Người Việt còn sống hay đã chết (1975-2025)
Người Lính Phan
Nhật Nam
Dẫn Nhập
Mỗi người, mỗi tập thể, mỗi dân tộc có một đời sống, lần chết với định
mệnh riêng. Dân Tộc Việt cảm nhận, thấy ra sự huyền nhiệm kia qua con Số
Ba: Lễ thờ cúng với phẩm vật Tam Sanh; nhà Ba Gian; Ba Miền Bắc, Trung,
Nam; Cờ Quẻ Ly; Cờ Vàng Ba Sọc... Người Việt thấu hiểu cốt lõi cấu trúc
siêu hình, lẽ huyền vi kia qua Nỗi Đau và Cơn Thống Khổ vô lường với
thân phận của mỗi người trên quê hương điêu linh qua những Tháng 3 của
năm 1972, 1975.. Người Việt hải ngoại vừa qua tháng 3, đang ở tháng
4-2025, những thời điểm khiến nhớ lần vỡ trận Ban Mê Thuột, 10/3/1975
khởi đầu bi kịch nước mất nhà tan năm mươi lăm ngày sau, 30 Tháng 4,
1975. Nay 50 năm sau 1975, thời gian đủ để nhìn lại sự việc của
quá khứ từ đó nhận ra những tất yếu của lịch sử. Những điều tất yếu mà
Dân Tộc Việt buộc phải nhận lãnh từ phận nghiệp điêu linh. Những thế hệ
người Việt sinh nơi Miền Nam, lớn lên sau 1975 phần đông trên đất Mỹ có
thể ngạc nhiên với thắc mắc: Tại sao một Miền Nam có đủ tất cả những ưu
thế so với Miền Bắc, cụ thể
thuộc về phe dân chủ-tự do được Mỹ và Tây Âu yểm trợ, giúp sức. Vậy thì
từ đâu, vì sao, VNCH chỉ một sớm một chiều sụp vỡ một cách nhanh chóng
sau 55 ngày do Bắc Việt cộng sản tấn công? Tại sao?
Một.
Tháng 3 mở đầu mùa Hè khốc liệt
1972; và Tháng Ba sau ký kết Hiệp Định Tái Lập Hòa Bình 27/1/1973 mà hai
tháng sau 27 Tháng 3, 1973 là hết thời hạn thi hành giai đoạn 4 Bên, và
Miền Nam bắt đầu nhận chịu số phận khốn đốn khi Tỉnh Phước Long bị cộng
sản lấn chiếm, tháng 12 năm 1974, cùng lúc viện trợ Mỹ bị cắt giảm toàn
diện, Hạm Đội 7 quay mũi về Trung Đông. Qua đầu Xuân tháng Ba 1975,
thêm một lần Miền Nam phải giáp mặt với câu hỏi... Bao giờ Cộng Sản tấn
công? Cộng Sản sẽ tấn công ở đâu? Không ai ở Sài Gòn có câu trả lời
chính xác.
Đầu năm 1975, phía Cộng Sản Bắc Việt đã nối được con đường từ Cao Nguyên
Trung Phần xuống đồng bằng Quảng Nam, Quảng Ngãi, lộ rõ ý định cắt đôi
Miền Nam theo trục Quốc Lộ 19 nối Bình Định - Pleiku như đã thực hiện
trong chiến tranh 1946-1954. Và đây là tiền đề của cuộc Tổng Công Kích
1975 mà Hà Nội đã quyết thực hiện bước cuối cùng để tiến chiếm Miền Nam?
Bây giờ thì ai cũng
thấy ra như thế, nhưng lúc ấy, Dinh Độc Lập, Bộ Tổng Tham Mưu ở Sài Gòn,
cụ thể với Thiếu Tướng Phạm Văn Phú Tư Lệnh Quân Đoàn II ở Pleiku lúc ấy
không thể có quyết đoán cụ thể nào khi từ năm 1972, phần cực Bắc của Cao
Nguyên Trung Phần, cứ điểm Đắk-tô, Quận Lỵ Tân Cảnh, dãy Căn Cứ 5, 6,
các trại lực lượng đặc biệt đã thuộc về vùng kiểm soát của binh đội Miền
Bắc…
Đầu năm 1975, Bộ Chính Trị, Trung Ương Đảng Cộng Sản, Bộ Tổng Quân Ủy Bộ
đội Bắc Việt chuẩn bị tấn công Miền Nam sau khi rút kinh nghiệm thất bại
từ Mậu Thân 1968, do đã quá phân tán lực lượng trên mục tiêu trải dài
qua 40 tỉnh, thành phố Miền Nam. Cụ thể trong Tổng Công Kích Xuân - Hè
1972, cuộc tấn công đã không hoàn tất mục tiêu chiến lược là đánh sụp
toàn bộ hệ thống quân sự-chính trị-hành chánh của VNCH, để yểm trợ chính
trị cho Hội Nghị Ba Lê đang ở thời điểm quyết định trước khi ký kết (27
Tháng 1, 1973). Quan trọng hơn hết, vào Tháng Ba năm 1975, người Mỹ đã
thực sự rút chân ra khỏi Việt Nam..
Cũng không phải đợi năm 1975 mà từ những năm 1972, và cũng chẳng phải là
chuyên viên quân sự-chính trị chiến lược cao cấp, chỉ người có lưu tâm
đến thời cuộc, chiến cuộc cũng có thể nhìn thấy tình hình quân sự nguy
ngập của Miền Nam. Từ sau trận chiến Mùa Hè 1972 một phần cực Bắc của
Cao Nguyên Trung Phần, gồm cứ điểm Dakto, Quận Lỵ Tân Cảnh, dãy Căn Cứ
5, 6, các trại Lực Lượng Đặc Biệt đã thuộc về vùng kiểm soát của Cộng
Sản Miền Bắc. Có nghĩa Bắc Quân đã nối được con đường từ Cao Nguyên
Trung Phần xuống đồng bằng Quảng Nam, Quảng Ngãi, lộ rõ ý định cắt đôi
Miền Nam theo trục Quốc Lộ 19 Bình Định - Pleiku như một lần thực hiện
trong chiến tranh 1946-1954. Nhưng không chỉ có thế, năm 1975 Bộ Chính
Trị, Bộ Tổng Quân Ủy đảng Cộng Sản Việt Nam đã điều quân dưới Nghị Quyết
chiến lược số 21 (Nghị quyết nầy được Trung Ương Cục Miền Nam phổ biến
với bí số 12). "Cuộc tấn công toàn diện ở Miền Nam Việt Nam phải được
thực hiện đồng loạt và tràn ngập, liên kết ba mũi, chủ động cả ba mặt
trên khắp ba vùng..."Ba mũi là tấn công quân sự, tấn công chính trị, tấn
công binh vận. Ba mặt, diện quân sự, diện chính trị, diện ngoại giao.
Ba vùng gồm vùng cộng sản đã kiểm soát được; vùng tranh chấp (xôi đậu);
và vùng Việt Nam Cộng Hòa. Với chỉ đạo chiến lược nầy, Cộng Sản Bắc
Việt lập kế hoạch tấn công lật đổ chế độ VNCH sau khi đã rút kinh nghiệm
từ Mậu Thân 1968, và trận chiến Xuân-Hè 1972, để năm 1975 có đủ ưu thế
vượt trội về quân sự cùng an toàn tuyệt đối về chính trị. Chúng ta cùng
đi tiếp lần sụp vỡ Miền Nam bắt đầu từ tháng Ba, 1975.
Hai.
Mặt Trận B3 là bí danh quân sự phía Cộng Sản Bắc Việt chỉ Vùng Cao
Nguyên Trung Phần của VNCH, trong ngày 10/3, Sư Đoàn F10 dưới quyền chỉ
huy của các tướng Bắc Việt Hoàng Minh Thảo, Vũ Lăng đồng loạt tấn công
Ban Mê Thuột. Cuộc tấn công được tăng cường Sư Đoàn 320 là đơn vị cơ hữu
đã có mặt từ trước nơi vùng B3 nầy, thêm Sư Đoàn 316 từ Miền Bắc mới xâm
nhập, và Sư Đoàn 341 tổng trừ bị. Sư Đoàn 316 rời Miền Bắc vào Nam từ
1974 để chuẩn bị chiến trường cho Tướng Văn Tiến Dũng, nhân vật số 2 của
quân đội Miền Bắc. Tướng Dũng đã vào Nam từ ngày 5 tháng 2/1975 bằng một
chiếc máy bay Antonov 24 nhưng mãi đến Tháng 4, CIA Mỹ mới khám phá ra.
Lực lượng Cộng Sản đánh Ban Mê Thuột gồm khoảng 25.000 người có pháo
binh, chiến xa phối hợp yểm trợ.
Đối lại tại thị xã Ban Mê Thuột, phía VNCH chỉ có khoảng 1200 quân gồm
lính hậu cứ của Sư Đoàn 23 Bộ Binh, lực lượng Địa Phương Quân Tiểu Khu
Đắk-Lắc, và Liên Đoàn 22 Biệt Động Quân. Tức tỷ lệ 20 đánh 1. Thế nên từ
2 giờ sáng ngày 10 tháng Ba, giờ mở lệnh tấn công (mà Tướng Dũng ước
tính mặt trận Ban Mê Thuột sẽ chấm dứt sau một tuần) chỉ đến 5 giờ 30
chiều cùng ngày 10, thị xã Ban Mê Thuột phần lớn đã bị quân Bắc Việt
chiếm đóng, cho dù Biệt Động Quân, Sư Đoàn 23 Bộ Binh vẫn tiếp tục chiến
đấu.
Với tỷ lệ 20 đánh 1 có pháo binh, chiến xa yểm trợ (chỉ không có phi cơ)
phía Cộng Sản làm sao không đánh thắng? Chưa hết, năm 1975 Hà Nội đánh
chiếm Miền Nam với hai lợi điểm, phải nói hai ưu thế quyết định: Sự
bất ngờ tình báo được bảo đảm toàn hảo và cái ô chính trị tuyệt đối an
toàn. Khi CS quyết định tiến chiếm thị xã Ban Mê Thuột cực Nam của
vùng Cao Nguyên Trung Phần, nơi tương đối bình an của Vùng II, mục tiêu
không hề được tính đến trong suốt mười lăm năm chiến tranh khởi đi từ
1960. Thế nên từ 2 giờ sáng ngày 10 tháng Ba, giờ mở lệnh tấn công (mà
Tướng Dũng ước tính mặt trận Ban Mê Thuột sẽ chấm dứt sau một tuần) chỉ
đến 5 giờ 30 chiều cùng ngày 10, thị xã Ban Mê Thuột phần lớn đã bị quân
Bắc Việt chiếm đóng, cho dù Biệt Động Quân, Sư Đoàn 23 Bộ Binh vẫn tiếp
tục chiến đấu. Tướng Dũng cứ tưởng như là giấc mơ.
