình một đêm”. Một thư ký Tây Đức
thậm chí đã tổ chức hôn lễ với người tình của mình trong một đám cưới
giả dàn xếp bởi Stasi. Vấn đề trở nên nghiêm trọng đến nỗi giới chức
NATO phải ra lệnh treo những tấm poster lên tường trong các văn phòng
nhắc nhở các cô gái phải “đóng kín trái tim” mình lại.
Gần
hơn, tháng 7 năm 2009, một nhân viên ngoại giao của Anh, James Hudson,
bị dính vào vụ rùm beng liên quan đến gái mại dâm và buộc phải từ chức.
Một đoạn video dài hơn bốn phút ghi cảnh Hudson đang vui vẻ cùng hai cô
gái trong một khách sạn thành phố Ekaterinburg bị phát tán khiến London
bẽ mặt. Có dư luận cho rằng chính cơ quan FSB (tiền thân là KGB) đã gài
bẫy vị quan chức Anh.
Một
trường hợp khác, trong phái đoàn thương mại của Anh đến thăm Trung cộng
năm 2009, một phụ tá cao cấp của Thủ tướng Gordon Brown đã qua đêm với
một phụ nữ Trung cộng quyến rũ tại Thượng Hải. Sáng hôm sau, ông ta hớt
hải báo cáo chiếc điện thoại BlackBerry do chính phủ cấp đã “không cánh
mà bay”.
Có
thể nói, trong khi người Nga hay người Trung cộng đang khai thác thế
mạnh của tình báo công nghệ, họ vẫn trở về với những phương pháp thực
hành đã qua kiểm chứng, “mỹ nhân kế” là một trong số đó. Vai trò con
người trong một thời gian nào đó rõ ràng bị lấn át bởi tiến bộ kỹ thuật,
nhưng dần các chuyên gia tình báo nhận ra máy móc có thể là điểm yếu
chết người.
“Một
cuộc chuyện trò trên băng ghế đá công viên bỗng nhiên không phải là ý
kiến tệ nếu biết rằng một cuộc điện thoại, dù được mã hóa, có để dễ dàng
bị GCHQ (một cơ quan tình báo Anh) nghe lén và được giải mã bởi một
chuyên gia khai thác dữ liệu của NSA ở Utah ngay sau đó”, Telegragh dẫn
lời một nguồn tin trong ngành.
Nhà
báo Nga Inna Svechenovskaya, tác giả của quyển sách “Sex và tình báo Xô
Viết” từng nhiều năm đi cóp nhặt những câu chuyện và sự thật đằng sau
hoạt động nhạy cảm này của cơ quan tình báo các nước khối Liên Xô. Bà
nhận xét rằng không ai hoàn thiện “bẫy mật” thành một nghệ thuật như
người Nga nhưng chính họ cũng thừa nhận rằng đó là một thứ vũ khí nguy
hiểm – một con dao hai lưỡi. Không hiếm trường hợp điệp viên nảy sinh
tình cảm thực sự với “mục tiêu” của mình, và cơ quan tình báo không còn
kiểm soát được họ nữa.
Cựu tổng thống Indonesia Ahmed Sukarno
Svechenovskaya
có nhắc đến trường hợp hy hữu xảy ra với ông cựu Tổng thống Indonesia
Ahmed Sukarno. Vì muốn tìm kiếm ảnh hưởng tại Châu Á, KGB gửi một nhóm
các cô gái trẻ đẹp tiếp cận vị nguyên thủ vốn nổi tiếng háo sắc này. Họ
làm quen với mục tiêu trên chuyến bay của ông này đến Matxcơva dưới vỏ
bọc tiếp viên hàng không. Màn làm tình tập thể tiếp theo diễn ra trong
một khách sạn ở Matxcơva bị ghi hình toàn bộ bằng camera bí mật.
