; }

Thursday, October 30, 2025

CHÍNH BIẾN 1-11-1963 & TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM

 

Tiểu Sử Tổng Thống NGÔ ĐÌNH DIỆM

 

Tổng Thống Ngô Đình Diệm sinh ngày 03 tháng 01 năm 1901 tại làng Đại Phong, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, con của Cụ Nhiếp Chánh Đại Thần Ngô Đình Khả và cụ bà Phạm Thị Thân.  Tổng Thống là người con thứ Ba trong gia đình có 6 trai và 3 gái.

 

Sáu trai là:

     NGÔ ĐÌNH KHÔI

     NGÔ ĐÌNH THỤC

     NGÔ ĐÌNH DIỆM

     NGÔ ĐÌNH NHU

     NGÔ ĐÌNH CẨN

     NGÔ ĐÌNH LUYỆN

 

Ba gái là:

     NGÔ ĐÌNH THỊ GIAO

     NGÔ ĐÌNH THỊ HIỆP

     NGÔ ĐÌNH THỊ HOÀNG

 

Cụ cố Ngô Đình Khả nổi danh là một vị khoa bảng xuất chúng. Thời đó, tại Việt nam rất hiếm có người được hấp thụ cả hai nền giáo dục Đông và Tây, như cụ cố Ngô Đình Khả.  Lúc thiếu thời, Cụ theo Nho học, sau đó vào chủng viện học chương trình Pháp, rồi được gửi sang Đại chủng viện Penang để học Triết học và Thần học bằng tiếng Pháp và tiếng La Tinh.  Cụ là một chủng sinh rất xuất sắc, nhưng vì không có ơn gọi để trở thành linh mục, Cụ đã xin trở về cuộc sống thế tục.  

 

            Cụ Cố Ngô Đình Khả còn nổi tiếng là một vị quan thanh liêm, cương trực, đức độ, một nhà ái quốc chân chính, là bạn thân của các nhà cách mạng nổi danh thời đó như các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Kỳ Ngoại Hầu Cường Để.  Thành tích đáng kể nhất của cụ cố Ngô Đình Khả là nổ lực thành lập Trường Quốc Học tại Huế, một trường công lập đầu tiên giảng dạy theo chương trình học thuật Đông Tây tại Việt Nam. Và chính Cụ là vị đại thần duy nhất đã can đảm công khai chống lại thực dân Pháp đã phế bỏ và đầy vua Thành Thái sang Phi Châu sống lưu vong.  Sau đó Cụ đã xin rũ áo từ quan về quê làm ruộng.

 

            Gia đình Tổng thống Ngô Đình Diệm rất trọng lễ giáo. Hằng năm vào dịp Tết Nguyên Đán, mọi người trong gia đình tụ họp đông đủ ở Phủ Cam - Huế.  Việc chúc thọ và chăm sóc cụ bà Ngô Đình Khả, được giao cho người con trai áp út Ngô Đình Cẩn, săn sóc chu đáo ngày đêm.

 

                 Ông bà Ngô Đình Khả có chín người con: 6 trai, 3 gái. Trưởng nam là  Tổng đốc Quảng Nam Ngô Đình Khôi, chết năm 1945 vì bị Việt Minh bắt giữ và xử tử.  Cùng bị bắt giữ trong đợt này còn có ông Phạm Quỳnh, và con trai ông Ngô Đình Khôi là Ngô Đình Huân, cựu Thanh tra Lao động trong chính phủ bảo hộ của Pháp.  Sau khi bị xử tử, xác của ông Ngô Đình Khôi và ông Phạm Quỳnh được chôn chung trong một hố.

 

            Sau ngày ông Ngô Đình Khôi qua đời, Tổng giám mục Ngô Đình Thục, trở nên người anh cả "quyền huynh thế phụ". Đức cha được kính nể và có nhiều ảnh hưởng đối với TT Ngô Đình Diệm. Ông Quách Tòng Đức cho biết, lúc còn ở Vĩnh Long, Giám mục Ngô Đình Thục cứ vài tuần thì về Sài gòn cư ngụ trong Dinh. Còn ông Ngô Đình Luyện là con út trong gia đình, nhận làm đại sứ ở Luân Đôn, năm khi mười hoạ mới về nước nghỉ phép, hay để dự các phiên họp của Hội Đồng Tối Cao Tiền Tệ, mà ông là một thành viên.