Tướng Dũng cũng không thể nào tin khi được báo cáo: Quân Đoàn II tháo
chạy! Bởi ông không biết trong cuộc họp Ngày 14 Tháng Ba, 1975 ở Cam
Ranh, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã không nói rõ ràng về ý niệm điều
quân:
"Nếu có thể thực hiện triệt thoái khỏi Pleiku, Kontum thì cũng có thể
chiếm lại Ban Mê Thuột?!" Những người cầm đầu cộng sản ở Hà Nội cũng
không nghe tới tính toán: "Ngày
trước với một tỷ rưỡi đồng Đô-la thì giữ được bốn vùng, bốn quân khu.
Nay với 700 triệu thì chỉ giữ được hai Quân Khu III và IV”. Họp
xong, ba ông tổng thống, thủ tướng, và tổng tham
mưu
trưởng, ba tướng lãnh quân đội trở lại Sài Gòn. Tướng Tư Lệnh Phạm Văn
Phú bay về Nha Trang. Để lại trách nhiệm chỉ huy toàn bộ cuộc di tản cho
tướng lãnh được vinh thăng cuối cùng của Quân lực VNCH, Chuẩn Tướng Phạm
Duy Tất.
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, quốc gia tên gọi "Việt Nam Cộng Hòa" bắt đầu
"chết" từ điểm tắt thở nầy. Đây là cuộc hành quân di tản toàn Vùng Cao
Nguyên, một Quân Khu II trên một đoạn đường 228 cây số mà 10 năm nay
không được xử dụng (Trên bản đồ quân sự đoạn Hậu Bổn (Cheo Reo) đến Sơn
Hòa chỉ màu XANH, chỉ đọan đường KHÔNG XỬ DỤNG ĐƯỢC). Nguy hai hơn nữa,
cuộc hành quân rút lui KHÔNG CÓ LỆNH HÀNH QUÂN điều hành, thống nhất chỉ
huy! Cũng bởi Tướng Phạm Duy Tất, chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân Quân Khu
II chỉ thực sự chỉ huy những đơn vị Biệt Động Quân thuộc quyền. Đêm 16
tháng 3/75, các đơn vị quân đội âm thầm bất ngờ triệt thoái được êm
xuôi… Nhưng đến sáng hôm sau, dân chúng hay được, hoang mang, hốt hoảng
vội vã ùa chạy theo đoàn quân với bất cứ phương tiện di chuyển nào kể cả
chạy bộ. Quân Cộng Sản bắt đầu đuổi theo, nã pháo thẳng vào đoàn di tản.
Trời Cao Nguyên buổi tàn xuân gây gây rét vào sáng, càng về trưa nắng
cao và nóng khô khan, đường bụi mù tung đỏ bám vào thành xe, nòng pháo,
khí cụ, tóc và da mặt người, vạn tròng mắt đỏ rực. Những tròng mắt mệt
mỏi lo âu, tuyệt vọng. Phía sau lưng, thị xã Pleiku bốc lửa ngọn, khói
đen đặc ngật ngật bay lên cao hơn đỉnh núi Hàm Rồng. Lửa lóng lánh ánh
sáng kinh dị trong mắt những người lính Liên Đoàn 7 Biệt Động Quân,
thành phần hậu vệ đoàn di tản.
Pleiku, thị trấn thủ phủ của miền Cao Nguyên luôn chĩu lặng sương mù nay
oằn thân vật vã trong màu lửa địa ngục. Lửa từ đống kim loại, khí giới,
từ những kho quân nhu, quân cụ soi loang loáng chập chờn những đường
dốc hun hút lẫn khuất dưới tàn thông. Tất cả đồng nhóm lên màu đỏ
chói. Màu của máu. Đoàn di tản qua được một ngày bình an. Bình an sống
sót qua đói, khát, nhục nhằn và lo âu. Lính gục trên mũi súng, đàn bà,
con trẻ nằm rũ lên hành lý, thành xe, đất cát. Được sống, được ngủ là
hạnh phúc quá lớn hở Tri? Còn biết kêu vào đâu? Với ai?
Bình an của ngày đầu tiên này không kéo dài được lâu, bởi phía cộng sản
trong ngày 16 đã tìm ra đáp số cho câu hỏi: Quân Đoàn II đang tính gì
sau chấn thương ngày 10 tháng Ba tại điểm bất ngờ Ban Mê Thuột? Qua máy
dò tìm làn sóng, Bộ Tư Lệnh Mặt Trận B3, tổng quát hơn chiến dịch tấn
chiếm miền Nam, chiến dịch mang bí số 275, choáng người vì thắng lợi quá
mau chóng, quá lớn, Quân Đoàn II đang tháo chạy! Dần dần họ khám phá vài
phi cơ C47, C130 xuất phát từ phi trưng Cù Hanh (Pleiku) đi Nha Trang
không có lượt bay về. Viên chuẩn úy nằm vùng trong Sư Đoàn 2 Không Quân,
người đã điều chỉnh pháo binh chính xác từ bao ngày qua, người quan sát
các phi xuất di tản đã đến hồi lộ mặt không ngần ngại - Anh ta báo cáo
bằng bạch văn! Sự kiện đã trút gánh nặng âu lo "phía cộng hòa có thể
điều quân tái chiếm" ra khỏi đầu Văn Tiến Dũng.
Tướng Dũng mắng thẳng và đe dọa Kim Tuấn, viên tư lệnh Sư Đoàn 320: "Nếu
đồng chí để vuột mất đoàn di tản thì phải chịu hoàn toàn trách
nhiệm". Bởi, Kim Tuấn đã từng cam kết: "Một đơn vị cơ giới với chiến xa,
pháo binh nặng không thể nào đi qua đường 7B được..." Quả thật, ông
Nguyễn Văn Thiệu ít ra cũng lừa được một người cũng như trong mười điều
sai ông cũng có một điều đúng với câu nói: "Đừng nghe những gì cộng
sản nói...". Sư Đoàn 320 được lệnh băng rừng truy kích đoàn di tản
và Sư Đoàn 968 trên đường bôn tập từ Lào về Pleiku cũng được lệnh đâm
ngang từ ngã ba Thanh An, chuyển hướng hành quân dài theo Tỉnh Lộ 7 về
đồng bằng.
Văn Tiến Dũng thở phào nhẹ nhõm... Vậy là không có phản công tái chiếm
như sau lần bỏ Khe Sanh (1968), chịu mất Quảng Trị 1972, lần bốn mươi
thành phố Miền Nam bị tấn công Tết Mậu Thân. Lần này quân Cộng Hòa, "bọn
Ngụy Quân" đã bị bẻ gãy ngay xương sống. Ngày 16 Tháng 3, một Chủ Nhật
điêu linh tan nát dọc con đường
đỏ sẫm đất núi và máu rây. Đoàn di tản bị chận ở phía Đông Củng Sơn, bị
cắt rời ở quận Phú Túc, bị đuổi đập từ tây quận lỵ Phú Bổn. Xe tăng cán
ngang lên GMC, xe GMC hất xe đò xuống vực thẳm, cũng hất luôn những xe
jeep của thành phần thuộc các đơn vị yểm trợ, chuyên môn của Quân Đoàn,
Tiểu Khu Pleiku, cán qua những chiếc xe Dodge4 của Địa Phương Quân chất
đầy người già, trẻ em tan nát. Chiếc Vespa của một gia đình chạy lông
lốc, xiêu vẹo trên sườn đồi, đứa con, người vợ rơi tơi tả, người chồng,
người cha rơi cuối cùng với chiếc xe vỡ toang trên mỏm đá!
Súng nổ... 105, 155 pháo binh, XM72 của phía cộng hòa; 130 ly, 122 ly,
B40, B41 Cộng Sản tất cả cùng hòa vào nhau thành một luồng hỗn âm tan
tác làm rung rinh sắc núi mờ đục ánh nắng. Mặt Trận
bị chìm khuất trong khói xám. Có xác bà già ngồi dựa bờ đất lên bề
đường, người khô quắp, không vết thương. Dấu hiệu sự chết chỉ được nhận
biết nơi ổ mắt, mũi, miệng... Đám kiến rừng bò lúc nhúc quay quắt đánh
hơi. Ba đứa trẻ mắt lạc thần ngồi nhìn đoạn đường hỗn loạn không cảm
giác. Bé trai nhỏ nhất gục đầu trên gối chị ngủ lay lắt. Có tiếng bắn đi
của sơn pháo thật gần. Sư Đoàn 320 Điện Biên bắn thẳng xuống đoàn di tản
không sai trật một viên đạn. Lính còn rõ phản ứng trú ẩn, chống cự,
người dân chỉ biết đưa mắt nhìn lên nơi đặt súng, nơi có những tiếng nổ
khô, ngắn trước khi bị bùng vỡ phá toang. Xác người tung lên theo đất
bay bay. Cái chết không đơn giản, mau chóng bởi súng đạn. Chết còn bị
nhận chìm từ từ trong lòng chiến xa khi chiếc xe tăng chúc đầu xuống đầu
cầu nổi bắc qua sông Ba. Chiếc cầu bắc vội mỏng manh không thể nào chứa
nỗi sức nặng vạn con người, vạn chiếc xe... Chiếc tăng M48 như khối đá
ấn mạnh xuống lòng chén nứt vỡ. Trong lòng xe có tiếng hét nghẹn, trên
pháo tháp có đầu người ngoi ngóp. Người đạp lên đầu, lưng, vai người để
được thở, được sống thêm vài giây ngắn. Chiếc xe chìm xuống im lặng, kéo
theo, mang theo, đè xuống rất nhiều thây xác. Xích sắt điên cuồng đào
xoáy giòng sông máu sẫm làm quẫy lên, tung tóe những tay, chân kẹp dính
đâu dưới lườn xe.
Cuộc di tản lớn quá!
