; }

Friday, December 13, 2024

HỆ TƯ TƯỞNG CHỦ NGHĨA DUY VẬT CỦA MARX LÀ: VÔ GIA ĐÌNH, VÔ TỔ QUỐC VÀ VÔ TÔN GIÁO!

KHI QUỐC GIA BỊ CHỦ NGHĨA DUY VẬT (CHỦ NGHĨA TOÀN CẦU) LÃNH ĐẠO, LOÀI NGƯỜI SẼ BỊ ĐÓI NGHÈO VÀ TRỞ THÀNH NÔ LỆ CHO NHÓM NGƯỜI LÃNH ĐẠO THEO CHỦ NGHĨA DUY VẬT. VÌ, TẤT CẢ VẬT CHẤT CHỈ CUNG ỨNG CHO GIAI CẤP LÃNH ĐẠO ĐỂ CAI TRỊ NHÂN DÂN - DÂN NO, CHỦ NGHĨA DUY VẬT KHÓ CAI TRỊ HỌ!


Hệ tư tưởng chủ nghĩa duy vật của Marx là gì và tại sao những tư tưởng của nó lại đi ngược với giá trị của Mỹ?

Hệ tư tưởng chủ nghĩa duy vật của Marx dựa trên nền tảng lý thuyết của Darwin về tiến hóa loài, từ đó suy ra rằng con người sinh ra từ vượn, bởi vậy không tồn tại Thần, Chúa, Phật hay địa ngục; muôn loài tự sinh, tự diệt, mạnh thắng yếu, thúc đẩy đấu tranh vũ trang và coi đó như nền tảng phát triển xã hội.

Cổ súy rằng không tồn tại Thần, không tồn tại Nhân - Quả, không tồn tại Thiên đường - Địa ngục, chủ nghĩa duy vật của Marx thúc đẩy con người bất tín vào Thần, phủ nhận Thần và phải đấu tranh để đạt được lợi ích. Marx và các tín đồ sau Marx hoặc những quốc gia triển khai tư tưởng của Marx như một cuốn "kinh sách" để phát triển kinh tế -xã hội, đã không ngừng sử dụng sự hữu hạn của khoa học hiện đại, thậm chí là ngụy khoa học để đảm bảo con người tin vào khoa học, thay thế niềm tin vào Thần.

Đồng thời, để bù đắp vào sự thiếu hụt niềm tin của con người vào Thần, những nơi áp dụng chủ nghĩa Marx không ngừng tạo ra lãnh tụ với hình ảnh như thánh nhân để các thần dân trong xã hội đó tôn thờ. Những người theo chủ nghĩa Marx tin rằng, khi chết đi họ sẽ về với thế giới của Marx. Điều này khá mâu thuẫn khi chính Marx cho rằng không tồn tại thế giới sau khi chết.

Vì bất tín vào Thần, để phụng sự cho sự "thoải mái của dục vọng", thường thì người theo chủ nghĩa cấp tiến, tự do gần gũi với tư tưởng của Marx; về cơ bản họ cổ súy nạo phá thai, tình dục đồng tính, giải phóng tình dục, đấu tranh giai cấp...

Những người biểu tình quá khích đã đập phá các bức tượng nhân vật lịch sử ở các thành phố lớn của Hoa Kỳ (Ảnh: Tasos Katopodis/Getty Images)

Muốn thúc đẩy đấu tranh, các mâu thuẫn cần được "phát sinh và làm cho trầm trọng" trong xã hội loài người. Bởi vậy, Marx chia con người thành giai cấp theo sở hữu, theo tri thức... từ đó thúc đẩy đấu tranh vũ trang giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản nhằm phân chia lại tài sản, thúc đẩy đấu tranh vũ trang và coi đó như nền tảng phát triển xã hội.