Ngày
hôm sau, KGB mời Sukarno đến rạp chiếu phim và cho ông ta xem cuốn băng
hình. Trái ngược với phản ứng hoảng sợ mà họ mong đợi, Sukarno cho rằng
đó chính là món quà bất ngờ những người bạn Liên Xô tặng và hỏi các
nhân viên đang há hốc mồm vì kinh ngạc xem còn bản copy nào không để ông
mang về nước làm quà.
Cách
không xa thành phố Kazan, thủ đô nước Cộng hòa Tartarstan thuộc Nga, là
một nơi kỳ lạ. Ở đây khá hẻo lánh, dấu tích của các công trình xây dựng
hối hả dễ dàng đập vào mắt người xem. Những tòa nhà năm tầng quen thuộc
thời Xô Viết, vài cửa hiệu tồi tàn, một số cơ quan cũ kỹ… tô điểm cho
bức tranh là các lán trại thô sơ.
Trường đào tạo điệp viên
Có một tòa nhà, nhìn bên ngoài không khác so với xung quanh, nhưng nó là một ngôi trường đặc biệt.
Dưới
thời KGB, “chim én” và “quạ đen” trên khắp vùng lãnh thổ mênh mông của
Liên Xô đổ về đây để được huấn luyện. Mục đích là giúp các điệp viên
vượt qua sự sợ hãi, xấu hổ và tất cả những cấm kỵ giới hạn con người
trong chốn phòng the.
Chiến trường không bom đạn
Hiệu
trưởng của trường là một phụ nữ tên Lidia. Từng phục vụ trong KGB với
quân hàm Đại tá, xinh đẹp, thông minh và có vẻ bề ngoài trẻ hơn tuổi
thật của mình, bản thân Lidia đã trải qua tất cả những gì bà chỉ dạy cho
các “chim én”.
Đầu
thập niên 1950, Lidia được điều đến Tây Đức để tổ chức một mạng lưới
sex – tình báo ở Frankfurt. Cô gái nảy ra ý tưởng mở một trung tâm spa
chăm sóc sắc đẹp. Với nguồn lực của KGB, tại trung tâm thành phố nhanh
chóng mọc lên một ngôi nhà sang trọng. Giới thượng lưu tất cả đều biết
đến bà chủ xinh đẹp, lịch lãm và họ thường xuyên đến làm khách.
Tuy nhiên, đằng sau tấm màn thì cơ sở đó còn là một nhà thổ.
Một góc Tây Đức thời còn bị chia cắt
Lidia
tuyển dụng rất nhiều cô gái trẻ, xinh đẹp làm con mồi. Họ phục vụ đủ
mọi thành phần khách, từ bình dân cho đến các nhà ngoại giao, sĩ quan và
quan chức cấp cao. Họ được trả nhiều tiền cho công việc này, bù lại các
cô gái phải chấp nhận sự phục tùng tuyệt đối và biết giữ im lặng.
Các
quý ông đến đây đều không ngờ rằng từng cử động của họ đều bị máy
camera thu hình và từng lời nói đều bị ghi âm. Trong một căn phòng bí
mật chỉ Lidia có quyền bước vào, tất cả dữ liệu được tập trung tại đây,
sau khi xem duyệt chúng sẽ được dùng để đe dọa và moi thông tin bí mật
từ mục tiêu hoặc lưu trữ “chờ đến lúc thích hợp”.
Dù
mang hàm chỉ huy, nhưng có những nhiệm vụ đặc biệt đích thân Lidia phải
thực hiện. Một trong số nhiệm vụ đó là thu thập thông tin về những nhân
viên của trại David trên lãnh thổ Đức. Bề ngoài là một căn cứ quân sự
bình thường, nhưng đây là nơi đào tạo điệp viên của Mỹ và các nước đồng
minh, tổng hành dinh của mạng lưới tình báo, liên lạc, chỉ điểm… tỏa
khắp Liên Xô.
