Tidoo Nguyễn
![]() |
Người tị nạn Việt Nam vượt biên đến cảng Hamburg trên vào cứu hộ Cap Anamur II, vào mùa hè năm 1986. Ảnh: wikipedia.org |
Mùa xuân vốn dĩ là mùa của đoàn tụ,
nghỉ ngơi, giải trí - là khoảng thời gian an vui và hạnh phúc đối với
người Việt Nam. Thế nhưng, liệu người dân Việt Nam, đặc biệt là người
dân miền Nam Việt Nam đã từng có một mùa xuân đúng nghĩa như lời ca khúc
Mùa Xuân Đầu Tiên của nhạc sĩ Văn Cao?
Nhạc sĩ Văn Cao hoàn thành ca khúc Mùa Xuân Đầu Tiên theo đơn đặt hàng của báo Sài Gòn Giải Phóng. Ca khúc được đăng lần đầu trên số báo Xuân của tờ Sài Gòn Giải Phóng
dịp Tết Bính Thìn, năm 1976. Thực tế, ý tưởng cho nhạc phẩm này vốn dĩ
đã được ông ấp ủ từ năm 1973 – thời điểm sau khi các bên gồm Hoa Kỳ, Bắc
Việt, Việt Cộng và Việt Nam Cộng hòa đã ký kết Hiệp định Paris vào ngày
27 Tháng Một năm 1973. Hiệp định này kêu gọi việc ngừng bắn giữa miền
Bắc và miền Nam Việt Nam, đánh dấu bằng việc quân đội Hoa Kỳ rút về
nước.
Dường như "mùa xuân đầu tiên" ấy chỉ
thực sự hiện diện ở miền Bắc khi họ đã thỏa mãn được ý muốn chiếm miền
Nam hay thậm chí chỉ có trong mơ ước của nhạc sĩ Văn Cao, khi ông viết
ca khúc Mùa Xuân Đầu Tiên. Qua đó, bức tranh yên bình trong mơ của nhạc sĩ Văn Cao được ông “vẽ” bằng những hình ảnh "khói bay trên sông, gà đang gáy trưa, người mẹ nhìn đàn con nay đã về" và cảm động nhất là “từ đây người biết yêu người”.
Trong khi đó, miền Nam cùng thời lại chìm trong bầu không khí ảm đạm,
vì nhiều gia đình phải ly tán, xã hội nghèo đói và hỗn loạn …
Sau năm 1975, cuộc sống của nhiều gia
đình ở miền Nam Việt Nam hoàn toàn đảo lộn. Các sĩ quan của chế độ Việt
Nam Cộng Hòa bị đưa đi cải tạo, nền kinh tế về đối nội bị “ngăn sông cấm
chợ”, còn đối ngoại lại bị Hoa Kỳ cấm vận nghiêm ngặt. Thanh niên trai
tráng lúc đó bị bắt đi lính để tham gia chiến trường Cambodia với danh
nghĩa là “làm nghĩa vụ quốc tế”, dẫn đến hậu quả là nhiều gia đình có
con bị chết mất xác, nếu may mắn trở về cũng bị tàn phế thân thể hoặc
tâm thần có vấn đề. Những thanh niên còn ở lại nhà thì bị bắt đi làm
thủy lợi (đào lòng hồ, đào kênh) với danh nghĩa là “nghĩa vụ lao động” như chính sách trong thời miền Bắc chưa chiếm được miền Nam.
Các gia đình có liên quan đến “Mỹ,
ngụy” đều bị ép đi kinh tế mới ở nơi thâm sơn cùng cốc, con cái họ muốn
học đại học cũng bị từ chối. Quyền tự do con người ở miền Nam hoàn toàn
bị tước đoạt. Ví dụ quyền bầu cử chỉ là hình thức. Người lớn lúc ấy
thường truyền tai nhau rằng việc họ buộc phải đi bầu cử chỉ là hình
thức, bởi các chức vụ lãnh đạo đã được các ông bà cán bộ chỉ định sẵn.