Quá
lớn nên không ai còn
sức đâu nghĩ đến lần rút lui của Liên Đoàn 32 Biệt Động Quân và lực
lượng địa phương thuộc Tiểu Khu Bình Long trấn đóng tại An Lộc, cũng
trong ngày 1 Tháng 3. An Lộc, cách Sài Gòn một trăm cây số đường chim
bay. Chiến tích lớn của năm 1972, nơi Lữ Đoàn I Nhảy dù, Liên Đoàn 3
Biệt Động Quân, Sư Đoàn 5 Bộ Binh và Liên Đoàn 81 Biệt Kích đã đẩy lui
những trận cường tập của các trung đoàn thuộc ba công trường 5, 7, 9 (sư
đoàn bộ binh thuộc quyền chỉ huy của bộ tư lệnh lực lượng vũ trang giải
phóng miền Nam có cán bộ người Bắc làm khung cơ sở) và trung đoàn Thiết
Giáp T54 phối hợp tăng cường, được yểm trợ trực tiếp bởi pháo 130 ly
hạng nặng. Chiến tích An Lộc được mua bởi giá máu của ngàn con người ấy,
bởi niềm tin, ý chí chiến đấu của Miền Nam được thể hiện nay chỉ là một
tiền đồn thụ động nằm trong tầm tác xạ của một dàn pháo cối đặt dầy xung
quanh. Tồi tệ hơn nữa, cửa ngõ phía Nam của An Lộc, khu đồn điền Xa Cam
bị quân Cộng Sản đóng chốt. Đường về Chơn Thành, phải qua tử huyệt
này. Và khi An Lộc với Liên Đoàn 32 Biệt Động, Chơn Thành với Liên Đoàn
31 bị nhổ đi, bị xé lẻ ra Phan Rang, đến Tây Ninh, lui về tận Hố Nai thì
từ căn cứ Lai Khê với Bình Dương - Sài Gòn, đoạn đường quá ngắn chỉ cần
một ngày di chuyển với đôi chân. Nhưng bởi vết thương của Tỉnh Lộ 7 kéo
dài theo hơn hai trăm cây số đường núi. Vụ triệt thoái An Lộc, Chơn
Thành đành phải quên. Phải quên, dẫu cơn hấp hối từ, của trái tim sắp
gần kề. Sài Gòn - Lai Khê đâu khoảng ba-mươi cây số, nửa giờ xe hơi.
Cuối cùng, đoàn di tản về đến Tuy Hòa ngày
25 Tháng
Ba do Tiểu Đoàn 58 Biệt Động Quân dẫn đầu. Trăm ngàn dân theo lính chạy
loạn từ Kontum, Pleiku nay còn khoảng sáu chục ngàn người nơi trại tạm
cư Đèo Rù Rì. 100.000 trừ đi 60.000 vậy đã chết bao nhiêu? Không ai có
thể tính chính xác được số dân thiệt mạng. Người chỉ biết và đau với
trường hợp từng người thân, của mỗi gia đình, của chính thịt da mình.
Trên chiếc trực thăng từ phi trường Đông Tác (Tuy Hòa) về Nha Trang,
viên Thiếu tá ngồi ôm đứa con nhỏ, gục đầu nín thinh khi đứa bé chợt
nhớ... Bà nội đâu hở ba? Trong đêm khuya nơi trại tạm cư Đèo Rù Rì, nghe
những lời than vãn rời rạc lẫn tiếng khóc nấc nghẹn ghìm ghìm. Bãi biển
Nha Trang từng khối người ngồi chập choạng dưới trăng khuya. Nha Trang
cũng mất vào tay quân Cộng Sản vài ngày sau, 30/3/1975 dẫu đơn vị chính
quy Cộng Sản chưa kịp vào đến thành phố. Nếu kể thêm bi thảm của Huế, Đà
Nẵng ở phía Bắc thì đã mất một nửa quê hương Miền Nam chưa hết một Tháng
Ba!
Ba.
Lần sụp vỡ Vùng II gây nên phản ứng giây chuyền vô cùng nguy hại đối với
Vùng I với thành phố lớn thứ hai sau Sàigòn,
Thành Phố Đà Nẵng, bản doanh Quân Đoàn I/Quân Khu I VNCH. Đà Nẵng cũng
là nơi Mỹ đổ quân, cũng một ngày Tháng 3, 1965 nhằm mở rộng chiến cuộc
trên toàn Miền Nam, khắp vùng Đông Dương. Quân Khu I gồm Quảng Trị, Huế,
Thừa Thiên, Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Tín, Quảng Ngãi. Vùng đất lửa đối
đầu với miền Bắc không khoan nhượng qua những thời điểm đẫm máu… Mậu
Thân 1968, Hạ Lào 1971, Mùa Hè Đỏ Lửa 1972. Gần đây, còn nguyên dấu vết
hung tàn ngọn lửa từ đầu hè 1972. Huế quả thật đã nhiều phen nhận sâu sự
chết. Nhưng Huế vẫn sống. Huế luôn vượt sống. Thật ra Huế-Thừa Thiên vẫn
sống được bởi sức nâng, nguồn bảo vệ từ một người anh em khốn khổ, người
anh em chung cấu tạo đặc thù mà phải tinh tế lắm mới nhận ra âm sắc
tiếng nói khác nhau qua con sông không đầy một trăm thước, sông Mỹ Chánh
ngăn ranh Quảng Trị - Thừa Thiên, với hai thị xã đúng chiều dài bảy mươi
cây số: Huế và Quảng Trị. Vùng đất dựa núi và nằm cạnh biển với cửa
Tùng, cửa Việt qua Thạch Hãn, sông Bồ, Mỹ Chánh, Hương Giang. Hai
nơi chốn khốn khổ, tội nghiệp nầy đã nâng nhau qua chiến tranh. Quảng
Trị đã chịu phần hủy hoại đến đỗi bàng hoàng. Thành phố đã trở nên đống
gạch vỡ vụn sau cơn địa chấn Xuân-Hè 1972. Tuy nhiên trong trận chiến
1972, Tướng Ngô Quang Trưởng đã có đủ quân số gồm các Sư Đoàn 1, 2, 3 Bộ
Binh và hai sư đoàn tổng trừ bị Nhảy Dù và TQLC để trấn giữ vùng lãnh
thổ trách nhiệm, nên đã phản công thành công tái chiếm Cổ Thành Quảng
Trị. Nhưng bây giờ, 1975 không phải là năm 1972 khốc liệt ấy nữa, người
Mỹ đã rút đi cùng bộ máy chỉ huy, tiếp vận tác chiến khổng lồ kể từ 27
tháng 1, 1973 theo điều khoản ấn định bởi Hiệp Định Ba Lê. Và vấn đề xử
dụng lại không quân với B52 dội bom cường tập như đã thực hiện suốt mùa
Hè 1972 không thể nào tái lập với Tổng Thống Ford đã bị quốc hội Đảng
Dân Chủ kiểm soát, khóa tay. Chính phủ Mỹ hoàn toàn tê liệt sau vụ án
chính trị Watergate.
Ngày 18 Tháng
Ba, sau khi gặp Tướng Phú ở Nha Trang, ông Thủ Tướng "khôn ngoan nhất"
miền Nam, Trần
Thiện Khiêm bay ra Đà Nẵng gặp tướng Trưởng để truyền
lại lịnh của Tổng Thống: "Sẽ
rút sư đoàn Dù; còn sư đoàn TQLC sẽ trả lại cho Sàigòn
sau đó". Tướng
Trưởng không có gì tăng cường. Không còn gì hết. Tướng Trưỏng cố gắng
lần cuối. Ông bay về Sàigòn ngày 19 Tháng Ba, họp cùng với các ông
Thiệu, Khiêm, Viên và cả phó Tổng Thống Hương. Ông cam đoan có thể giữ
được Huế, Đà Nẵng, nếu đừng lấy đi những lữ đoàn Dù, TQLC còn lại. Ông
Thiệu tỏ vẻ ngần ngại trước quyết định sẽ rút một phần nào về Vùng I. Để
cụ thể thêm cho ý niệm trên, ông chuẩn bị đọc một bài diễn văn với ngôn
từ mạnh mẽ tỏ rõ quyết tâm bảo vệ Huế. Nhưng khi Tướng Trưởng vừa trở
lại Đà Nẵng, ông nhận tin Huế đang bị đánh mạnh. Ông gọi về Tướng Viên;
ông Viên đẩy qua ông Thiệu. Tướng Trưởng đành phải nói thật: "...Tổng
Thống nên hoãn lại bài diễn văn. Huế không thể giữ được!" Thật ra
ông Thiệu hiểu rõ hơn ai hết khả năng cố thủ của Huế. Ông Tổng
Thống muốn giành viên đạn ân huệ cho chính tự tay Tướng Trưởng.
Cùng Ngày
18 tháng 3, phó Đại Sứ Lehmann gởi điện văn về Bạch Cung, nhờ chuyển bản
tường trình đến Đại Sứ Martin đang chữa bệnh ở Bắc Carolina. Lehmann báo
tin về khả năng phía VNCH có thể bỏ Huế với dấu hiệu chiến xa, thiết vận
xa đang rút về Nam và TQLC bỏ Quảng Trị. Ông Đại Sứ biết được - Đã đến
lúc chính ông, không ai khác, phải chịu mối "khổ nhục kế" của
quốc gia ông nơi xa. Tóm lại, thế trận được đặt trên tuyến phương trình
kỳ cục: "Người Mỹ không biết ông Thiệu đang tính toán những
gì. Sàigòn thì hoàn toàn mù tịt về những gì đang xảy ra ở Hà Nội". Nên
không biết được rằng Hà Nội đã chấp thuận đề nghị của Văn Tiến Dũng (sau
thành công quá lớn ở mặt trận Tây Nguyên) - Đánh rộng ra toàn miền
Nam, khai triển thuận lợi từ Ban Mê Thuột và Pleiku.