 

Ba người con gái là bà Ngô Đình Thị Giao tức bà Thừa Tùng, bà Ngô Đình Thị Hiệp tức bà Cả Ấm, thân mẫu của Đức Hồng y Nguyễn Văn Thuận, và bà Ngô Đình Thị Hoàng tức bà Cả Lễ, nhạc mẫu của Nghị sĩ Trần Trung Dung.

 

Cứ theo phần lớn tài liệu viết về TT Ngô Đình Diệm, sau ngày lên nắm chính quyền ở Nam Việt Nam, thì ông sinh vào ngày mồng 3 tháng 1 năm 1901 tại Phước Quả, Thừa Thiên (sát Thành Phố Huế).

 

            Nhưng theo kết quả sưu khảo của Nguyên Vũ tại các thư viện của Pháp, thì có một tài liệu của Nha Giám Đốc Các Sở An Ninh Pháp Tại Đông-Dương (Direction des Services Français de Sécurité en Indochine) tóm-tắt tiểu-sử của ông Ngô Đình Diệm, thực-hiện vào tháng 7 năm 1954, ghi rõ là ông Ngô Đình Diệm sinh ngày 27 tháng 7 năm 1897 tại Đại Phương, Quảng Bình.

 

          Lúc thiếu thời, ông Diệm đuợc theo học dưới sự dạy dỗ rèn cặp của một vị cha tinh thần, cũng nổi tiếng về kiến thức quảng bác, đức độ và lòng yêu nước. Đó là Quận Công Nguyễn Hữu Bài, quan Thượng Thư dưới triều vua Duy Tân. Ngài là vị đại thần duy nhất chống lại việc người Pháp tham lam muốn đào ngôi mộ vua Tự Đức để lấy vàng bạc châu báu. Vì thế dân chúng miền Trung thời đó vô cùng cảm kích, ngưỡng mộ nên đã có câu truyền khẩu:

 

“Đày vua không Khả.  Đào mả không Bài”.

 

Ngoài sự hấp thụ những đức tính cao đẹp và lòng yêu nước nồng nàn của thân phụ và nghĩa phụ, ông Diệm còn chịu ảnh hưởng sâu đậm của nền giáo dục Nho Giáo và Thiên Chúa Giáo.  Thực vậy, nếu Nho Giáo đã hun đúc ông Diệm thành một con người thanh liêm, tiết tháo và cương trực, thì nền giáo dục Thiên Chúa Giáo, đã đào tạo ông Diệm thành một con người đầy lòng bác ái, vị tha và công chính.

 

Về đường học vấn, lúc nhỏ ông theo học tại trường Pellerin Huế. 

 

Năm 1913, lúc 12 tuổi, ông thi vào trường Quốc Học Huế, dạy theo chương trình tổng hợp bằng Việt Ngữ và Pháp Ngữ.

 

Đến năm 1917, lúc 16 tuổi, ông đỗ hạng thứ nhì trong kỳ thi tốt nghiệp Trung Học. Vì số tuổi quá trẻ mà lại đạt thành tích xuất sắc, nên chính quyền thực dân Pháp đề nghị cấp học bổng cho sang Pháp du học, nhưng ông đã từ chối.

 

Năm 1918. Lúc mới 17 tuổi, ông đã được mời làm giáo sư Trường Quốc Tử Giám, một trường dành riêng cho con cháu các quan trong triều đình.

 

Đến năm 1919 (18 tuổi), ông đủ tuổi để vào học trường Hậu Bổ, một trường tương tự như Học Viện Quốc Gia Hành Chánh sau này. Trong suốt ba năm học, ông luôn luôn là một sinh viên xuất sắc trong các ngành hành chánh, chính trị, luật pháp.  Do đó ông đã tốt nghiệp thủ khoa.

 

Năm 1923, lúc 22 tuổi, ông được bổ nhiệm làm Tri Huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên, rồi Tri Phủ Hải Lăng tỉnh Quảng Trị.

 

Năm 1930 với thành tích tận tụy phục vụ đồng bào, ông được đề cử làm Tuần Vũ tỉnh Bình Thuận, Phan Thiết, khi vừa tròn 29 tuổi.