Tình
báo phương Tây chia điệp viên của mình làm hai loại: Đen và Xám. Cấp
bậc Đen là những điệp viên nằm vùng, sử dụng danh tính giả và có lớp vỏ
bọc hoàn hảo. Xám là những người bình thường như doanh nhân, nhà báo,
khách du lịch… họ chỉ thực hiện nhiệm vụ một lần đổi lấy phần thưởng.
Nhưng dù Đen hay Xám, khi hoàn thành nhiệm vụ trở về tất cả điệp viên
đều phải trải qua bài kiểm tra nói dối. Phụ trách công việc đó có một
Trung sĩ tên Glen Rohrer, được cử đến trại David năm 1933. Do tính chất
công việc, Glen nắm rất nhiều thông tin quan trọng về các điệp viên.
Cô
đơn trong công việc vì những quy định ràng buộc, Glen trở thành khách
hàng thường xuyên của Lidia và rơi vào tầm ngắm của KGB. Vẫn bằng phương
pháp đe dọa với những tấm ảnh nhạy cảm, Lidia khiến Glenn bán đứng rất
nhiều điệp viên của mình. Đến đầu 1965, một loạt mạng lưới tình báo, tên
tuổi, địa chỉ cụ thể đã nằm trong tay KGB, đến mức cơ quan tình báo Mỹ
bắt đầu nghi ngờ và theo dõi. Nắm được thông tin đó, Lidia phải tổ chức
cho Glen bỏ trốn sang Tiệp Khắc, còn bản thân mình được Tổng hành dinh
triệu hồi về để tránh nguy hiểm.
Sự
phản bội của Glen là đòn giáng mạnh vào tình báo Mỹ, công sức 20 năm
xây dựng coi như đổ sông đổ biển, hàng trăm điệp viên bị bắt. Riêng
Lidia, nhờ thành quả đó được phong quân hàm Đại tá. Sau một vài năm làm
cố vấn tình báo, Lidia được tiến cử làm hiệu trưởng một trong những ngôi
Trường đào tạo điệp viên của KGB.
Khi tình báo trở thành khoa học
Các
cô gái được KGB tuyển chọn đến từ nhiều vùng khác nhau, trước khi được
cho phép phục vụ trong tổ chức, họ bị kiểm tra rất kỹ từ nhân thân cho
đến quan điểm chính trị. Sắc đẹp là yếu tố trước tiên phải kể đến, tiếp
theo nhưng không kém quan trọng là trí thông minh và khả năng diễn xuất.
Ngoài ra, biết những thứ tiếng của các quốc gia Châu Âu là một lợi thế
lớn.
Những
người được tuyển chọn sẽ trải qua khóa huấn luyện dự bị dài 4 tháng.
Điều đáng chú ý là không ai trong số họ bị ép buộc phải làm “chim én”,
công tác “huấn luyện tư tưởng” và những bảo đảm vật chất chính là chìa
khóa đổi lấy sự tình nguyện.
Các
“quạ đen” cũng được tuyển chọn theo quy trình đó, nhưng đối với họ nhan
sắc lại không phải là điều ưu tiên. Đa phần những mục tiêu của “quạ
đen” là các quý bà đứng tuổi và cô đơn, vì thế, các nữ sĩ quan của KGB
tuyển chọn đàn ông theo tiêu chí hấp dẫn giới tính phù hợp với họ. Tuổi
tác của “quạ đen” có thể từ trẻ cho đến trung niên với nghề nghiệp trong
nhiều lĩnh vực như nghệ thuật, báo chí hay kỹ sư. Không hiếm trong số
họ là những người đồng tính.
Môn
học “giăng bẫy mật” là một phần quan trọng của khóa huấn luyện, tất cả
các sĩ quan cao cấp của KGB đều phải vượt qua trước khi được điều ra
nước ngoài thiết lập mạng lưới tình báo.