Từ Ban Mê Thuột,
sư đoàn F10 tiếp tục hành quân về đồng bằng theo Quốc Lộ
21, sư đoàn 320 cắt miền Trung tại Tuy Hòa, đâm xuống Nha Trang. Nha
Trang sẽ là điểm hẹn của hai sư đoàn này trước khi tiến về Nam, hướng
Sàigòn. Tại Vùng I, Tướng Trưởng bị tấn công một lúc từ cả hai hướng bắc
và nam. Trên nguyên tắc, sau tháng 10/1973, khi Hà Nội, cục R phát lệnh
đánh trả và ông Thiệu ra chỉ thị "Tái tổ chức, phối trí" từ hạ
tầng cơ sở hành chánh và quân đội... Lính Nghĩa Quân được đôn thành Địa
Phương Quân, lính địa phương tập trung lại thành tiểu đoàn chủ lực và
các sư đoàn diện địa phải cơ động trong khu, vùng trách nhiệm. Nhưng
đấy chỉ là lý thuyết và hoàn toàn là lý thuyết. Người lính Địa
Phương Quân của Tiểu Khu Quảng Trị, Thừa Thiên không hề được chuẩn bị,
trang bị để đương cự lại những sư đoàn chính quy Bắc Việt, thế nên
khi Lữ Đoàn 369 TQLC, cùng với Liên Đoàn Biệt Động Quân vừa rút khỏi
Quảng Trị, dân chúng ùa đi theo. Tỉnh Trưởng Quảng Trị khuyên công chức
cho gia đình di tản. Tất cả tràn về Huế, và Huế sau dấu ấn kinh
hoàng Mậu Thân 1968, và nỗi khiếp sợ từ 1972... Theo luồng cuồng nộ bi
thảm này chạy về Nam, vượt đèo Hải Vân.
Ngày 25 Tháng Ba, sáu giờ, Tướng Trưởng ra lệnh bỏ Huế. Lính TQLC, Biệt
Động, Sư Đoàn I đồng tập trung tại Vĩnh Lộc, nơi cửa biển Thuận An,
đông-nam Huế. Đề đốc Chung Tấn Cang gởi một số vận tải hạm ra cửa Thuận
An đón đoàn quân cùng đám dân chạy loạn. Nhưng muốn đến bờ biển, lên tàu
lớn, đoàn người di tản phải qua phà Thuận An, và tại đây lại một lần tái
lập cảnh tượng địa ngục nơi Sông Ba, Tuy Hòa mười ngày trước. Thật sự
chỉ đúng một tuần. Điều đau đớn nầy xảy ra như một chuyện tất nhiên.
Trong tất cả các hình thái hành quân, rút lui là một loại chiến thuật
khó khăn nhất, bởi lẽ tự nó vốn đã mang yếu tố thất bại, thua cuộc.
Không thể có một giải đáp tốt cho vấn đề đã vốn xấu, thế nên không hề có
được một cuộc rút lui thắng lợi. Nếu có được một cuộc rút lui tương đối
thành công của quân sử thế giới thì đấy là lần di tản 350.000 lính đồng
minh từ mõm Dunkerque qua Anh năm 1940. Nhưng Dunkerque là một cứ điểm
phòng thủ với yếu tố thuận lợi do hệ thống sông, lạch chia cắt với đất
liền và bao vây kín trước mặt. Cuộc triệt thoái với hơn nghìn tàu đủ
loại của Anh và Pháp điều động, chỉ huy bởi những sĩ quan, tướng lĩnh kỳ
tài của hai đạo quân có truyền thống và tổ chức cao. Hai quân đội kia
còn có một thời hạn tương đối đủ (từ giữa tháng 5 đến tháng 4 tháng 6,
1941) và một hậu phương nước Anh kiên định vững vàng.
Tháng 3, 1975 ở Đà Nẵng, Việt Nam, Tướng Ngô Quang Trưởng chỉ có một vài
giờ, một hai ngày và những lệnh, phản lệnh từ Dinh Độc-Lập, Bộ Tổng Tham
Mưu. Những người lính, dân tại cù lao Vinh Lộc, tại cửa Thuận An lại
càng khốn khổ hơn. Bắt đầu là vô tổ chức, tiếp tới hỗn loạn và sau cùng
là... bạo loạn. Công Binh không thể bắc phà qua sông, tàu lớn không vào
sát bờ, người di tản trong cơn khiếp đảm khi cái chết dâng đầy, tràn
ngập phải vùng vẫy tuyệt vọng từng giây phút ngắn tranh sống. Tiền sát
viên pháo binh cộng sản điều chỉnh mục tiêu không phí một quả đạn. Đoàn
người trần trụi trên giòng sông dưới đạn pháo. Sông là nhánh chảy ra phá
Tam Giang, giòng nước đã soi bóng lửa thu ở rất lâu. Từ năm 1946, năm vỡ
mặt trận Việt Minh chống Pháp. Năm nay, 1975, người Cộng Sản bắn vào ai?
Chống ai?
Cảnh tượng bi
thảm không phải chỉ bày ra nơi cù lao Vinh Lộc, cửa Thuận An. Một trăm
cây số đường từ Huế vào Đà Nẵng dầy đặc xe và người chạy loạn. Lúc đầu
người chạy loạn xử dụng xe vận tải, xe du lịch, GMC... Những xe động cơ
bốn bánh, hai bánh. Tất cả đều chất cứng đồ đạc và lăn từng thước, từng
chục thước đường. Quân Cộng Sản không hề chậm chạp, lập ngay những chốt
chặn ở những vùng núi đèo Phú Gia, Phước Tượng, ở Cầu Hai, Nong,
Truồi... Bất cứ nơi nào thuận lợi cho việc phục kích. Lính Sư Đoàn 1 Bộ
Binh, đơn vị đã từng giữ vững những cứ điểm Bastogne, Checkmate... Đơn
vị đã nhảy xuống Tchépone Hạ Lào, những tiểu đoàn bộ binh hàng đầu của
quân lực Miền Nam, Đại Đội Trinh Sát lừng lẫy Hắc Báo, tất cả đều bị bó
tay bởi đám thân nhân, gia đình binh sĩ cồng kềnh rối rắm, tan nát, âu
lo. Người lính nào chiến đấu được với con trên lưng, vợ đang cơn nguy
khốn?! Thế nhưng đoàn người vẫn lần từng bước đưng về Nam, hướng đèo Hải
Vân. Và khi xe hơi bị tắt nghẽn trong vũng lửa, chiếc Honda đổ nhào
xuống hố vực, người bế con lên tay, đầu gục xuống cất chân trần từng
bước…
Đèo Hải Vân đây rồi! Những người đã chạy từ Quảng Trị, Mỹ Chánh, Phong
Điền, An Lỗ chen chân lên đường đèo ngầy ngật khói đen dày. Vẫn còn
những đơn vị lính Cộng Hòa giữ vững tay súng, Tiểu Đoàn 8 TQLC nhận bàn
giao từ Lữ Đoàn I Nhảy Dù, trấn giữ đèo Hải Vân, ngăn quân Cộng Sản ở
mặt Bắc Quảng Nam-Đà Nẵng. Nhưng một tiểu đoàn trong chiến tranh buổi
tàn cuộc có là bao? Làm được gì! Năm 1944, quân đội đồng minh muốn giữ
vững Bastogne giữa vòng vây quân Đức phải có một đơn vị sư đoàn - Sư
Đoàn 82 Nhảy Dù Mỹ do viên sĩ quan ngoại hạng, Tướng Maxwell Taylor chỉ
huy. Tiểu đoàn 8 TQLC nay đối diện với ba sư đoàn bộ binh nặng, một lực
lượng gồm các trung đoàn, tiểu đoàn Cộng Sản địa phương, một vùng đất
dài từ chân đèo, xã Lăng Cô cuối tỉnh Thừa Thiên ra đến sông Thạch Hãn,
Quảng Trị, vùng đất bị lực lượng Cộng Sản lấn chiếm từ Mùa Hè 1972. Và
xa hơn là Cửa Việt, Gio Linh, sông Bến Hải, vùng "giải phóng" đã
được thâu đoạt, củng cố từ 1972, 1973. Cuối cùng, xa hơn nữa, rộng hơn
nữa - Một Miền Bắc xã hội chủ nghĩa "hậu phương lớn" của "tiền tuyến
lớn Miền Nam". Nhưng không hẳn chỉ ngừng lại ở đây, tăng cường, trợ
lực cho Cộng Sản Bắc Việt còn có nước Trung Hoa mênh mông, Liên Bang
Xô-Viết vĩ đại, khối thành trì của phe Xã hội Chủ Nghĩa đang luôn
chờ đợi, chực sẵn cánh tay kéo dài xuống Phương Nam - Giấc mộng bền bỉ
dài lâu của các chủng tộc người Hoa, Mãn, Slave... Tiểu đoàn 8
TQLC/QL/VNCH không thể nào đương được như một lẽ đương
nhiên.
Người lính Miền Nam cũng vấp phải tình thế không thể nào xoay trở, bởi
trên đường đèo, trước mũi súng anh chỉ thấy nhấp nhô trùng điệp vạn đầu
tóc rối chạy loạn, tràng âm thanh thấp thỏm bi thương... "En'" lính
cộng hòa ơi! "En" lính cộng hòa ơi!! Tiếng kêu một lần anh nghe
được từ Mậu Thân, từ Mùa Hè Đỏ Lửa 72. "En" ơi... Con tui hắn chết
rồi!! Tui biết làm chi bây chừ "en" ơi! Người mẹ quê thất sắc, mắt
lạc thần, lật vạt áo dài, đứa con nhỏ say nắng, bầm tím, chết ngạt từ
bao lâu. Người đàn bà ngồi xuống lề đưng trên đá núi, gục đầu vào xác
thân nhỏ bé sâm sấp tử khí gây gây. Chẳng phải Người Lính, đến Thượng Đế
chắc cũng phải bật khóc bất lực gào đau.
Đà Nẵng không chỉ bị ép từ phía Bắc, mà cả từ phía Nam, vùng đất Quảng
Nam, Quảng Tín, Quảng Ngãi đã bị cắt vỡ ra
từng mảnh nhỏ và người dân từ những nơi này tràn về Đà Nẵng để tìm một
chỗ xuôi Nam. Cuối cùng địa ngục tăng thêm cường độ nơi bến tàu,
chân cầu Trịnh Minh Thế, bến cá chợ Hàn, căn cứ Hải Quân Tiên Sa. Người
ta dùng lưới để móc những kiện hàng quái dị... Đám người tan tác rền rỉ
khóc la khản đặc. Nhưng dẫu có bị móc đi bằng lưới hoặc giành được một
chỗ trên phi cơ (dân hoặc quân sự, kể cả máy bay Mỹ), những người rời xa
Đà Nẵng cũng còn thở được hơi dài... Đã thoát khỏi chết. Đã thoát khỏi
Việt Cộng. Thoát khỏi một thành phố tràn ngập tiếng động từ những kho
hàng bị cướp phá, người bị cướp, bị giết kêu cứu... Đám tù quân phạm từ
những trại quân lao tràn ra, trả thù những năm tháng giam giữ với cách
phát triển bản năng ác độc từ lâu ức chế với cách thức thú vật hung
tàn.