Đứng trước tình cảnh ngặt nghèo sau
khi Sài Gòn sụp đổ, nhiều người miền Nam dường như chưa từng có mùa
xuân, buộc phải lựa chọn con đường “chôn dầu vượt biển” để tìm kiếm tự
do. Nỗi đau ly hương và khát vọng tìm tự do đã được nhạc sĩ Châu Đình An
bày tỏ trong ca khúc Đêm Chôn Dầu Vượt Biển được sáng tác hồi Tháng Năm 1980 tại trại tị nạn Hồng Kông. Những hình ảnh bi thương trong bài hát khiến lòng người không khỏi se thắt:
“Đêm nay anh gánh dầu ra biển anh chôn,
Đêm nay đêm tối trời anh bỏ quê hương
Ra đi trên chiếc thuyền hy vọng vượt trùng dương…
Anh phải bỏ đi thắp lên ngọn lửa hy vọng
Anh phải bỏ đi để em còn sống
Anh phải rời xa mẹ Việt Nam đau đớn…
Hiên ngang trên sóng gào tự do đón chào
Xin chào tự do với nỗi niềm cay đắng…”
Đêm nay đêm tối trời anh bỏ quê hương
Ra đi trên chiếc thuyền hy vọng vượt trùng dương…
Anh phải bỏ đi thắp lên ngọn lửa hy vọng
Anh phải bỏ đi để em còn sống
Anh phải rời xa mẹ Việt Nam đau đớn…
Hiên ngang trên sóng gào tự do đón chào
Xin chào tự do với nỗi niềm cay đắng…”
Từ đó đến nay, dòng người Việt Nam nói
chung và người miền Nam nói riêng vẫn không ngừng ra đi tìm tự do và
cuộc sống tốt đẹp hơn tại các quốc gia dân chủ, phát triển. Những quốc
gia đó là Nhựt Bổn, Đài Loan, Nam Hàn, Hoa Kỳ, Canada, Úc, Đức, Malta,
Singapore v.v… Cá biệt, có không ít người khi bị quy kết là “phản động”
phải “vượt biên” bằng đường bộ đến Cambodia để tìm cơ hội sống sót.
Nếu thế hệ thuyền nhân (thập niên 80 –
90) phải liều mình vượt biên trên những chiếc thuyền nhỏ bé đầy nguy
hiểm, thì ngày nay, người Việt tiếp tục rời bỏ quê hương bằng nhiều
cách, từ hợp pháp đến bất hợp pháp. Hợp pháp là đi theo diện đoàn tụ gia
đình, du học, đầu tư (mua thẻ xanh), kết hôn với người có quốc tịch
ngoại quốc, xuất khẩu lao động, hay giám hộ học sinh du học chưa đủ tuổi
trưởng thành. Còn bất hợp pháp là xin visa du lịch nhưng sau đó trốn ở
lại; đi ra ngoại quốc bằng hợp đồng lao động chính thức nhưng sau đó
trốn ở lại làm việc bất hợp pháp; ẩn mình trong những xe tải để vượt
biên giới từ Pháp sang Anh hoặc từ Trung – Nam Mỹ đến Mỹ…
Điều khôi hài là số người tìm đủ mọi
cách ở lại ngoại quốc hợp pháp hay bất hợp pháp đều có dân miền Bắc,
“cái nôi” của cộng sản Bắc Việt.
Mặc dù chưa có số liệu chính thức cho
biết có bao nhiêu người Việt Nam đang sinh sống ở hải ngoại, nhưng rõ
ràng, số lượng người Việt đang định cư tại nhiều quốc gia trên thế giới,
đặc biệt là tại Hoa Kỳ, ngày càng tăng. Cộng đồng người Việt ở hải
ngoại ngày càng phình to, không khỏi làm người trong nước trăn trở phận
mình.
Theo thống kê về người Việt sinh sống tại 49 quốc gia,
tính đến năm 2023, cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ đứng đầu trong danh
sách người Việt ở hải ngoại, với khoảng 2,346,000 người. Một con số khôi
hài khác là tại Cambodia hiện có từ 400,000 đến 1,000,000 người gốc
Việt, đưa quốc gia này lên vị trí thứ hai về số người Việt định cư. Đứng
thứ ba là cộng đồng người Việt tại Nhựt Bổn, với khoảng 520,154 người
(năm 2023). Tại Pháp, cộng đồng người Việt được xếp ở vị trí thứ tư, với
khoảng 400,000 người (năm 2022). Trong khi đó, Úc giữ vị trí thứ năm
với 334,781 người (năm 2021). Các quốc gia tiếp theo trong danh sách
gồm: Canada với 275,530 người (năm 2021), Đài Loan với khoảng 246,973
đến 470,000 người (năm 2023), Nam Hàn với 209,373 người (năm 2022), và
Đức với khoảng 215,000 người (năm 2023).
Đến khi nào không còn những dòng người
bỏ quê hương ra đi thì may ra đất nước Việt Nam mới có “mùa xuân đầu
tiên” đúng nghĩa. Những người bỏ nước ra đi không chỉ để tìm “mùa xuân”
cho bản thân mà còn mang “mùa xuân” về cho gia đình, “mang tiền về cho mẹ”, để thỏa lòng mong ước cho “bầy trẻ thơ ngây chờ mong anh trai sẽ đem về cho tà áo mới. Ba ngày xuân đi khoe xóm giềng” (trích lời ca khúc Xuân Này Con Không Về).
Sự kỳ vọng của gia đình, cha mẹ và các
em dành cho người ra đi đôi khi mãi mãi không trở thành hiện thực, bởi
không ít người đã phải bỏ mạng nơi xứ người. Nếu như trước đây, những
người vượt biên từng mất xác trên biển, thì ngày nay, những người đi tìm
"mùa xuân" ở đất khách có thể mất mạng vì nhiều nguyên nhân khác nhau.