Họ
được dạy cách sống trong môi trường xã hội mới, thích nghi với văn hóa
và thói quen mới trong phòng the. Họ tham khảo các tạp chí dành cho cả
hai phái để tìm hiểu về những đặc điểm, sở thích khác biệt trong tình
dục của cư dân bản xứ. Họ cũng xem phim ảnh đủ mọi thể loại từ chính
thống, ngoài luồng cho đến phim “đen” của quốc gia đó.
Khóa
học được diễn ra trong hoàn cảnh mô phỏng tối đa môi trường mà điệp
viên sẽ công tác sau đó. Để làm được việc này, KGB cho xây dựng hàng
loạt thành phố mô hình, bắt chước mọi chi tiết nhỏ trong đời sống các
quốc gia cạnh tranh…
Trường phim tình báo
Trước
khi đào ngũ sang phương Tây giữa thập niên 1960, Anatoly Sorokin làm
việc trong phân ban “C” của Tổng hành dinh thứ nhất KGB. Ông hồi tưởng
lại những thành phố mô hình gợi nhớ đến những bộ phim hơn là những thành
phố thật.
Thành
phố đó có con đường chính với những tòa nhà bằng gạch ở hai bên dài
khoảng 200 mét. Có nhiều cửa hàng, rạp chiếu phim, siêu thị, ngân hàng…
Trong thời gian diễn ra giờ học, con đường sẽ đầy những “diễn viên quần
chúng”, ăn mặc giống với cư dân của quốc gia được mô phỏng.
Trong
thành phố bản sao của nước Anh, sẽ có các “diễn viên” đóng vai cảnh
sát, người đưa thư, anh hàng thịt… Xe buýt sẽ có người soát vé để các
học viên có thể thực hành hỏi giá vé, điểm đến. Trong bưu điện có thể
mua được tem thư, mẫu giấy chuyển tiền… Bên cạnh là mô hình của vùng quê
nước Anh với quán rượu và nhà kho.
Theo
lời kể của những điệp viên đào ngũ từng học tại thành phố Gatchina –
Leningrad, “phương Tây” ảo được chia thành 4 phân khu, mỗi phân khu được
bao bọc bởi hàng rào thép gai, có vùng đệm và tuần tra nghiêm ngặt. Mỗi
nơi có các huấn luyện viên, mô hình thành phố và vùng quê đặc trưng.
Hai phân khu phía Bắc đào tạo các điệp viên hoạt động tại Mỹ, Canada và
Anh. Hai phân khu phía Nam mô phỏng Úc, New Zealand và Nam Phi.
Các
điệp viên hoạt động tại Đức, Áo, Thụy Sĩ và các nước thuộc bán đảo
Scandinavia sẽ trải qua kỳ huấn luyện cuối cùng tại trường tình báo nằm ở
Prakhov, cách thủ đô Minsk của Belarus 70 dặm về phía Đông Bắc.
Quá
trình học tập được các chuyên gia giám sát đến từng chi tiết nhỏ nhất
ví dụ như trò chuyện chỉ được nói bằng tiếng nước ngoài.
Nhiều
“cư dân” trong các thành phố mô hình này xuất thân từ chính quốc gia đó
và họ phải mô phỏng lại chính xác những gì đã từng sống. Tất cả hàng
hóa trong các cửa hàng được nhập khẩu trực tiếp, chúng là những thứ như
sách báo, tạp chí, vé xe buýt, tem thư, tờ quảng cáo…
Các
sản phẩm văn hóa nước ngoài như phim ảnh, chương trình radio… được nhân
viên KGB ở các đại sứ quán của Liên Xô thu thập bằng cách ghi vào các
cuộn phim rồi sau đó gửi về nhà qua đường thư tín ngoại giao. Qua đó,
những điệp viên đang thực tập có thể làm quen với cuộc sống, tâm tư tình
cảm của nhiều giai tầng xã hội khác nhau của một quốc gia xa lạ.