Cơn hấp hối của Đà Nẫng không kéo dài. Ngày 27 Tháng Ba, pháo binh cộng
sản bắt đầu bắn thăm dò vào Đà Nẵng từ những vùng lân cận vừa lấn chiếm.
Bộ Tư Lệnh mặt trận Bình-Trị-Thiên phối hợp với mặt trận B2, Quảng
Nam-Đà Nẵng quyết định dùng sư đoàn 324 và 325C từ mạn Bắc chiếm đèo Hải
Vân đổ xuống; từ hướng Nam và Tây-Nam hai sư đoàn 407 và 711 đánh lên.
Chiến trận được yểm trợ bởi hai trung đoàn pháo và thiết giáp. Hỏa lực
của pháo binh cộng sản tập trung vào Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I và căn cứ
Hải Quân Tiên Sa, các địa điểm thực hiện kế hoạch di tản. Nhưng thực tế
không còn kế hoạch nào nữa, bởi các điểm, căn cứ đã là những vị trí hỏa
tập. Đặc công Cộng Sản trà trộn vào đám đông điều chỉnh từng quả đạn nổ
chính xác giữa những thân người chen chúc. Ngoài khơi Đà Nẵng một hạm
đội chực sẵn gồm tàu Việt Nam Cộng Hòa, Đại Hàn, Đài Loan, Úc, Anh, Phi
Luật Tân... Và lẽ tất nhiên có tàu Hải Quân và dân sự Mỹ. Nhưng bởi Mỹ
là nước "cam kết" tôn trọng thực hiện Hiệp Định Paris, nên Tổng
Thống Ford đã ra lệnh cho tàu Mỹ không được vào hải phận Việt Nam!
Do thái độ “nghiêm chỉnh” của Mỹ và đồng minh, người
tỵ nạn phải đội con lên đầu, cõng mẹ sau lưng lần từng bước, dò đáy biển
tiến ra khơi! Thây người mắc vào gềnh đá trôi dạt sâm sấp. Qua ngày 28,
bãi biển đã thành một nghĩa địa bồng bềnh xê dịch. Người sống sót rẽ
thây chết đi ra phía trùng dương mờ đục khói. Khói sóng và khói đạn pháo
binh, hỏa tiễn. Nhiều trường hợp xác chết biến thành cái phao để người
"chưa chết" bám víu vẫy vùng, cố sống. Cố gắng sống thêm vài phút ngắn.
Trong đám người tan vỡ này có Tướng Ngô Quang Trưởng. Ông bơi ra một
chiếc xuồng rồi lên một tàu của Hải Quân Việt Nam do trợ giúp của một sĩ
quan thủy quân lục chiến. Chiếc tàu đã biến dạng bởi binh sĩ đã ngồi
tràn lên cả cột cờ, ụ súng. Trông giống như tổ kiến khổng lồ trôi dạt
trên sóng biển. Tình cảnh trên những tàu dân sự ngoại quốc càng tồi tệ
hơn. Gần mười ngàn người chồng chất lên nhau trên một chiếc tàu chở
hàng với vài chục thủy thủ. Ngàn con người không nước uống, không thức
ăn cào xé nhau dưới hầm tàu nghẹn thở hoặc trên boong sắt bốc hơi nóng
dưới mặt trời đầu hè của miền Trung.
Tàu Victoria chở người di tản ghé Cam Ranh. Người cha bế đứa con bước
xuống bãi cát trắng. Cát nóng sôi lúc nhúc những đầu người cuống quýt.
Không một âm động lớn, không ầm ĩ ồn ào, chỉ khẽ rít nhỏ rầm rì giữa
những cánh môi khô nẻ, trắng bọt xám... Nóng quá!! Khát quá!! Chiếc
tàu họ vừa rời khỏi đã là một nghĩa địa di động, nhưng khốn khổ hơn
những lò thiêu người Do Thái ở Auschwitz, Birkenau, bởi hơi nóng của vỏ,
sàn tàu dưới mặt trời không đủ nhiệt để đốt cháy da thịt người. Trên
sàn, dưới hầm lềnh kênh những thây chết chưa đúng nghĩa... Những người
ngộp thở vì bị đè, ép, dẫm lên. Người già và trẻ em chiếm phần lớn.
Những sinh vật vô tội và vô hại đối với bất cứ chế độ chính trị nào, bất
cứ lực lượng vũ trang nào. Các cuộc tấn công quân sự của lực lượng Cộng
Sản khởi đi từ Tháng Ba đã biến những xác chết nầy nên thành chứng cớ
của tội lỗi. Và họ phải chịu cơn hấp hối từ rất lâu trước khi "được
chết” để đền xong mối tội. Tội đã sinh và sống nơi vùng “tạm
chiếm của bọn ngụy quân, ngụy quyền” - Tội làm người nơi Nước Việt,
ở Miền Nam.
Nha Trang cùng lâm cơn hấp hối với Đà Nẵng. Người Nha Trang bị dồn ép,
bị đuổi siết bởi những người chạy loạn từ Pleiku, Phú Bổn xuống; từ Tuy
Hòa, Bình Định, Quảng Nam, Quảng Ngãi ùa vào... Tất cả lại chuẩn bị lên
xe, hướng phía Nam, Phan Thiết, Bình Tuy... Sàigòn. Sàigòn, như kẻ phụ
tình cay đắng cuối đi không thể rời bỏ. Và cảnh cũ của Bến Cá, phi
trường Đà Nẵng lập lại tầng tầng bi thảm nơi Cầu Đá, phi cảng Nha
Trang. Máy bay cất cánh với chân, tay người thò ra nơi khoang chứa bánh
đáp! Dọc đường Số 1 những chiếc trực thăng chở khẳm chòng chành rơi vãi
những, thân người tan tác theo luồng gió và cánh quạt động cơ đùa đi. Và
biển Đông lại nhận thêm được những tặng phẩm khốn cùng mới mẻ... Những
thây người vào ra sâm sấp theo triều sóng ngậm ngùi. Tượng Thánh Mẫu
Thiên-Y từ đỉnh cao Tháp Bà đầu cầu Xóm Bóng, Nha Trang một đêm bất
ngờ vô cớ rơi xuống! Hàng triệu sâu bọ từ mạch đất sâu bật tung bò ra
lềnh đặc hơn cây số đường từ Cam Ranh đi Phan Rang. Đoàn người chạy loạn
dẫm lên nghe nhầy nhầy, sừng sực như đạp phải thây chết. Chẳng ai để ý.
Tất cả đã quen với cái chết. Con người đang chết. Sự chết toàn diện của
lần tận diệt. Mùa Chúa chịu nạn giải cứu thế gian diễn ra cùng lần bức
tử miền Trung. Khởi đầu buổi Đồng Tế tàn cuộc Miền Nam. Bắt đầu từ Ngày
10 Tháng Ba ở Ban Mê Thuột. Không cần đủ hết Tháng Ba.
Bốn.
Tháng Ba, 1975 ở Mỹ có nhiều ý kiến về Việt Nam.. Điển
hình với người công dân Milliard E. Crane ở Fonda, New York trong lá thư
gởi ban biên tập báo Newsweek viết nên lời thống thiết: Tinh
Thần 76 đâu rồi? Hôm nay nước Mỹ đứng yên nhìn
Cambodia, tiếp đến Việt Nam lần lượt rơi vào nanh vuốt bọn xâm lược.. Và
như quân bài Domino dần tan rã, phải chăng lần tới sẽ là Thái Lan, rồi
đến Nam Hàn, Trung Hoa Dân Quốc với Đài Loan và tiếp tục nữa chăng? Những
dân tộc nầy đã và đang chiến đấu cho những lý tưởng quan yếu như chúng
ta hằng chống lại đế quốc Anh. Chúng ta đốt pháo bông ăn mừng khi hỏa
tiễn dày xéo tự do ở nơi bên kia thế giới được chăng? Chúng ta nên cần
một Patrick Henry nung nấu giòng máu và một George Washington giữ thẳng
xương sống chúng ta." Nhưng
hòa bình lại không do từ những con người trên, hòa bình đến bởi
Kissinger, người phải ngậm cục kê vào miệng - Giải thưởng Nobel Hòa Bình
để không thể nói một lời gì khác ngoài việc phải hô hào bảo vệ cho kỳ
được nền "hòa bình trong danh dự" mà ông ta đã phải xoay trở mãi từ 1968
đến tháng 1, 1973 mới ráp nối được. Hòa bình đó đã tồn tại đến những hai
năm, hai tháng cho dù đôi khi lâm bịnh ngặt nghèo với vụ lấn chiếm Tống
Lê Chân và Phước Long. Nếu "Hòa Bình" phải cơn hấp hối như hôm nay
(3/1975) thì ắt phải do... Nguyễn Văn Thiệu "một người tuyệt vọng đến
độ phát hoảng" và dù cho miền Nam có mệnh hệ nào thì "Việt Nam
cũng không phải là tận cùng thế giới" và đây cũng là lỗi của Quốc
Hội - Nơi đảng Dân Chủ kiểm soát Hạ lẫn Thượng viện, với Kennedy,
Johnson đã đưa cuộc diện Việt Nam vào bãi lầy nên phải cậy đến khôn
ngoan rất mực của ông ta mới tìm ra lối thoát. Mà việc nầy ông đã "hoàn
tất một cách xuất sắc" với giải Nobel Hòa Bình cao quý!.
Tóm lại, chỉ còn đôi lời cam kết giữa hai Tổng thống
Nixon và Nguyễn Văn Thiệu! Cũng không có gì khó, sẵn vụ năm anh Cuba đột
nhập vào tòa nhà Watergate của Đảng Dân Chủ. Lục túi thấy một đống đô-la
vừa tiền mặt, vừa tín phiếu, và sổ
ghi các điện thoại. Truy tầm một hồi thì thấy ngay xuất xứ của số tiền,
các tín phiếu nấy (dù qua một hệ thống nhiều ngân hàng của Mỹ và Mễ Tây
Cơ) vốn từ quỹ vận động bầu cử Tổng Thống Nixon! Chạy thế nào thoát. Hai
ký giả Bernstein và Woodward của báo Washington Post vớ phải ngay một "ông
nằm vùng, bí danh Deep Throat" từ đâu trong Bạch Cung. Ông nầy hàng
tuần hẹn hò trên trang 20 báo Post dò hỏi cách gặp gỡ. Và nếu khẩn cấp
thì gọi nhau, cho ám hiệu. Thế là, ông Nixon chửi thề như thế nào, ông
John Mitchell nói cái gì, cố vấn Haldeman thở than với vợ ra làm
sao... Tất cả đâu đó đã sẵn để hai ông nhà báo lựa chọn, ra tin. Dằng
co một hồi đến 8 Tháng 8, 1974 thì Tổng Thống Nixon buộc phải từ chức!