Mới đây, trang báo điện tử Tuổi Trẻ đưa tin bốn công dân Việt Nam - hai nam và hai nữ - đã thiệt mạng tại Đài Loan, nghi do ngộ độc khí carbon monoxide (CO).
Danh tính các nạn nhân được xác định
là anh Nguyen (22 tuổi), anh Tran (27 tuổi), chị Nguyen (23 tuổi) và chị
Phan (20 tuổi). Trong đó anh Nguyen và anh Tran bị nghi là người lao
động nhập cư bỏ trốn; chị Nguyen có giấy phép lao động hợp pháp tại Đài
Loan; còn chị Phan là du học sinh chương trình trao đổi - đang theo học
tại một trường đại học ở miền Nam Đài Loan.
Như vậy, có thể thấy rằng nhiều người
dân Việt Nam thà chấp nhận rời bỏ quê hương, dù biết có thể mất mạng,
còn hơn là tiếp tục sống trong một đất nước chưa từng có “mùa xuân” thực
sự. Thử hỏi một đất nước làm sao có “mùa xuân” trong khi đến nay vẫn
chưa có bất kỳ chính sách miễn phí nào dành cho giáo dục, y tế?
Hậu quả là trẻ em nhiều nơi phải bỏ
học vì không đủ tiền đi học, bệnh nhân nhiều người bị chết oan, buộc
phải bỏ điều trị vì không đủ tiền tạm ứng viện phí. Bên cạnh đó, các
chính sách hỗ trợ từ nhà nước nếu có thì hầu như không đáng kể. Chẳng
hạn, chính sách khuyến khích phụ nữ sinh hai con chỉ hỗ trợ tối đa ba
triệu đồng mỗi người - một khoản tiền chẳng đáng là bao, thậm chí không
rõ là được cấp theo tháng, theo năm hay chỉ một lần duy nhất. Trong khi
đó, chi phí để nuôi dạy một đứa trẻ hiện nay đang là gánh nặng cho phụ
huynh, khiến nhiều người trẻ không dám kết hôn và không dám đẻ con, dẫn
đến tỷ lệ sinh con ở thành thị ngày càng thấp.
Trong khi đó nhà nước chỉ tìm cách thu
từ người dân đủ loại phí. Mới nhất trong hai năm nay là loại phí
600,000 đồng/năm đối với từng gia đình, trong đó bao gồm: “Quỹ vận
chuyển chất thải rắn” (trong khi mỗi gia đình ở thành thị đều phải đóng
tiền đổ rác theo tháng), “Quỹ xã hội” (không hiểu loại quỹ này chi cho
việc gì), “Quỹ phường bình yên” (có bị cướp mất điện thoại hay bị giật
giỏ xách gần nhà thì cũng đừng mơ công an tìm cho), “Quỹ phòng chống
thiên tai” (loại quỹ này huy động mỗi năm từ trường học đến công sở, nhà
máy), “Quỹ quà tặng thanh niên nhập ngũ” (tại sao phải tặng quà cho
thanh niên phải làm nghĩa vụ quân sự), “Quỹ biển đảo quê hương” (tàu lạ
tấn công bắt cóc ngư dân và quân nước lạ đổ bộ lên một đảo thuộc Trường
Sa vẫn xảy ra mới đây)!!!
Thay vì những khoản chi cho mục đích
này phải được trích từ ngân sách nhà nước - tức là từ chính nguồn thuế
thu từ dân thì... chính quyền cộng sản buộc mỗi gia đình phải đóng góp
tiếp! Điều khốn nạn là dù bất bình, không gia đình nào được từ chối đóng
góp, vì từ chối sẽ bị công an tới điều tra, quấy nhiễu!
Vì thế, những người ra đi, nếu may
mắn, có thể đã tìm thấy nhiều mùa xuân nơi đất khách quê người. Ngược
lại, có lẽ họ phải mang theo hy vọng ấy sang một thế giới khác. Còn đối
với những người vẫn còn kẹt tại Việt Nam - những người có cái nhìn đúng
đắn về lịch sử và thể chế hiện nay- thì họ hiểu rằng, miền Nam Việt Nam
chưa từng có một mùa xuân đầu tiên nào cả. Khi mà từng giờ từng phút họ
sống trong lo âu, sợ bị chính quyền “mời lên phường” chỉ vì dám phản ảnh
tình trạng trì trệ hay bất cập trong cách quản lý của nhà nước trên
mạng xã hội.
Thật nực cười (hay cười ra nước mắt)
khi người dân phải chạy đôn chạy đáo lo toan cho cái ăn, cái mặc, và còn
phải nạp đủ thứ loại phí do nhà nước đặt ra, thì tiền hối lộ cho đám
cán bộ ngày càng tăng, tính từ triệu Mỹ kim trở lên!!!
Tidoo Nguyễn
No comments:
Post a Comment