Về kinh tế, chủ nghĩa Marx muốn xóa bỏ hoàn toàn sở hữu tư nhân và cho rằng con người sẽ hạnh phúc khi không sở hữu gì. Làm thế nào để khiến con người từ bỏ sở hữu của mình? Có hai con đường:

1. Cưỡng chế: kích động đấu tranh giai cấp, giai cấp vô sản phát sinh đấu tranh không ngừng với giai cấp tư sản để chiếm quyền kiểm soát, điều hành quốc gia. Sau khi thành công, quốc hữu hóa toàn bộ tài sản tư nhân. Chính quyền sẽ thay mặt toàn dân sở hữu, kinh doanh, rồi phân phối lại tài sản này. Trường hợp điển hình là Trung Quốc, Venezuela, Cuba, Triều Tiên. Để đảm bảo toàn dân phụ thuộc vào chính quyền, các chính quyền như vậy không ngừng tuyên truyền về kẻ thù vô hình ngoài quốc gia của họ, về sự bảo vệ an toàn và tuyệt đối mà chính quyền dành cho người dân của họ cũng như âm thầm đàn áp vũ trang, kiểm duyệt thông tin, kiểm soát tư tưởng của mọi người dân;

2. "Kẹo bọc đường": tốn thời gian hơn, âm thầm và mềm mỏng hơn, đó là tạo ra các chính phủ ngày càng lớn (thông qua vay nợ và can thiệp sâu vào thị trường tự do, thu thuế cao), chính sách phúc lợi ngày càng lớn do thu thuế cao và phân phối lại cho người dân, cổ vũ tư tưởng cấp tiến trong xã hội như giải phóng tình dục, nạo phá thai, hôn nhân đồng tính... (các tư tưởng cấp tiến này thúc đẩy con người buông bỏ niềm tin vào Thần). Tạo ra đấu tranh mạnh mẽ trong xã hội: công bằng giới tính, chủng tộc. Họ cũng tạo ra "các con ma" để làm người dân tin rằng chỉ một chính phủ cực lớn mới khống chế được các "con ma" khủng khiếp này. Hiện tại, xã hội phương tây tạo ra "các con ma" này qua chủ nghĩa môi trường cực đoan, khủng hoảng kinh tế liên miên theo chu kỳ, đại dịch...

Mục đích cuối cùng của của chủ nghĩa duy vật Marx là con người cắt đứt niềm tin vào Thần, từ đó tự do phóng túng dục vọng (chủ nghĩa tự do, cấp tiến), giao phó hoàn toàn tài sản, sinh mệnh của mình cho Chính quyền (thực chất là một nhóm chính trị gia), tôn thờ duy nhất các lãnh tụ của chính quyền này, và hoàn toàn sống trong môi trường không gian mà chính quyền đó cho phép.

Nền kinh tế hoàn toàn bị kiểm soát bởi chính quyền, trong khi nền kinh tế thị trường mới thật sự mang lại sự tích lũy, tái đầu tư và của cải cho các cá nhân, doanh nghiệp tư nhân, nguồn gốc của đổi mới sáng tạo - vốn là nền tảng dẫn tới sự thịnh vượng bền vững - đều bị xóa bỏ.

Hiển nhiên, chủ nghĩa vô thần của Marx đi ngược lại hoàn toàn với tuyên ngôn lập quốc hữu thần của Mỹ - được cho là nền tảng tạo nên chuẩn mực đạo đức và sự thịnh vượng của Mỹ - đó là niềm tin vào Chúa (in God we trust) và nền kinh tế tự do, nguồn gốc của đổi mới, sáng tạo, nguồn gốc tạo nên sự đứng đầu của Mỹ về khoa học, công nghệ và thịnh vượng.