 

 Năm 1932, Hoàng Tử Vĩnh Thụy sau thời gian du học tại Pháp trở về nước, lên ngôi Hoàng Đế lấy hiệu Bảo Đại. Để thực hiện một cuộc cải tổ sâu rộng. Nhà vua đã mời ông Ngô Đình Diệm, lúc đó mới 31 tuổi, đang làm Tuần Vũ tỉnh Phan Thiết, đảm nhận chức vụ Thượng Thư Bộ Lại, một chức vụ đứng đầu Nội Các, tương đương Thủ Tướng ngày nay, và kiêm nhiệm chức Tổng Thư Ký Hội Đồng Hỗn Hợp PHÁP-VIỆT vào ngày 2 tháng 5 năm 1933.  Lúc đó ông Diệm vừa tròn 33 tuổi.

 

Với chức vụ quan trọng này, ông Diệm đề nghị thi hành các kế hoạch canh tân xứ sở, như bãi bỏ hai chức Thống Sứ Bắc Kỳ và Khâm sứ Trung Kỳ, đồng thời sát nhập hai kỳ Trung Bắc lại và bổ nhiệm một Thống Sứ cho cả hai miền, như cho phép Viện Dân Biểu được lo những vấn đề quốc sự giống như Quốc Hội. Nhưng, đề nghị của ông Diệm không được Toàn Quyền Pasquier chấp thuận.

 

Ngày 12 tháng 7 năm 1933, ông Diệm đệ đơn lên Hoàng Đế Bảo Đại xin từ chức. Việc từ quan của chí sĩ Ngô Đình Diệm đã làm chấn động Triều Đình Huế và Chính Phủ Pháp thời đó.

 

            Sau khi dứt khoát từ bỏ quan trường, ông Diệm lui về nhà làm dân thường.  Sau này khi được Hoàng Đế Bảo Đại chấp thuận, ông Diệm về dạy học tại trường Providence Huế.

 

Trong khi lui về dạy học, ông Diệm âm thầm nghiên cứu các sách vở và thường xuyên liên lạc với các nhà ái quốc như Cụ Kỳ Ngoại Hầu Cương Để, Cụ Phan Bội Châu và những nhà ái quốc cách mạng chống Pháp, hiện đang hoạt động tại Nhật Bản và trong nước, để mưu cầu dành Độc Lập Tự Do cho đất nước.

 

            Đến năm 1939-1945, Toàn Quyền Đông Dương là Thủy Sư Đô Đốc Jean Decoux ra lệnh cho Khâm sứ Trung Kỳ là Émille Grandjean, bắt ông Diệm đưa đi an trí tại Xieng Khoang, Lào. Nhưng nhờ có ông Nguyễn Bá Mưu làm Thông Phán tại Tòa Khâm Sứ biết được, đã vội vàng mật báo cho ông Diệm biết. Ông Diệm muốn trốn đi Phan Thiết, nhưng luôn bị Pháp truy lùng ráo riết, may nhờ có ông Trần Văn Dĩnh đang làm Hiến Binh cho Nhật, đã đưa được ông Diệm vào Sài gòn lánh nạn. (Sau này khi ông Diệm chấp chánh, đã cử ông Dĩnh làm Tổng Lãnh Sự tại Miến Điện, Tuỳ Viên Toà Đại Sứ rồi Xử Lý Thường Vụ Tòa Đại Sứ VNCH tại Hoa Thịnh Đốn).

 

Lánh nạn ở Sài gòn một thời gian, ông Diệm trở lại Huế để thăm mẹ già, và ông đã bị Việt Minh chặn bắt tại Tuy Hòa. Chúng giải ông ra Hà Nội .  Ông bị Hồ Chí Minh đưa đi an trí tại Thái Nguyên. Nhưng sau đó nhờ giới Công Giáo do Linh mục Lê Hữu Từ lên tiếng phản đối quyết liệt, buộc lòng Hồ Chí Minh phải trả tự do cho ông lại còn mời ông giữ chức Bộ Trưởng Nội Vụ.  Nhưng ông Diệm cương quyết khước từ.

 

Tháng 8 năm 1950 ông Diệm cùng người anh là Giám Mục Ngô Đình Thục rời Saigon đi La Mã dự lễ Năm Thánh. Trên đường đi ông Diệm ghé qua Đông Kinh, thủ đô Nhật Bản. Tại đây ông có tiếp xúc với một số người Mỹ, trong đó có Giáo sư Wesley Fishel. Ông Fishel khuyên ông Diệm nên sang thăm Hoa Kỳ.  Cũng trong dịp này ông Diệm đã ghé thăm các nước Bỉ, Thụy Sĩ, Pháp và sau đó ông sang Hoa Kỳ theo gợi ý của giáo sư Wesley Fishel.