Ai hứa với ai gì nào? Tổng Thống kế nhiệm Gerald Ford khi đến Palm
Spring, California chơi golf bị ký giả truy hỏi về tình hình Việt Nam;
vừa chạy vừa cười tươi...
Chiến tranh Việt Nam đã là dĩ vãng! Đến
một lúc sau khi nói chuyện với doanh nhân, nhân viên chính quyền cao cấp
ở San Diego ông mới nói thật... "Tình hình quả thật bí thảm và chúng
ta cần một ý nghĩa mới về đoàn kết quốc gia tại thời điểm đau buồn, hỗn
loạn này..." Nhưng ông cũng không quên yêu cầu quốc hội chuẩn y
phần viện trợ khẩn cấp. Sự cố gắng của Tổng Thống Hoa Kỳ được hiện thực.
Quân cảng Vũng Tàu, Tân cảng cầu xa lộ Sài Gòn được tiếp nhận thêm một
số quân trang, quân cụ, vũ khí mới... Súng 105 đời thế
chiến Thứ Hai, nón sắt, ống nhòm, và súng colt và xe GMC. Chỉ một Tháng
Ba, 1975, Miền Nam mất 700 triệu Mỹ kim chiến cụ đến nỗi một viên chức
Ngũ Giác Đài phải ngao ngán thốt lên: "Tốt hơn hết chúng ta nên chuyển
thẳng cho Hà Nội, như thế khỏi phải bị hư hao..."
Và khi
bị chất vấn về 58.000 quân nhân Mỹ tử trận ở Việt Nam, vị tổng thống
không do đấu tranh, bầu cử mà nên chức phận, đã ngậm ngùi than vãn: "Chúng
ta quả thực không thực tế một chút nào vì đã quá trịnh trọng cam kết tại
hội nghị khi đã chấm dứt tranh đấu ở Việt Nam". Và nếu có đôi chút
thành thật họa chăng là lời thú nhận cay đắng của Phó Tổng Thống Nelson
Rockefeller... "Tôi e rằng một số người Việt đang dần chết... Trong
khi, chúng ta vẫn tiếp tục sống..." Nói như thế kể ra cũng đủ gọi
là thành tâm!
Trong ngày đầu Tháng
4, 1975 Cựu Bộ trưởng Thông Tin Chiêu Hồi Hoàng Đức Nhã lúc ấy giữ chức
vụ cố vấn riêng của Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu đã có
mặt tại Tân Gia Ba theo lời mời của Thủ Tướng Lý Quang Diệu. Thủ Tướng
Lý mời Cố Vấn Nhã đến để trao gởi một nguồn tin quan trọng. Ông vào
thẳng vấn đề: "Đừng để mất thì giờ vô ích, tôi mời ông tới đây bởi kết
thúc ở Việt Nam sắp xẩy ra, đang phải đến.” Thủ Tướng Diệu nói rõ: Phó
tổng thống Mỹ Rockefeller vừa hỏi ý kiến ông cũng như những vị lãnh đạo
Á Châu khác là: “Liệu chúng ta có cách gì để đưa ông Nguyễn Văn Thiệu
ra đi hay không?!" Hóa ra chuyến viếng thăm không chính thức các
nước Đông-Nam Á của Phó Tổng Thống Rockefeller nhân dịp viếng lễ tang
Thống Chế Tưởng Giới Thạch vừa qua tại Đài Loan vào Ngày 5 Tháng 4 là để
thông báo một điều quan trọng: Đã đến lúc chính phủ Mỹ cần thay người
cầm quyền ở Nam Việt Nam.
Ông Hoàng Đức Nhã liền thông báo cho Tổng Thống Thiệu nguồn tin chẳng
mấy phấn khởi nầy, một phần ông cũng đã hiểu ra thực tế: Giới quân nhân,
những tư lệnh các quân khu qua tình hình chiến sự đã không còn tin tưởng
Tổng Thống Thiệu vốn là một tướng lãnh quân đội. Cuộc rút bỏ Tây Nguyên
vào Ngày 16 Tháng Ba tiếp theo lần di tản Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha
Trang.. vào cuối tháng 3 với chuỗi thảm cảnh kinh hoàng của dân và lính
vượt khỏi tất cả những dự kiến, làm tan vỡ sức chiến đấu, phá hủy quân
trang cụ, vũ khí của hai Quân Khu I và II đã bày ra điều cùng cực phi lý
và tàn nhẫn: Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa
đã không kiểm soát đượcc tính hình chính trị lẫn quân sự của miền Nam.
Hơn thế nữa lời thông báo của Phó Tổng Thống Rockefeller không là ý kiến
riêng của người lãnh đạo ở Tòa Bạch Ốc nhưng là phản ảnh thực tế về
quyết định của chính giới Mỹ đối với tình thế chung cho toàn vùng
Đông-Nam Á. Đấy
là Mỹ rút ra khỏi vùng nầy theo thỏa thuận với Trung Cộng từ thông cáo
Thượng Hải ký năm 1972 giữa Châu Ân Lai và Nixon. TT/Thiệu
làm sao không biết thì ai biết tới kết thúc nầy? Không biết chính
xác lúc nào mà thôi!
Ngày 12 Tháng 4 Nam Vang Campuchia thất thủ, tất cả bộ trưởng của nội
các Long Boret chỉ trừ một người thuận di tản theo đề nghị của Toà Đại
Sứ Mỹ, tất cả đồng ở lại với đất nước và đã là những nạn nhân bị hành
quyết đầu tiên bởi cách hành hình man rợ của đám đao phủ Khmer Đỏ. Điển
hình là vị cố vấn chính trị Sirik Matak của Tổng Thống Lon Nol đã có lá
thư tuyệt mệnh gởi đến Đại Sứ Mỹ Dean John với lời lẽ khẳng quyết bi
tráng như sau:
"Kính gởi Ngài Đại Sứ và các Bạn... Tôi chân thành cảm ơn lá thư ngài
chuyển tới với đề nghị giúp tôi phương tiện đi đến vùng tự do.. Nhưng
hỡi ơi, tôi không thể bỏ đi một cách hèn hạ như thế được.. Xin ngài cứ
ra đi, và tôi cầu chúc ngài cùng đất nước Hoa Kỳ có được nhiều điều hạnh
phúc dưới cõi trời nầy. Nếu tôi có phải chết thì cũng chết trên đất nước
mà tôi vô cùng yêu quý dẫu cho đấy là điều bất hạnh, nhưng chúng ta ai
chẳng sinh ra và một lần mất đi. Tôi chỉ phạm một lỗi lầm là đã tin vào
ngài và tin vào những người Bạn Mỹ."
Từ tình cảnh của Campuchia hiểu ra tình thế của Miền Nam khi tình hình
quân sự hoàn toàn suy sụp, và Mỹ quyết định chấm dứt sự dính líu đến
VNCH!
Ngày 8 Tháng 8, 1974, Tổng Thống Richard Nixon từ chức, Phó Tổng Thống
Ford lên kế vị, vốn một Chủ tịch Hạ Viện được kế vị do hiến định nên
khoán trắng vấn đề đối ngoại, an ninh quốc gia cho Cố Vấn kiêm Ngoại
Trưởng Henry A. Kissinger. Số phận Việt Nam được quyết định với viện
trợ kinh tế bị cắt khoảng 50% (theo đề nghị của Thượng Nghị Sĩ Kennedy),
và viện trợ quân viện được xác nhận ở số 772 triệu, có thể chỉ là 500
triệu (tức cắt đến 60%). Tháng 12, 1974 tỉnh Lỵ Phước Long bị mất, Tổng
Thống Ford, Ngoại Trưởng Kissinger ĐÃ không có hành động đáp ứng cụ thể
nào như đã hứa hẹn, cam kết. Tổng Thống Gerald Ford lại bị trói buộc
toàn diện bởi Nghị Quyết Xử Dụng Vũ Lực Chiến Tranh đã được Quốc Hội Mỹ
phê chuẩn từ tháng 11, 1973. Nghị quyết nầy hiện thực đạo luật cắt bỏ
quỹ "Hoạt Động Tác Chiến" vốn được dùng để yểm trợ cho chiến cuộc Đông
Dương trước Hiệp Định 1973. Tổng Thống Ford cố làm yên lòng Tổng Thống
Thiệu bằng cách cử một phái đoàn do Thứ Trưởng Quốc Phòng Clements sang
Sài Gòn; ông Thiệu chỉ định Đại Sứ Trần Kim Phuợng, Tổng Trưởng Vương
Văn Bắc sang gặp Tổng Thống Ford. Tổng Thống Mỹ hứa cứu xét đến quân
viện bổ sung 300 triệu để phục hồi lại Một Tỷ như hoạch định. Cần nhắc
lại những số liệu để so sánh: 1/Giai đoạn 1966-1970: Mỹ tiêu 25 Tỷ
Đô-la/Năm bởi có 500,000 quân Mỹ và Đồng minh đang tham chiến.
2/1970-1971: 12 Tỷ Đô-la/Năm vì đang rút quân. 3/Sau khi Mỹ rút hết quân
thì: 31/Tài khoá 1973: 2,1 Tỷ; Tài khoá 1974: 1,4 Tỷ; Tài khóa năm 1975:
700 Triệu. Vậy nếu có được 300 Triệu bổ sung thì quân viện năm 1975 cũng
chỉ được 1 Tỷ.