Nước Mỹ đang đứng trong cuộc chiến để lựa chọn hệ tư tưởng. Hiển nhiên, hai hệ tư tưởng vốn đối nghịch và không thể dung hòa, bởi vậy đây được xem như cuộc chiến chính - tà gay cấn nhất trong lịch sử nước Mỹ. (Ảnh: NTD Việt Nam tổng hợp)

Nước Mỹ đang đứng trong cuộc chiến để lựa chọn hệ tư tưởng. Hiển nhiên, hai hệ tư tưởng vốn đối nghịch và không thể dung hòa, bởi vậy đây được xem như cuộc chiến chính - tà gay cấn nhất trong lịch sử nước Mỹ. (Ảnh: NTD Việt Nam tổng hợp)

Tổng thống Trump từng nói: “Chừng nào còn có Thiên Chúa, chúng ta sẽ không bao giờ, không bao giờ đơn độc. Dù bạn là người lính đứng gác ca đêm, hay người cha, người mẹ đơn thân làm việc ca đêm, Thiên Chúa sẽ luôn ban cho chúng ta niềm an ủi, sức mạnh và sự khích lệ. Chúng ta cần phải cứ tiếp tục tiếp tục tiến lên”.

Liệu có nghịch lý không khi một quốc gia dẫn đầu thế giới về các phát minh khoa học và sở hữu công nghệ tối tân, lại gửi gắm hoàn toàn niềm tin vào Thiên Chúa? Kết quả điều tra của Gallup cho thấy 95% người Mỹ đặt niềm tin vào Thiên Chúa, nghĩa là cứ 10 người Mỹ thì có tới hơn 9 người tin vào sự chở che của Ngài. Kết quả thăm dò của Gallup dựa trên các cuộc phỏng vấn điện thoại được tiến hành ngẫu nhiên với những người từ 18 tuổi trở lên tại 50 bang và đặc khu Columbia.

Trong suy nghĩ của người Mỹ, Chúa đã tạo ra họ và họ thuộc về Chúa. Chúa ban cho họ sức mạnh và ý chí vì họ cho rằng năng lực của con người là vô cùng nhỏ bé. Chỉ có ở Mỹ, bạn mới biết câu nói mà từ dân thường cho đến giới tinh hoa sử dụng nhiều nhất, đó chính là “God bless you” (Cầu Chúa phù hộ cho bạn).

Trong Ngày Cầu Nguyện Quốc gia (2018), Tổng thống Donald Trump nói rằng: “Những gì tôi hay nghe nhất ở đất nước chúng ta là 6 từ luôn luôn chạm đến trái tim tôi – “Cầu Chúa phù hộ cho bạn”.

Ở Mỹ, nếu một người Thiên Chúa giáo nào yêu quý bạn, món quà mà họ trân quý muốn dành tặng bạn chính là cuốn Kinh Thánh, và lòng nhiệt thành họ dành cho bạn là mời bạn đi dự những sự kiện của nhà thờ.

Dường như, nước Mỹ không chỉ đang ở trong cuộc khủng hoảng bầu cử lớn nhất lịch sử, cuộc khủng hoảng hiến pháp thực sự, mà thực chất đang đứng trong cuộc chiến để lựa chọn hệ tư tưởng. Hiển nhiên, hai hệ tư tưởng vốn đối nghịch và không thể dung hòa, bởi vậy đây được xem như cuộc chiến chính - tà gay cấn nhất trong lịch sử nước Mỹ.

Mà vận mệnh của nước Mỹ lại ảnh hưởng vô cùng sâu rộng tới vận mệnh toàn cầu, với lịch sử loài người hiện đại.

Thanh Đoàn - Đức Duy

 

Tuesday, November 19, 2024

TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM VÀ NĂM NĂM VÀNG SON CỦA VIỆT NAM CỘNG HÒA 1955 - 1960

 Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng

Ngô_Đình_Diệm_voting_in_1959_South_Vietnamese_parliamentary_election,_August_30th_1959
Ngô Đình Diệm (phải) bỏ phiếu trong cuộc bầu cử quốc hội năm 1959


Nước sông dâng lên cá lội ngù ngờ
Nước sông xanh lơ bóng in cây dừa
Về về đây Miền Đồng Nai có Cửu Long
Nguồn chảy dâng trời Nam mạch sống
Hội Trùng Dương – Phạm Đình Chương
 