 

            Tới Hoa Kỳ, ông Diệm tạm trú trong nhà Dòng Mary Knoll, ở Lakewood thuộc tiểu bang New Jersey và ở Ossining  tiểu Bang New York. Thời gian ở Hoa Kỳ, ông Diệm chú tâm trau giồi Anh Ngữ và được mời đến các trường Đại Học ở miền Đông và miền Trung Tây Hoa Kỳ để diễn thuyết về các vấn đề Việt Nam, Á Châu và hiểm họa Cộng Sản.

 

            Tại Hoa Kỳ, ông Diệm được gặp Đức Hồng Y Francis Spellman, Tổng Giám Mục Nữu Ước, vì Đức Hồng Y Francis Spellman là bạn thân của Giám mục Ngô Đình Thục từ lúc 2 người cùng học tại La Mã.  Ông còn giao tiếp với một số nhân vật trong chính giới Mỹ  như các ông Mike Mansfield, Clement J. Zablock, J. McCormack, Dân biểu Walter Judd, William Douglas...

 

           Vị Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện William Douglas, đã đưa ông Diệm đi ăn trưa với TNS Kennedy. Trong khi Đức Hồng Y Spellman cũng quen biết với đại sứ Joseph Kennedy (đại sứ Mỹ tại Anh Quốc).

 

Theo ông Robert Amory (phó giám đốc CIA) cho biết,  ông đã từng nghe đến tên tuổi ông Diệm, qua thẩm phán Tối Cao Pháp Viện William Douglas trong một buổi tiệc.

 

            Trong buổi họp tiếp theo, ông Robert Amory đem chuyện ông Diệm ra nói với giám đốc Allen Dulles và phó giám đốc Frank Wisner. Lúc này CIA có vẻ chọn lựa bác sĩ Phan Quang Đán làm người thay thế vua Bảo Đại. (Theo William Gibbons, "The US Government and Vietnam War", trang 261).

 

Sau đó, ông Diệm được Hoa Kỳ ủng hộ, khi ông về Việt Nam làm Thủ Tướng trong chính phủ Bảo Đại, sau Hiệp định Genève, rồi làm Tổng thống Đệ nhất Cộng Hòa Việt Nam.

 

Người có ảnh hưởng rất lớn trong việc đưa ông Diệm về chấp chính là Hồng Y Francis Spellman. Tác gỉa John Cooney (1985) đã viết: "Tuy rằng không có mấy người biết điều này, nhưng chính Hồng Y Spellman đã đóng một vai trò rất quan trọng trong việc tạo nên sự nghiệp chính trị, của một người đã ở trong một Trường Dòng ở New York trước đây, vừa trở thành Thủ tướng của miền Nam Việt Nam là ông Ngô Đình Diệm. Ở Diệm, Spellman nhìn thấy những đặc điểm mà ông ta muốn có trong một người lãnh đạo: Công giáo nồng nhiệt và chống Cộng đến cùng." [1]

            

Các ông William, Douglas và Kennedy rất tán thưởng đường lối và quan điểm của ông Diệm và đồng ý là Việt Nam, phải Độc Lập với nước Pháp ,và cần phải cải cách xã hội. Đến tháng 6 năm 1954, tình hình quốc nội rối ren, Hoàng Đế Bảo Đại chính thức mời ông Diệm về nước, giữ chức vụ Thủ Tướng toàn quyền về Dân Sự và Quân Sự. Ông Diệm về nước ngày 24 tháng 6 năm 1954, và chấp chánh quyền hành.

            

Friday, September 26, 2025

AI TẠO RA CHIẾN TRANH VIỆT NAM

 Bút Sử 

 General Leclerc, Ho Chi Minh, Jean Sainteny celebrated the signing March 6 Accord, 1946

 Hồ Chí Minh ký Hiệp Ước Sơ Bộ ngày 6/3/1946 với chính phủ Pháp do Đảng Xã Hội và Cộng Sản nắm quyền. Hai bên cụng ly chúc mừng. Một ngày sau phe HCM đón tiếp phái đoàn chính phủ Pháp tại Hà Nội và Pháp tuyên bố công nhận chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa của HCM. 