Tương
tự, giá cả hàng hóa, sản phẩm luôn được cập nhật liên tục. Hàng tuần,
các nhân viên KGB nước ngoài phải chạy đi khắp các cửa hàng ở nhiều
thành phố lớn nhỏ, ghi nhận sự thay đổi về giá và chuyển thông tin đó
về. Các thành phố mô hình vì thế luôn là bức tranh thu nhỏ chính xác với
thực tế.
Trong
thời gian huấn luyện, các điệp viên sẽ nhận lương hàng tuần tương ứng
với mức chi trả ở quốc gia mà họ sẽ đến, và họ phải xoay sở sinh sống
với số tiền đó. Họ được học cách gọi món ăn trong nhà hàng, mua vé xem
phim, gọi taxi… Các giáo viên thường xuyên tổ chức các buổi ăn nhậu, và
trong trạng thái say xỉn, các học viên vẫn phải hoàn thành nhiệm vụ của
mình. Nếu vô tình ai trong số họ buộc miệng nói sang ngôn ngữ mẹ đẻ sẽ
phải chịu hình phạt rất nặng và có thể bị đuổi khỏi trường. Trải qua
nhiều giai đoạn huấn luyện và tuyển lựa, chỉ có những cá nhân xuất sắc
nhất được giữ lại.
Nhà
văn Benard Hitton, cựu ủy viên Bộ chính trị Đảng cộng sản Tiệp Khắc sau
này mô tả lại những gì ông được chứng kiến. Theo đó, chương trình đào
tạo được bắt đầu bằng khóa học giáo dục chính trị dài 4 tháng đi kèm với
vòng sơ tuyển tại trường Macxit gần Matxcơva. Hầu hết những học viên
nam nữ bước qua cánh cổng canh gác nghiêm ngặt của trường đều không ngờ
rằng họ sẽ được chọn lựa đào tạo thành điệp viên. Họ nghĩ đơn giản rằng
việc kiểm tra quá khứ, nhân thân, quan điểm chính trị… trước khi vào học
chỉ là mối quan tâm của KGB về việc làm trong sạch Đảng.
Một
ngày làm việc bắt đầu bằng bữa sáng lúc 7 giờ và kết thúc bằng bài
giảng chung lúc 10 giờ tối. Có hai khoảng thời gian giải lao chính dành
cho hai bữa ăn trưa và chiều cộng với hai lần nghỉ 15 phút thư giãn. Các
tiết học hầu như vắt kiệt sức các công dân trẻ, chủ đích khiến họ không
thể phát sinh tình cảm trai gái dù được bố trí sống chung kí túc xá.
Mỗi lứa sinh viên chỉ có vài người được chọn ra bước tiếp vào cấp đào
tạo cao hơn tại Trường kỹ thuật Lenin.
Trong
ngôi trường mới này, kỷ luật hà khắc không thua gì trong quân đội người
Spartan. Vật dụng cá nhân của các học viên bị hạn chế đến mức tối
thiểu, họ ngủ trên những chiếc giường sắt san sát nhau trong một căn
phòng lớn ngăn cách bởi những chiếc tủ hẹp. Mục đích đào tạo của trường
Lenin là phát triển trí lực và thể lực của các học viên, chuẩn bị cho
công việc tình báo tương lai.
Một
buổi sáng bình thường bắt đầu bằng quãng đường dài chạy maraton trong
khu tập luyện. Các môn học thể lực rất đa dạng, từ nhảy dù cho đến lái
xe tốc độ cao, và tất nhiên quan trọng nhất là môn võ cận chiến hướng
dẫn bởi các chuyên gia KGB…
Năm
1970, điệp viên đào ngũ Aleksander Demidov đã chuyển cho tình báo
phương Tây mọi thông tin về chương trình đào tạo bí mật tại Trường kỹ
thuật Lenin. Là con trai của một sĩ quan quân đội Chechnya, Demidov được
gửi đến đào tạo tại trường tình báo năm 1966.