Từ trên cao nguyên Tây Tạng con sông Cửu Long cuồn cuộn chảy như thác lũ xuống phía nam qua tỉnh Vân Nam, tới Lào, Thái Lan, Kampuchia, rồi Việt Nam trước khi ra Biển Đông. May cho Miền Nam là có hồ lớn Tonle Sap ở Campuchia hút đi một phần lớn lượng nước từ thượng nguồn cho nên từ đây dòng sông lại uốn khúc hiền hòa chảy vào Miền Nam. Tới gần biên giới thì con sông chia ra làm 8 nhánh. Nhưng con số 9 được coi là may mắn, vì vậy phải tìm ra cho được một nhánh nữa, tuy là rất nhỏ (dài khoảng 10 dậm) để cộng lại thành ra 9 nhánh, gọi là Cửu Long Giang. Dòng sông Chín Con Rồng uốn mình tưới nước cho vùng đồng bằng Nam Bộ mầu mỡ, phì nhiêu trở thành vựa lúa của cả nước. Người nông dân nơi đây chỉ cần trồng mỗi năm một vụ là cũng đủ ăn, lại còn dư thừa để tiếp tế ra Miền Bắc và xuất cảng.
 
Nhưng trong mười năm chiến tranh loạn lạc (1945-1955), trên một phần ba đất trồng trọt đã bị bỏ hoang, nhường chỗ cho những bụi rậm và cỏ dại lan tràn. Một phần lớn hệ thống kênh rạch cũng bị khô cạn hay sình lầy. Hệ thống bơm nước, thoát nước cũng bị hư hại. Bởi vậy, sản xuất thóc gạo của Miền Nam trong mười năm trước 1955 đã bị giảm đi đáng kể. Ngoài ra, các phương tiện giao thông như đường bộ, đường sắt, cầu cống và các cơ sở công kỹ nghệ như đường trắng, rượu bia, sợi bông cũng đều bị hư hại.
 
Cho nên vào năm 1955, khi TT Ngô Đình Diệm khai sinh nước Việt Nam Cộng Hòa thì quốc gia ấy đã phải đối diện với bao nhiêu khó khăn khôn lường. Ngân sách của Pháp để lại thì thật eo hẹp, kỹ sư, chuyên viên trong mọi lãnh vực đều hết sức hiếm hoi vì Pháp đã rút đi hầu hết các chuyên gia, để lại một lỗ hổng lớn cho cả nển kinh tế lẫn hành chánh, giáo dục, y tế.
 
May mắn là trong 5 năm đầu, từ mùa Thu 1955 tới mùa Thu 1960, Miền Nam có được năm năm vàng son, vừa có hòa bình lại được đồng minh Hoa kỳ hết lòng yểm trợ vật chất và kỹ thuật cho nên đã thu lượm được nhiều kết quả có thể nói là vượt bực. Hồi tưởng lại thời gian ấy, nhiều độc giả chắc còn nhớ lại cái cảnh thanh bình khi các em học sinh mặc áo chemise trắng, quần xanh, các nữ sinh với những chiếc áo dài trắng tha thướt ngày ngày cắp sách đến trường. Cha mẹ, anh em thì lo công việc làm ăn. Giầu có thì chưa thấy nhưng hầu hết đã đủ ăn đủ mặc, xã hội trật tự, kỷ cương. Tuy dù có nhiều bất mãn khó tránh về chính trị, tôn giáo và xã hội, nhưng tương đối thì ta phải công nhận rằng đây là thời gian hào quang nhất của Cộng Hòa Việt Nam.