 D’ Argenlieu, Thống Đốc Đông Dương, chống đối HUSB  nhất là điều khoảng “thống nhất 3 kỳ”. Ông đã triệu tập buổi họp mặt với HCM trong Tàu Emile Bertin tại Vịnh Hạ Long, ngày 24/3/1946 

 Hình ảnh trước khi 2 bên bước vào bên trong tàu

  

 Ho Chi Minh and Amiral Thierry d’Argenlieu inside the Ship

Hồ Chí Minh tỏ ra tức giận vì sự chống đối của d’Argenlieu. Ông Thống Đốc cho rằng nếu “thống nhất 3 kỷ” nghĩa là phải có sự đồng ý của miền Nam. Sau đó d’Argenlieu tách Nam Kỳ ra thành khu tự trị để không bị dính dán gì tới HUSO.

 19/5/1946

Thierry d’Argenlieu ra Hà Nội để gặp HCM một lần nữa trước khi những phái đoàn qua Pháp dự Hội Nghị Fontainebleau. Đó là ngày 19/5/1946. HCM làm ra kế hoạch “mừng sinh nhật bác Hồ” để ‘lấy lòng’ ông d’Argenlieu. Từ đó 19/5 trở thành ngày sinh nhật. 

 Ho Chi Minh and his delegates walked along the shore in Biarritz while waiting the June 2, 1946 election completed.

 HCM cùng đoàn tùy tùng qua Pháp ngay trong lúc nước Pháp bầu cử quốc hội ngày 2/6/1946. Hồ phải chờ lệnh của chính phủ mới đắc cử cho biết ngày nào được tới viếng Paris. Phái đoàn có thời giờ đi dạo biển Biarritz. 

 Ho Chi Minh at the airport, Paris, with Jean Sainteny as a guard. 

Sainteny đuợc lệnh đến  Biarritz hộ tống HCM đến Paris. Tại phi trường HCM ngồi cạnh Sainteny với gương mặt tỏ ra vô cùng lo lắng vì kết quả cuộc bầu cử là phe cộng sản và xã hội đã thất bại. Thế nên chắc chắn HUSB sẽ bị vô hiệu hóa. 

 in Paris when meeting Marius Moutet 

Người bạn đảng Xã Hội, Marius Moutet, hết lòng giúp HCM trong 4 tháng tại Pháp, nhưng cũng không làm gì được. Hơn nữa, ông Bộ Trưởng Thuộc Địa Moutet cũng không còn thế đứng trên chính trường nước Pháp lúc này. 

 Ho with Jean Sainteny in Paris July, 1946 

Đại Sứ Jean Sainteny, thuộc Đảng Xã Hội, cũng đã giúp HCM rất nhiều từ  8/1945, nhưng Sainteny đã thấy ra bản chất không tốt của Hồ nên sau khi HCM chết, Sainteny viết sách kể nhiều sự thật về người cộng sản HCM. Hình trên, 7/1946, tại Paris đứng bên Sainteny, HCM vẫn là tỏ ra lo sợ. 

 Ho Chi Minh spoke at City Hall in Paris July 4, 1946. 

HCM phát biểu cảm tưởng nhân đến viếng Tòa Thị Chánh Paris, ngày 4/7/1946. 


Ho with distrust after the Fontainebleau conference collapsed

 Những bước đi lo lắng của Hồ sau khi Đảng Cộng Sản Pháp đã mất thế đứng trên chính trường. 

 Ho Chi Minh was removed from the front seat by Minister George Bidault. 

HCM bị dời ghế xuống các hàng sau, theo lệnh của Thủ Tướng Bidault – một hình thức chứng tỏ sự đối nghịch của Bidault đối với cộng sản. 

 Ho Chi Minh spent time with friends after  the failure of Fontainebleau Conference.

 HCM có thời gian uống trà với bạn sau vụ HUSB bị thất bại.

General Jean Julian Fonde (video) 


Sau khi tướng Pháp Salan đã tuyên bố với HCM là sẽ đánh nhau vào trung tuần tháng 9/1946, HCM cương quyết là đánh thì đánh dù có 10 người Việt Minh chết và một người Pháp chết vẫn phải đánh để chiến thắng. Ngoài Sainteny là người khuyên HCM nên suy nghĩ lại, còn có Tướng Jean Julian Fonde cũng liên lạc với Võ Nguyên Giáp nói rằng có nên làm chiến tranh với Pháp hay không, chiến tranh chỉ làm khổ dân. Giáp trả lời ngay rằng dù có chết cả triệu người Việt vẫn phải làm chiến tranh vì tất cả đều phải phục vụ mục tiêu chính trị.
Trên là hình Tướng Fonde và de Gaulle.