Khi quân CS Miền Bắc khởi đầu tấn công Ban Mê Thuột trong ngày 10/3; Chủ
Tịch Thượng Viện Trần Văn Lắm từ Hoa Thịnh Đốn trở về với tin sét đánh:
“Không những không có 300 triệu
quân viện bổ sung mà có thể không còn viện trợ quân sự nữa!” Như thế,
300 triệu (dự trù bổ sung) vào ngày 13 Tháng 3 năm 1975 đã trở thành “Số
Không” vì Đảng Dân Chủ kiểm soát cả Hạ lẫn Thượng Viện đã bỏ phiếu với
đại đa số: Chống bất cứ viện trợ nào cho Việt Nam kèm theo lời tàn nhẫn:
“Viện trợ di tản thì cho, chứ một xu (viện trợ quân sự) cho Thiệu thì
không.” Trong cùng lúc: “Từ 1974 qua 1975, Miền Bắc đã đưa vào Nam một
số lượng quân trang cụ, vũ khí là 823.146 Tấn – Gấp 1.6” lần số lượng đã
vận chuyển của 14 năm qua (Kể từ 1960, năm bắt đầu thành lập Mặt Trận
Giải Phóng Miền Nam, 19/12/1960
Người lính VNCH ở chiến trường không biết những số liệu trên, họ chỉ
biết: Trước “Hiệp Định Ngưng Bắn Tái Lập Hòa Bình Tại Việt Nam
27/1/1973” trên chiến trường, trước khi xung phong vào mục tiêu họ được
phi, pháo yểm với số lượng không hạn chế nếu như đụng địch. Nay năm
1974, 1975, một mục tiêu chỉ còn “Bốn (4) viên đạn 105 ly cho một lần
đụng trận”. Người Lính cũng không biết thực tế: Nếu không có biến cố
Tháng 30 tháng Tư thì cũng chỉ đến khoảng tháng 6/1975 đạn tồn kho sẽ
hết, và đến tháng 8 là hết sạch. Báo cáo của Tổng Cục Trưởng Tổng Cục
Tiếp Vận Trung Tướng Đồng Văn Khuyên lên Đại Tướng Cao Văn Viên Họ cũng
không biết trong Chiến Dịch Hồ Chí Minh tấn công vào Sài Gòn cuối tháng
4 “Toàn thể quân đội Miền Bắc đang có mặt ở Miền Nam! Lúc ấy chỉ cần một
Lữ Đoàn Thủy Quân Lục Chiến Mỹ là có thể chiếm hết Miền Bắc” Người tuyên
bố câu tán thán nầy không ai lạ, Ngoại Trưởng Hoa Kỳ, Henri Kissinger!
Năm.
Tỉnh Long Khánh với Thị Xã Xuân Lộc trải
rộng lên vùng rừng miền đông Nam Bộ, tả ngạn sông Đồng Nai, nằm trên ngã
Ba của Quốc Lộ 20 đi Đà Lạt và Quốc Lộ I, đường đi ra Hàm Tân, Phan
Thiết. Sau thành công đánh chiếm Cao Nguyên Trung Phần thuộc Vùng II, và
Vùng I Chiến Thuật do sự rút bỏ hỗn loạn của quân đội Miền Nam trong
tháng Ba; qua tháng Tư Bộ Tổng Quân Ủy quân đội Miền Bắc quyết tâm tiêu
diệt Miền Nam bằng cách
áp dụng chiến thuật tập kích tấn công từ một điểm xong mở rộng ra, tránh
giao tranh nếu gặp kháng cự mạnh để tất cả đồng nhất tiến về Sài Gòn. Bí
thư Lê Đức Thọ người được giải Nobel Hòa Bình rời Hà Nội với quyết định
của Bộ Chính Trị: “Phải đoạt thắng lợi, chỉ trở về với chiến thắng". Vào
đến miền Nam, Lê Đức Thọ với tư cách là chính ủy Chiến Dịch Hồ Chí Minh
cho phổ biến công điện 37/TK đến với tất cả lực lượng vũ trang đang có
mặt tại miền Nam bao gồm 15 sư đoàn quân chính quy cộng sản Bắc Việt.
Tướng Quân Lê Minh Đảo và những người lính đang giữa trùng vây của lửa ở
mặt trận Long Khánh. Tiếng gọi là một sư đoàn nhưng Tướng Đảo chưa hề có
đủ lực lượng thuộc quyền cơ hữu để điều động trong một cuộc hành quân
quy mô cấp sư đoàn. Đầu tháng Ba năm 1975, Trung Đoàn 48 của Sư Đoàn 18
lại tăng phái cho Sư Đoàn 25 để trách nhiệm mặt trận Tây Ninh, vùng Tây
Sài Gòn. Thế nên khi trận chiến Long Khánh bắt đầu vào ngày 9 tháng 4,
thì Tướng Đảo trong thực tế chỉ có Chiến Đoàn 43 do Đại Tá Lê Xuân Hiếu
chỉ huy. Chiến Đoàn 43 có nhiệm vụ phòng thủ nội vi thị xã Xuân Lộc hợp
cùng các đơn vị của Tiểu Khu Long Khánh do Đại Tá Phúc làm chỉ huy
trưởng. Phần Chiến Đoàn 52 của Đại Tá Ngô Kỳ Dũng gồm các đơn vị trinh
sát, thiết giáp, pháo binh trấn giữ dọc Quốc Lộ 20 nằm về phía Bắc-Tây
Bắc Long Khánh từ Kiệm Tân là cứ điểm chận đường từ Đà Lạt xuống đến Ngã
Ba Dầu Giây. Đây là giao điểm của hai Quốc Lộ I và 20, nút chận về Biên
Hòa, nơi đặt bản doanh của Quân Đoàn III, Sư Đoàn 3 Không Quân cách Sài
Gòn 30 cây số về hướng Bắc.
Trước khi trận chiến bùng nổ
lớn, Thiếu Tướng Đảo khẩn thiết yêu cầu Tư lệnh Quân Đoàn III, Trung
Tướng Nguyễn Văn Toàn hoàn trả lại Trung Đoàn 48 từ Tây Ninh về. Nhận
lại được trung đoàn nầy, Tướng Đảo xử dụng trấn giữ mặt đông của thị xã
Xuân Lộc, đường đi vào Quận Tánh Linh thuộc Tỉnh Bình Tuy. Cũng nói thêm
về một đơn vị tăng phái đặc biệt. Đấy là Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân
Biên Phòng của Thiếu Tá Vương Mộng Long. Nguyên Tiểu Đoàn 82 vốn thuộc
Quân Khu II, khi mặt trận Ban Mê Thuột bị vỡ, Thiếu Tá Long vừa đánh vừa
rút lui xuống đồng bằng. Từ Ban Mê Thuột, Thiếu Tá Long đưa đơn vị vượt
Cao Nguyên Di-Linh băng rừng đi bộ về Bảo Lộc, xong tiếp tục cắt rừng
theo hướng tây-nam để về Long Khánh. Tướng Đảo đã dùng trực thăng bốc
toán quân 200 người sống sót còn lại của đơn vị nầy về phòng thủ Long
Khánh. Với quân số như kể trên, Sư Đoàn 18 Bộ Binh quả thật đã gánh một
nhiệm vụ quá khổ dẫu trong thời bình yên chứ chưa nói về tình thế khẩn
cấp của tháng 4, 1975. Cần nhắc lại rằng trước 1972 để phòng thủ vùng
Long Khánh-Biên Hòa đã phải tăng cường một lữ đoàn thuộc lực lượng
Hoàng Gia Úc-Tân Tây Lan, Lữ Đoàn 11 Chiến Xa Hoa Kỳ cùng những đơn vị
bộ binh, nhảy dù Mỹ. Ngoài ra còn có Sư Đoàn Mãng Xà Vương Thái Lan tăng
phái, trách nhiệm vùng Long Thành, dọc Quốc Lộ 15, đường đi VũngTàu.
Tướng Lê Minh Đảo nắm quyền chỉ huy Sư Đoàn 18 từ sau trận chiến Mùa Hè
1972, và ông đã mau chóng tạo nên sự biến đổi thần kỳ cho đơn vị với bản
lãnh của một võ tướng là Sống-Chết cùng Binh Sĩ-Đơn Vị. Đối mặt binh đội
của Tướng Đảo là Quân Đoàn IV Cộng Sản BắcViệt do Trung Tướng Hoàng Cầm
chỉ huy. Sau trận mở màn chiếm đóng Phước Long cuối năm 1974 với chứng
tỏ phía Mỹ hoàn toàn im lặng. Cũng tương tự như phản ứng thụ động của
Hạm Đội 7 Hoa Kỳ để mặc Hải Quân Trung Cộng chiếm đóng Hoàng Sa, tấn
công tiêu diệt Hạm Đội Việt Nam trong Tháng 1, 1974.
Để đánh Long Khánh, Tướng Hoàng Cầm được cả một bộ chính trị đảng cộng
sản Hà Nội trực tiếp chỉ đạo, yểm trợ, bao gồm: Văn Tiến Dũng, tổng tham
trưởng quân đội Miền Bắc; Phạm Hùng, bí thư Trung ương cục Miền Nam; Lê
Đức Thọ bí thư trung ương đảng giữ nhiệm vụ chính ủy chiến dịch. Tất cả
đồng có mặt tại Lộc Ninh, nơi chỉ cách chiến trường Long Khánh, Xuân Lộc
hơn 100 cây-số đường chim bay. Ngoài ra sau nầy khi thắng lợi nghiêng
về phía quân Cộng Hòa, bộ tư lệnh mặt trận Cộng Sản đã tăng cường thêm
Sư Đoàn 325, đơn vị tổng trừ bị quân đội Miền Bắc, là lực lượng nỗ
lực chính đánh chiếm Nha Trang, Phan Rang và Trung Đoàn 95B biệt lập từ
vùng châu thổ Sông Cửu Long kéo lên tăng cường. Cuối cùng nâng tỷ số tác
chiến lên thành 8 đánh 1.
5 giờ 40 sáng ngày 9 tháng 4, 1975, chiến dịch đánh chiếm Xuân Lộc bắt
đầu với một trận mưa pháo 2,000 quả đạn từ nhiều vị trí cùng đổ xuống
trung tâm thị xã Xuân Lộc như đã từng tàn sát An Lộc trong mùa Hè 1972.
Đúng 6 giờ 40, tám xe tăng được lính Trung Đoàn 165, đơn vị tiền phong
của Sư Đoàn 7 Cộng Sản tùng thiết xông vào trung tâm thị xã Xuân Lộc,
nơi đặt Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn 18. Lính Cộng Sản ngỡ rằng sau đợt pháo hung
hãn, và đội hình ào ạt với những chiếc T54, thế nào cũng sẽ tràn ngập
mục tiêu dễ dàng như đã xẩy ra ở Vùng I và II của tháng 3 vừa qua. Nhưng
hoàn toàn không phải là như thế, những xe tăng nầy mắc kẹt giữa bãi mìn
của một hệ thống tám lớp kẽm
gai và mìn bẫy mà Thiếu Tướng Đảo đã sẵn bố trí; không những chỉ thế,
những phi cơ A37 và F5 từ phi trường Biên Hòa được gọi đến chỉ sau ít
phút cất cánh, và trên đồng trống, giữa những khu rừng cao su đội hình
của toán quân Cộng Sản trở nên thành mục tiêu lộ liễu, trần trụi dưới
hỏa lực phi pháo của quân ta. Mặt đông của thị xã, dọc Quốc Lộ I, Trung
Đoàn 209 cũng của Sư Đoàn 7 cộng sản số phận cũng không mấy khả quan
hơn. Bởi đơn vị cộng sản gặp phải Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân của Thiếu
Tá Vương Mộng Long. Lính Biệt Động quyết đánh địch để trả hận lần lui
quân bi thảm của tháng trước từ mặt trận Ban Mê Thuộc. Hai tiểu đoàn của
Trung Đoàn 209 bị chôn chân trước tuyến phòng thủ của Tiểu Đoàn 82 Biệt
Động và Tiểu Đoàn 3 thuộc Trung đoàn 48 của Tướng Đảo.