Định cư gần một triệu người di cư từ Miền Bắc

Công việc đầu tiên và khẩn cấp nhất là phải định cư tới gần một triệu người, tương đương bằng 7% dân số Miền Bắc di cư vào Nam. Đoàn người này hoàn toàn ‘tay trắng’ chúng tôi gọi là đoàn người ‘bốn không’: không nhà cửa, đất đai, tiền bạc, ngành nghề chuyên môn ngoài nghề nông. Làm sao tìm được nơi ăn, chỗ ở, tạo dựng lại được công ăn việc làm, đào giếng nước, xây nhà thương, bệnh xá, trường học cho con em để đáp ứng nhu cầu. Ngoài việc hành chính, lại còn tìm đâu ra bác sĩ, y tá, thầy dạy cho con em. Sau này khi nói về thành công của Tổng thống Diệm về việc này, TT Kennedy viết cho ông nhân ngày Quốc Khánh 26/10/1961:
 
Thưa Tổng thống,       
“Thành tích mà Ngài đã đạt được để đem lại niềm hy vọng mới, nơi cư trú và sự an ninh cho gần một triệu người lánh nạn cộng sản từ Miền Bắc đã nổi bật như một trong những nỗ lực đáng được tán dương nhất, và được điều hành tốt đẹp nhất trong thời hiện đại.”

Tái thiết và phát triển nông nghiệp

Ưu tiên của công việc tái thiết và phát triển phải là nông nghiệp vì đại đa số nhân dân làm nghề nông. Đồng bằng Cửu Long là vựa lúa của cả nước, nhưng sản xuất đã giảm đi đáng kể trong mười năm ly loạn. Thời tiền chiến sản xuất lên tới 4.2 triệu tấn (1939). Tới 1954 chỉ còn 2.5 triệu tấn. Cũng năm 1939 xuất cảng gạo là gần 2 triệu tấn, năm 1954 chỉ còn 520,000 tấn.

Tại vùng đồng bằng, trong tổng số là 7 triệu hecta đất trồng trọt có tới 2.5 triệu hecta (trên một phần ba) bị bỏ hoang. Lúa gạo là mạch máu của người dân cho nên công việc đầu tiên là phải đưa diện tích này vào canh tác. Đây là một cố gắng vượt mức vì không những nó đòi hỏi phải tốn phí nhiều tiền bạc, công sức, để sửa chữa lại hệ thống thủy lợi, vét nạo kênh rạch, lại còn làm sao xây dựng được quyền sở hữu đất đai và phương tiện sản xuất cho người nông dân.

Cải cách điền địa

Người khôn của khó. Lo lắng chính của người dân là làm sao có được một mảnh đất để sinh sống. Nếu như mảnh đất ấy lại nằm gần sông nước thì là vàng. ‘Đất Nước tôi’: đất và nước. Chỉ có Việt Nam ta là dùng hai chữ đất và nước để chỉ quê hương, tổ quốc mình vì tấc đất là tấc vàng. Các biện pháp cải cách ruộng đất bắt đầu vào năm 1955 với lệnh giới hạn địa tô (tiền thuê đất) và những biện pháp giúp cho tá điền (người nông dân thuê đất) có được sự yên tâm về quyền sử dụng đất. Cải cách điền địa là công việc rất khó khăn của các chính phủ Á Châu, nhưng ở Miền Nam là khó khăn nhất. Làm sao mà lấy ruộng của người này chuyển cho người khác, nhất là khi đất canh tác lại tập trung vào một số rất nhỏ đại điền chủ? Họ là những người nắm thực quyền tại địa phương và gián tiếp, tại đô thị. Ở đồng bằng sông Cửu Long, sự tập trung quyền sở hữu đất vào một số điền chủ là cao nhất ở vùng Đông Nam Á: chỉ có 2.5% điền chủ mà đã sở hữu tới một nửa diện tích canh tác, trung bình mỗi điền chủ có hơn 50 mẫu đất. Trước tình huống ấy, TT Diệm đã phải đối mặt với một khủng hoảng xã hội rất có thể xẩy ra nếu như phát động mạnh chương trình cải cách điền địa. Nhưng TT Diệm vẫn đặt vấn đề này là ưu tiên số một của chính sách kinh tế, bắt đầu ngay từ 1955 bằng việc cải tổ quy chế tá điền. Để hỗ trợ cho nông dân được yên tâm khi đi làm thuê, điền chủ phải ký hợp đồng với tá điền về điều kiện thuê đất: tiền thuê đất, thời hạn thuê, triển hạn khế ước, giảm tô trong trường hợp mất mùa.
 