 Ho Chi Minh returned to Vietnam by Dumont d’Urville ship, not accepting an airplane ticket offered by France government.

 HCM trở về VN trên chuyến tàu Dumont d’Urville, mặc dù chính phủ Pháp đã cho vé máy bay, nhưng Hồ từ chối. Một số nhà phân tách cho rằng HCM lo sợ bị phe Bidault  sát hại. (cho rớt máy bay)

 Ho Chi Minh and his comrades had meeting just after his return from France.

Hình ảnh HCM vừa sau khi tới miền Bắc  đã họp hành với các đồng chí để chuẩn bị chiến tranh với Pháp. 

 Note under the picture from the book “Ho Chi Minh and His Vietnam, 1972” of Jean Sainteny, after Ho’s death.


Hình trong sách Sainteny. Phần note ghi dưới dịch ra tiếng Việt: Từ một mệnh lệnh bí mật trụ cột (quốc tế cộng sản), Hồ Chí Minh đã phóng ra một cuộc chiến tranh xâm lược rất hung hăng. Bên cạnh Hồ là hình của Nikolai Lenin và Josef Stalin, hai  người thầy của ông ta.


Bút Sử

Tuesday, September 2, 2025

NHỮNG SỰ THẬT VỀ NGÀY ĐỘC LẬP

Đó là đoạn văn do Hồ Chí Minh đọc trước quảng trường Ba Đình, Hà Nội vào ngày 2/9/1945, tuyên bố về sự ra đời của một nước Việt Nam độc lập. Bản tuyên bố này được đọc trong bối cảnh đầy phức tạp của chiến tranh thế giới, nền thuộc địa Pháp, sự thâm nhập của thế lực cộng sản. Cho đến nay, các học giả vẫn tranh cãi về sự kiện này. Liệu ngày 2/9 có thật sự là ngày độc lập của Việt Nam?

Trước tháng 8/1945, người dân không biết Hồ Chí Minh là ai, có hình dáng như thế nào. Một bài báo của hãng tin AP vào tháng 4/1947 đã giải thích về Hồ Chí Minh như sau. Từ một người nắm một nhóm du kích chống Nhật khiêm tốn ở khu vực đồi núi gần biên giới Trung Quốc, Hồ Chí Minh chuyển sang làm việc cho không quân Mỹ, chuyên giải cứu phi công và làm nhiệm vụ phản gián.

Mỹ giao cho Hồ Chí Minh một số vũ khí và thiết bị radio. Từ tháng 3/1945, lực lượng của Hồ Chí Minh đã phát tuyên truyền rằng nếu chiến tranh kết thúc, Việt Nam sẽ được tự do và Hồ Chí Minh sẽ trở thành chủ tịch nước với sự hậu thuẫn của Mỹ. Trong vòng 4 tháng, chiến dịch tuyên truyền này gây được cảm tình được với dân chúng. Ngày 17/8/1945, Hồ Chí Minh tiến vào Hà Nội. Hai ngày sau, lực lượng Việt Minh tiếp quản bộ máy hành chính do Nhật bỏ lại.

Sự đầu hàng của Nhật trước phe Đồng Minh, sự do dự của Pháp khiến không khí độc lập dâng cao. Vua Bảo Đại, 32 tuổi, tuyên bố thoái vị để thiết lập nền cộng hòa, chính phủ Trần Trọng Kim do người Nhật dựng lên cũng tan rã theo. Đế Quốc Việt Nam sụp đổ.

Ngày 2/9/1945, tại Hà Nội, Hồ Chí Minh đọc bản tuyên bố về sự độc lập của Việt Nam, tự thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tuy nhiên, đến đầu năm 1946, chưa có nước nào công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đất nước Việt Nam chỉ mới bắt đầu tìm kiếm sự độc lập.

Vào tháng 3/1946, Hồ Chí Minh đã ký với Pháp một hiệp ước sơ bộ. Theo đó, Hồ Chí Minh chấp nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nằm trong Liên bang Đông Dương và khối Liên hiệp Pháp, và sẽ thảo luận vị thế cụ thể của Việt Nam.