Lời kể của một nhân chứng. Lớp học không dành cho thường dân
“Đồng
phục của học viên là quần tây ống rộng, áo len và mũ két. Không ai khác
biệt với ai và chúng tôi phải tuân theo một nội quy nghiêm khắc. Các
lớp học thường diễn ra theo nhóm khoảng 30 người nhưng cũng có lúc ít
hơn trong những giờ học đặc biệt. Huấn luyện viên từ Matxcơva thường
xuyên được gửi đến cho những buổi huấn luyện đặc biệt và tuyệt mật” –
Demidov hồi tưởng.
Khóa
học chính gồm các môn chính trị, kinh tế, tội phạm học, mật mã học,
nhiếp ảnh và phương pháp thiết lập và duy trì liên kết tình báo. Các học
viên luôn luôn được nhắc nhở và nhấn mạnh về tính khắc nghiệt của nghề
nghiệp tương lai. Bài giảng được chia thành hai loại:
“Sạch”
và “Bẩn”. “Sạch” bao gồm các phương pháp tuyển mộ áp dụng với những
người tình nguyện làm việc cho Liên Bang Xô Viết xuất phát từ lý tưởng
chính trị chung. “Bẩn” được gói gọn trong “hối lộ, cưỡng ép và đe dọa”.
“Chúng
tôi được hướng dẫn cách thiết lập “bẫy mật” và thu thập dữ liệu nhạy
cảm”, Demidov nói. Sau bài giảng về công việc “Bẩn”, các sinh viên sẽ áp
dụng ngay lý thuyết vào thực tế.
Mặc
dù điệp viên sử dụng “chim én” và “quạ đen” chuyên nghiệp (những người
chuyên bán dâm) là chính để giăng bẫy con mồi, nhưng trong trường hợp
cần thiết, các chàng trai và cô gái buộc phải sử dụng chính thân thể của
mình.
“Trước
tiên, đàn ông bị ra lệnh ngủ với các bạn gái cùng lớp của họ trong
phòng sinh hoạt chung, mục đích để giải thoát họ khỏi những cấm kỵ trong
tình dục. Và tiếp theo họ sẽ phải làm tình với nhau. Việc này không
nhằm biến họ thành những người đồng tính, nó chỉ chuẩn bị cho họ về mặt
tâm lý nếu trường hợp cần thiết phải làm như thế để đạt mục đích”,
Demidov kể.
Trong
suốt các giai đoạn đào tạo, câu châm ngôn tất cả sinh viên đều phải
thuộc lòng là: “Tất cả những công việc, nếu có thể mang lại lợi ích cho
quốc gia, bắt buộc phải làm!”. Demidov nhớ lại: “Trong giờ học, các sinh
viên thường có cảm giác không thoải mái, nhưng đến cuối cùng họ đều
vượt qua điểm yếu của mình”.
Giữ
vị trí quan trọng trong thời khóa biểu là môn bắn súng ngắn. Những
phương pháp tinh tế nhất được áp dụng dựa trên kinh nghiệm từ Hoa Kỳ rèn
luyện học viên khả năng bắn trúng mục tiêu trên đường phố đông người.
Một số hoạt cảnh trong phim được chiếu trên một tấm bảng có bia ngắm và
huấn luyện viên chỉ vào mục tiêu, các sinh viên phải bắn trúng đích đồng
thời không được làm bị thương những người xung quanh.
Bên
cạnh loại súng tự động bình thường, các điệp viên tương lai còn làm
quen với loại súng ngắn bắn gas hãm thanh. “Vũ khí đó dài khoảng 10cm và
chính xác nhất trong khoảng cách 7,6m, nó tạo ra âm thanh lớn không hơn
một cái búng tay và có thể giết chết mục tiêu trong vòng 4 giây. Nguyên
nhân của cái chết rất khó để xác định”. Học viên còn được hướng dẫn sử
dụng chất độc cũng như cách pha trộn chúng với thức uống có cồn, bánh
ngọt hay thuốc lá, và hiển nhiên cả cách tự bảo vệ mình khỏi những thứ
đó.