Kết quả về nông nghiệp trong 5 năm rất khả quan: sản xuất cây lương thực tăng 32 phần tram, vượt qua tất cả mức sản xuất thời tiền chiến. Năm 1959 sản xuất gạo lên 5.3 triệu tấn, cao nhất trong lịch sử kinh tế Miền Nam cho tới thời điểm đó. Về xuất cảng: với tổng số là 340,000 tấn, năm 1960 cũng đánh dấu mức xuất cảng cao nhất.

Phát triển công kỹ nghệ

Dưới thời Pháp thuộc, kỹ nghệ và tài nguyên hầu như không được phát triển vì người Pháp chia ra hai vùng rõ rệt: Miền Bắc tập trung vào kỹ nghệ và khai thác hầm mỏ, Miền Nam thì căn bản là tập trung vào nông nghiệp, chỉ có một số sản phẩm tiêu thụ như nhà máy bia, diêm quẹt, thuốc lá, độc quyền thuốc phiện. Bởi vậy từ 1955, Miền Nam bị cắt đứt tiếp liệu về than và khoáng sản. Chuyên viên kỹ thuật, kỹ sư lại thật ít ỏi vì Pháp đã rút đi hầu hết. Từng bước, chính phủ bắt đầu khai thác tài nguyên với ba dự án chính: mỏ than Nông Sơn, thủy điện Đa Nhim, và phốt phát tại Hoàng Sa - Trường Sa. Lúc ấy thì chưa biết là có dự trữ dầu lửa lớn ở những quần đảo này.
 
Một chuyện ít người biết là việc đổi quốc tịch. Nhiều người lên án hành động của TT Diệm là độc tài khi ông đưa ra quy định vào mùa hè 1955 căn bản là nhắm vào các thương gia người Tầu (đa số sinh sống ở Chợ Lớn): nếu muốn làm ăn ở Việt Nam thì phải đổi ra quốc tịch Việt Nam. Chúng tôi nghiên cứu thì mới hiểu lý do sâu xa là vì thời gian ấy, cơ sở kỹ nghệ ở Miền Nam căn bản là thuộc quyền sở hữu của người Pháp, cho nên khi TT Diệm quyết tâm đẩy Pháp ra khỏi Miền Nam thì ông tiên liệu trước và mở đường để người Tầu nhập quốc tịch Việt Nam với mục đích là để cho họ (vì có nhiều vốn liếng) sẽ có thể mua lại những cơ sở kỹ nghệ của người Pháp.
 
Một kích thích nổi bật khác về kinh tế là chính sách cởi mở, ưu đãi đối với các nhà đầu tư ngoại quốc: bảo đảm về chiến tranh, cam kết không tịch thu hay quốc hữu hóa tài sản của người ngoại quốc, ưu đãi về thuế má và cho phép chuyển tiền lời ra ngoại quốc.

Hạ tầng cơ sở

Tái thiết mạng lưới giao thông đã bị hư hại trong thời chiến và xây dựng thêm nữa là đòi hỏi tiên quyết cho việc phát triển kinh tế và xã hội. Tới năm 1960, hệ thống đường bộ, đường sắt, đường thủy và các tuyến hàng không đã được cải thiện canh tân và mở rộng đáng kể. Hệ thống vận chuyển hiện đại bao gồm đường sắt, một mạng lưới các đường quốc lộ, liên tỉnh lộ, hương lộ, đường thủy và đường hàng không.

Đường bộ: trong khoảng 9,000 dặm đường, có hơn 2,000 dặm là bê tông nhựa; 3,000 dậm đường có cán đá, và khoảng 4,000 dặm là đường hương lộ.