Chiều tối ngày 9 tháng 4 phía cộng sản lại dụng tâm gây căng thẳng bằng
cách pháo vào khu vực thị xã với khoảng 2000 ngàn quả đạn trên khắp các
vị trí, kể cả khu vực dân chúng, nhà thương, nhà chùa, nhà thờ là những
nơi dân chúng chạy vào ẩn núp với hy vọng tội nghiệp là Cộng Sản sẽ
nương tay… 5 Giờ 30 sáng ngày 11, đợt tấn công thứ hai bắt đầu. Kết quả
cũng tương tự như ngày 9, quân Cộng Hòa giữ chắc vị trí, có khác chăng
thêm một số chiến xa bị bắn hạ trên tuyến phòng ngự và một số tù binh bị
bắt. Tướng Đảo không quên ra lệnh xuất kho Quân Tiếp Vụ để nuôi số tù
binh mới mẻ nầy. Những ngày thất bại nầy được Hoàng Cầm viết lại trong
Lịch Sử Quân Đội Nhân Dân: "Trong ba ngày đầu tiên của chiến dịch, Sư
Đoàn 7 bị tổn thất 300 chiến sĩ; Sư 341 thiệt hại 1,200 bộ đội..Tất cả
pháo 85 và 57 ly đồng bị phá hủy "Cùng ngày Không Quân VNCH cũng góp
thêm vào chiến thắng qua hủy diệt hơn 100 xe quân sự tăng viện cho mặt
trận. Ở Sài Gòn, không khí lạc quan bừng lên, Tổng Thống Thiệu thúc dục
Tướng Toàn cố gắng giữ vững Xuân lộc để có thế đảo ngược tình thế… Để
"B52 có thể trở lại!". Tướng Toàn xử dụng Lữ Đoàn 3 Thiết Kỵ của Chuẩn
Tướng Trần Quang Khôi từ Trảng
Bom cố mở đường tiếp cận với cánh quân Xuân Lộc, nhưng lực lượng thiết
kỵ không thành công trong việc phá chốt ở Ấp Hưng Lộc, Biên Hòa. Không
thành công trong việc dùng chiến xa để giải toả áp lực Cộng Sản tại Xuân
Lộc, Tướng Toàn xử dụng một thành phần hữu hiệu hơn. Đấy là Lữ Đoàn 1
Nhảy Dù gồm bốn tiểu đoàn 1, 2, 8 và 9 được Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Dù
trực tiếp yểm trợ. Cuộc hành quân không vận lớn nhất của trận chiến thực
hiện trong hai ngày 11, 12 đưa đơn vị tổng trừ bị cuối cùng của Miền Nam
vào trận.
Lần xuất
hiện của lực lượng Nhảy Dù tại trận địa đặt nên vấn đề nghiêm trọng đối
với bộ tư lệnh chiến dịch Cộng Sản. Chiều ngày 11 Tháng Tư, Văn Tiến
Dũng, Lê Đức Thọ và Trung Tướng Trần Văn Trà Bộ Trưởng Quốc Phòng của tổ
chức gọi là Chính Phủ Lâm Thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam thay thế Tướng
Hoàng Cầm duyệt soát lại kế hoạch tấn công theo chiều hướng mới. Bộ Tư
Lệnh Cộng Sản quyết định mở một mặt trận giả nhằm đánh lạc hướng quân
đội Cộng Hòa bằng cách chuyển hướng tấn công theo đường đi vòng Xuân Lộc
để thực sự tiến thẳng về Sài Gòn. Lực lượng Cộng Sản dần rút đi theo kế
hoạch mới của họ nên Tướng Đảo lập tức ra lệnh cho các đơn vị chiếm lại
những vị trí bị địch chiếm giữ, tiếp nhận thực phẩm, quân trang, đạn
dược và tải thương. Cũng quả thực ông không biết được sự thay đổi quan
trọng về kế hoạch mới của Trung Ương Cục Miền Nam chỉ đạo từ Hà Nội.
Nhưng ông làm đươc gì hơn với chức vụ tư lệnh một sư đoàn bộ binh trong
giờ phút nguy nan nhất của cuộc chiến khi người Mỹ sắp xếp lại một trật
tự mới trên toàn thế giới qua liên
lạc
với Trung Cộng bằng cách giải quyết hy sinh Miền Nam.
Hai trái bom CBU 55 "Daisy Cutter" nặng 15.000 cân Anh rơi xuống từ lòng
chiếc C130 phá toang một vùng rộng lớn trong phòng tuyến của quân cộng
sản dọc Quốc Lộ 20 tăng cường thêm sự quyết tâm giữ vững Long Khánh của
phía quân Cộng Hòa, nhưng cũng chính là màn khói vô tình giúp cho lần
rút đi theo kế hoạch mới của phía cộng sản để lại 235 xác bộ đội đếm
được trên trận địa. Không một ai trong Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III ở Biên
Hòa, nơi Phòng hành quân Tổng Tham Mưu Sàigòn ước tính được ý niệm hành
quân của phía Cộng Sản là sẽ siết chặt Biên Hòa-Sài Gòn với hai gọng kềm
theo hai hướng Bắc và Đông bằng cách cắt Quốc Lộ I ở Dầu Giây và Quốc Lộ
15 ở Long Thành.
Tòa Đại Sứ Mỹ phấn khởi trước chiến thắng Long Khánh cố nài Quốc Hội Mỹ
chuẩn chi 722 triệu quân viện khẩn cấp cho Việt Nam. Nhưng trong phiên
họp ngày 17 tháng 4, Ủy Ban Quân Sự Thượng Viện đã bác bỏ thẳng thừng
qua câu nói bất cận nhân tình của hai Thượng Nghị Sĩ Jacob Javits và
Edmund Muskie:
"Cho tiền để lo việc di tản thì bao nhiêu cũng được chứ một xu cho
ngân sách quân sự cho Thiệu cũng không có".
Cuối cùng, Ngày 20 tháng 4, Tướng Toàn tư lệnh và Đại Tá Thọ, Trưởng
Phòng Hành Quân Quân Đoàn III đích thân đến giao cho Tướng Đảo một lệnh
mơ hồ nhưng
vô cùng kích động: "Lệnh
của Tổng Thống Thiệu Sư Đoàn 18 rút bỏ Xuân Lộc về bảo vệ mặt trận Sài
Gòn.”
Thiếu Tướng Đảo chỉ có đúng nửa ngày để hoàn tất một kế hoạch rút quân
bao gồm lực lượng một sư đoàn cơ hữu cùng các đơn vị tăng phái và yểm
trợ, chưa kể thành phần diện địa của Tiểu Khu Long Khánh. Nhưng như một
phép lạ Thiếu Tướng Lê Minh Đảo đã hoàn tất cuộc lui binh về Bà Rịa, bảo
toàn đơn vị, vũ khí, thậm chí đến hai khẩu pháo 175 ly hạng nặng cũng
giao lại đủ cho Quân Đoàn. Cũng một phần, lực lượng giữ nhiệm vụ hậu vệ
đoàn di tản là Lữ Đoàn 1 Nhẩy Dù do Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh chỉ huy.
Trung Tá Đỉnh là Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 6 Dù. Tiểu đoàn 6 là đơn vị
đã giải tỏa An Lộc trong trận đánh ngày 8 tháng 6, 1972 mà đơn vị Cộng
Sản đóng chốt ở Xa Cam, nam An Lộc chỉ còn đúng một người bị bắt làm tù
binh tên gọi là Nguyễn Văn Tiền.
Một điều cần ghi thêm là Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng, Tư Lệnh Sư Đoàn dù
đã bất chấp lệnh của Tổng Tham Mưu, nên đã gởi một đơn vị Nhảy Dù khác
là Tiểu Đoàn 7 Nhẩy Dù do Trung Tá Nguyễn Lô, đơn độc đưa quân đi ngược
Tỉnh Lộ 2 từ Bà Rịa lên Long Khánh đón đoàn quân di tản. Tiểu Đoàn 7 Dù
là đơn vị cuối cùng chận giặc nơi Cầu Xa Lộ, cửa ngõ
chính của Sài Gòn ở hướng Bắc trong buổi sáng Ngày 30 Tháng Tư. Khi
Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng, buông súng, Thiếu Tướng Lê Minh Đảo
dừng quân trên xa lộ Biên Hòa, nhìn về hướng Trường Bộ Binh Thủ Đức,
Long Thành, Bà Rịa, và xa kia là Xuân Lộc, Long Khánh, gần hơn Trung
Liệt Đài của Nghĩa Trang Quân Đội Long Bình… Ông thấy thấp thoáng bức
tượng Tiếc Thương tạc hình Người Lính Chờ Đợi in hình trong không gian
mờ khói đạn.. Người lính cuối cuộc
chiến
chợt thoáng nhớ những lời thơ ngắn: Vì
anh là Lính áo rằn. Ra đi nào biết mấy trăng mới về.. Những
câu thơ của em ông, Cố Trung Tá Lê Hằng Minh Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn
2 Thủy Quân Lục Chiến "Trâu Điên", người lính đã ra đi từ một ngày Hè
năm 1966 nơi chiến trường Trị-Thiên, ở chân Cầu Câu Nhi Phường. Phường
Câu Nhi, quận Phong Điền, Thừa Thiên là những nơi đâu? Rất nhiều Người
Lính đã ra đi, không trở về từ những vùng đất không hề biết. Hôm ấy,
sáng 30 Tháng Tư, 1975, rất nhiều Người Lính không còn chốn trở về - Những
Người Lính Mất Quê Hương.
Viết lại lần cuối,
Cali, 15 Tháng Hai,
2025
Người Lính Phan
Nhật Nam