Con đường không trải hoa hồng
Qua
nhiều kỳ thi tổng kết khó khăn, những sinh viên tốt nghiệp sẽ được đi
nghỉ dưỡng một tháng ở vùng Kavkaz, rồi sau đó trở về Matxcova thực tập
một tháng nữa trong điều kiện gần với thực tế. Trong thời gian đó, họ sẽ
bị bắt cóc và giam giữ một cách bất ngờ, theo sau là màn tra tấn và hỏi
cung khắc nghiệt. Cả phụ nữ lẫn đàn ông sẽ bị lột trần và đánh đập bởi
các điều tra viên của KGB. Rất nhiều người, đặc biệt là phụ nữ, không
chịu nổi bài kiểm tra đó. Những ai vượt qua tất cả thử thách để khẳng
định mình cuối cùng sẽ nhận được sự phê duyệt và trở thành nhân viên của
KGB.
Năm
1973, một bản hướng dẫn đào tạo của Trường kỹ thuật Lenin viết bởi bốn
sĩ quan cao cấp KGB lọt vào tay của Cục tình báo trung ương Mỹ CIA, nội
dung của nó làm rõ nhiều điều và cung cấp những thông tin quan trọng về
mục tiêu của các điệp viên Liên Xô nằm vùng tại Mỹ.
Theo
đó, Tổng thống Mỹ và Nội các chính phủ, các thành viên Hội đồng an
ninh, Nghị viện, Bộ quốc phòng, CIA, FBI là những mục tiêu bị nhắm đến.
Ngoài họ ra, những viên chức chính phủ, học giả, nhà kinh tế, kỹ sư,
những người trẻ tuổi… có triển vọng làm việc cho chính phủ, các công ty,
tập đoàn quốc phòng hay các trung tâm nghiên cứu bí mật cũng được để
mắt đến.
Trong
một ví dụ cụ thể, tài liệu hướng dẫn trên có đề cập đến một trường hợp
phương pháp sex – tình báo được áp dụng thành công để moi thông tin từ
một viên chức của Liên hiệp quốc.
Thực
hiện nhiệm vụ này là một “quạ đen” với bí danh là Del. KGB thu dụng Del
bằng phương pháp “Sạch”, có nghĩa là thuyết phục được sự tình nguyện,
và trao cho anh ta công việc biên tập trong một tờ báo nhỏ. Vỏ bọc này
giúp thu thập được một ít thông tin không đáng kể về LHQ cho đến khi một
nhiệm vụ đặc biệt được giao cho Del – quyến rũ một nữ nhân viên làm
việc trong tổ chức này.
Del
không chỉ thành công chiếm trọn tình cảm của người phụ nữ mà còn thuyết
phục được cô ta làm việc cho KGB. Từ câu chuyện này cho thấy, những
điệp viên nguy hiểm và lạnh lùng được đào tạo bài bản của KGB đã thuộc
nằm lòng nguyên tắc áp dụng sex vào công việc ngay từ khi bước chân vào
nghề. Phương pháp này không chỉ rẻ tiền, hợp pháp mà còn khá hiệu quả để
moi thông tin.
Đối
với các “chim én” và “quạ đen” làm mồi, nhiệm vụ của họ đã hoàn thành
ngay sau khi lên giường được với đối tượng, kết quả chiến dịch và thông
tin mật họ không được phép biết đến. Mặc dù chỉ thực hiện vai trò “bán
thân”, họ không tự xem mình đang làm nghề đó. Nhiều “quạ đen” có công ăn
việc làm đàng hoàng và chỉ đeo đuổi công việc với KGB vì sở thích và
lợi ích vật chất.
No comments:
Post a Comment