Đường sắt: năm 1955 giao thông đường sắt cũng được sửa chữa và canh tân. Tới 1959 toàn hệ thống bao gồm 870 dặm, gồm một tuyến đường chính chạy từ Sàigòn đến Đông Hà, nối kết toàn bộ các tỉnh dọc miền duyên hải (nhiều khúc bị cắt đứt trong 12 năm chiến tranh). Một chi nhánh đường sắt (có móc để leo đồi) đi từ Phan Rang lên Đà Lạt, và một chặng nối với mỏ than Nông Sơn. Một khúc ngắn về phía đông bắc, đi từ Sàigòn tới Lộc Ninh.

Hàng không: hãng Hàng không Quốc gia Việt Nam – Air Vietnam – được thành lập lúc đầu để bay trong nước. Ngoài phi trường Tân Sơn Nhất, các phi trường được sửa chữa lại và xây dựng thêm gồm Huế, Đà Nẵng, Nha trang, Qui Nhơn, Biên Hòa, Đà Lạt, Ban mê Thuột, Pleiku, Hải Ninh, Cần Thơ, Phú quốc. Từ nội địa, Air Vietnam bắt đầu bay tới Phnom Penh, Siem Reap, Bangkok, Vientianne và Savannakhet. Đường quốc tế phần lớn được đảm nhiệm bởi các hãng Air France, Pan American, World Airways, British Airways, Royal Dutch, Cathay Pacific và Thai Airways.

Ngân hàng và tiền tệ
Thiết lập được một ngân hàng trung ương và một hệ thống ngân hàng thương mại để thay thế cho Banque de L’Indochine và các ngân hàng thương mại Pháp ở Sài gòn là một thành quả lớn của thời đệ Nhất Cộng Hòa. Ngay từ tháng 1 năm 1955, Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam được thành lập để phát hành đồng tiền Việt Nam và thực hiện các nghiệp vụ của một ngân hàng trung ương tân tiến.

Giáo dục và đào tạo
Xét đến cùng, con người vẫn là yếu tố quan trọng nhất trong việc phát triển kinh tế lâu dài. Trong thời kỳ 1955-1960, Miền Nam đã phát triển giáo dục rất nhanh.

Tiểu học: 1960, đã có tới 4,266 trường tiểu học công và 325 trường tiểu học tư thục. Tổng số học trò lên tới gần 1,200,000.

Trung học: các trường trung học công lập tăng từ 29 lên 101 trường. Nguyên trường Gia Long: số học sinh đã tăng từ 1,200 lên tới 5,000.

Đại học: trước năm 1954, miền Nam không có đại học. Muốn học cử nhân phải ra Hà nội. Năm 1955 chính thức thành lập đại học Sàigòn, rồi tới Đại học Huế, Đà Lạt. Tới năm 1962 tổng số sinh viên lên tới 12,000. 
Xem như vậy, thành quả của “Năm Năm Vàng Son 1955-1960” là thời gian quý hóa nhất của lịch sử Cộng Hòa Việt Nam. 
Ngày Quốc Khánh 26/10/1960 TT Mỹ Dwight Eisenhower viết cho TT Diệm:
 
   “Kính thưa Tổng Thống,
 
 “Trong năm năm ngắn ngủi kể từ khi thành lập nước Cộng hòa, nhân dân Miền Nam đã phát triển đất nước của mình trong hầu hết các lĩnh vực. Tôi đặc biệt ấn tượng bởi một thí dụ. Tôi được thông báo rằng năm ngoái hơn 1,200,000 trẻ em Việt Nam đã có thể đi học trường tiểu học, như vậy là nhiều hơn gấp ba lần so với năm năm trước đó. Điều này chắc chắn là một yếu tố hết sức thuận lợi cho tương lai của Việt Nam. Đồng thời khả năng của Việt Nam để tự bảo vệ chống lại cộng sản đã lớn mạnh một cách không thể đo lường được kể từ khi họ tranh đấu hữu hiệu để trở thành một nước Cộng Hòa độc lập.”
 
Hòa bình là một điều kiện tiên quyết cho xây dựng và phát triển. Nhân dân Miền Nam đã có được năm năm vàng son để làm ăn, sinh sống trong hoàn cảnh tương đối là thanh bình. Tuy còn nghèo nhưng mỗi ngày lại thêm một bước tiến. Bao nhiêu độc giả cao niên còn nhớ lại những kỷ niệm êm đềm về thời gian ấy. Thí dụ bạn có thể đi bất cứ nơi nào một cách tự do từ Cà Mau ra tới tận Đông Hà. Mờ sáng lên xe buýt ra Vũng Tầu tắm biển hay buổi chiều đến ga xe lửa gần chợ Bến Thành mua vé đi Đà Lạt. Chỉ trong chốc lát, con tầu bắt đầu phun khói, còi tầu rít lên trước khi khởi hành. Khi mặt trời hé rạng thì tầu chạy ngang bờ biển cát trắng Phan Rang, giẽ trái rồi ỳ ạch leo tuyến đường sắt có móc để trèo dốc lên Đàlạt. Cái thú vui khi rời ga Đà Lạt (đẹp nhất Đông Nam Á) để mau tới “Café Tùng” hay “Phở Bằng” thưởng thức một ly cà phê sữa nóng thì khó có thể diễn tả được.
 
Với sự thông minh, cần cù của người dân Việt thì chỉ cần có hòa bình là tiến bộ trông thấy. Người dân lam lũ vất vả nhưng luôn vui với cuộc sống. Người nông phu không quản ngại thức khuya, dậy sớm để cầy sâu cuốc bẫm, chờ đợi cho tới ngày lúa vàng.
 
Tâm tư ấy luôn được phản ảnh trong thơ văn, âm nhạc Miền Nam trong thời gian này. Trời mùa hè oi ả, nóng nực, nhưng đêm đêm tiếng hát của ca sĩ Thái Thanh vọng ra từ những chiếc rađiô transistor nho nhỏ vẽ lên hình ảnh đồng quê thanh bình, đem lại luồng gió mát làm cho lòng người lắng dịu:

Mùa màng năm nay, gạo tròn ta xay
Đêm đêm thức giấc lúc gà chưa gáy
Vì đời an lành, nên lúa đa tình
Hứa cho đôi mình kiếp sống thanh bình.
 
Khi đất nước thanh bình, con người lại đối xử với nhau cho hài hòa thì mọi việc - dù là tát cạn cả Biển Đông - cũng đều có thể ước mơ:

Hỡi em tát nước bên ngòi,
Nàng ơi, Biển Đông ta tát cạn,
Nàng nàng ơi, cho đời thuận nhau
Nàng nàng ơi, cho đời thuận nhau!
                   (Vợ chồng quê- Phạm Duy)
    
Tuy các kết quả phát triển kinh tế xã hội thời đó thật là nhỏ nhoi theo tiêu chuẩn ngày nay, nhưng đáng kể so với các nước láng diềng lúc ấy như ngay cả Nam Hàn dưới thời TT Lý Thừa Vãn.
   
Trong năm năm hòa bình 1955-1960 TT Ngô Đình Diệm đã đặt được những viên gạch đầu tiên cho mô hình phát triển, đưa Miền Nam tới chỗ “cất cánh”  kinh tế học gọi là điểm take-off để trở thành một cường quốc tại Đông Nam Á.
   
Buổi bình minh của Nền Cộng Hòa
 thật là huy hoàng rực rỡ. Nhiều quan sát viên ngoại quốc cho rằng đây chính là “một cuộc cách mạng đã bị bỏ lỡ” (the lost revolution) của Miền Nam Việt Nam.
 
Nguyễn Tiến Hưng*
  
 Nguồn:https://vietbao.com/p190a320524/tt-ngo-dinh-diem-va-nam-nam-vang-son-cua-vnch-1955-1960