Tiếp đến, một cuộc họp trù bị giữa Pháp và phía Hồ Chí Minh được tổ chức tại Đà Lạt để thảo luận rõ hơn về vị thế của Việt Nam trong Khối Liên Hiệp Pháp.

Hội nghị chính thức về vị thế của Việt Nam diễn ra từ tháng 7 đến tháng 9/1946, tức Hội nghị Fontainebleau, tại Paris. Phía Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa ở thế quá yếu, không đạt được những mục tiêu về chính sách ngoại giao độc lập, cũng như việc thống nhất đất nước. Pháp đã từ chối cuộc trưng cầu dân ý để sáp nhập miền Nam (tức Cochin China) vào phần còn lại. Vào lúc này, Pháp đã công nhận miền Nam là Cộng hòa Tự trị Nam Kỳ với thủ tướng là bác sĩ Nguyễn Văn Thinh.

Chủ quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến lúc này chỉ bao gồm Bắc Kỳ (tức Tonkin) và Trung Kỳ (tức An Nam), và nằm trong Khối Liên Hiệp Pháp.

Vào ngày 15/12/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi cho thủ tướng Pháp một thông điệp rằng: “chân thành mong muốn có sự hợp tác bằng tình huynh đệ với nhân dân Pháp trong khuôn khổ Liên hiệp Pháp”.

Tuy nhiên, lúc này, Pháp nghi ngờ Hồ Chí Minh đang tổ chức một chiến dịch nổi loạn. Pháp nói người dân Hà Nội và các vùng lân cận đã đào chiến hào, dựng rào chắn, chặn đường tàu, cho lính cải trang thành bệnh nhân và chuẩn bị phá hoại nhà máy điện.

Trong khi đó, Hồ Chí Minh cáo buộc Pháp bắt ép chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chuyển giao quyền kiểm soát cảnh sát cho nên giao tranh nổ ra vào ngày 19/12/1945. Hồ Chí Minh phát động toàn quốc kháng chiến.

Đến tháng 1/1947, Pháp bác bỏ đề nghị hòa bình của Hồ Chí Minh và tuyên bố sẽ nghiền nát lực lượng kháng chiến. Phía Pháp nói sẽ chờ thương lượng hòa bình với những nhà lãnh đạo khác của Việt Nam, miễn không phải từ phía của Hồ Chí Minh.

Đến tháng 2, Hồ Chí Minh trả lời phỏng vấn với phóng viên ngoại quốc rằng Việt Minh có nhiều thành phần khác nhau như xã hội chủ nghĩa, dân chủ, dân tộc, Mác-xít, Công giáo, Phật giáo, Khổng giáo và các tổ chức nhà đất.

“Chương trình của chúng tôi không phải cộng sản cũng không phải xã hội chủ nghĩa. Chúng tôi chỉ đơn giản là muốn cung cấp thức ăn, quần áo tối thiểu cho người dân, dạy tất cả trẻ em biết đọc và viết, và cho tất cả mọi người quyền tự do dân chủ”, Hồ Chí Minh nói.

Đến tháng 9/1947, phía Pháp đề nghị hòa bình và chuyển giao bộ máy hành chính cho Việt Minh với điều kiện Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trở về nằm trong khối Liên Hiệp Pháp, Pháp kiểm soát về chính sách ngoại giao và thiết lập các căn cứ quân sự.

Vì không đạt được thỏa thuận với Việt Minh, Pháp đã tìm kiếm giải pháp khác.

—–

Ngày 20/5/1948, tại miền Trung, một chính phủ lâm thời được thành lập do tướng Nguyễn Văn Xuân làm thủ tướng.

Đến tháng 6/1948, tại Vịnh Hạ Long, Pháp công nhận Quốc gia Việt Nam trong khối Liên Hiệp Pháp, bao gồm cả ba miền, do Bảo Đại đứng đầu và thủ tướng là Nguyễn Văn Xuân.

Một năm sau, Pháp ký một nghị định chuyển giao một số quyền tự trị cho chính phủ của Bảo Đại, bao gồm tư pháp, hành chính ngoại giao, sử dụng đồng tiền chung Đông Dương cùng với Lào và Campuchia, và có quân đội vận hành bằng tài chính của Việt Nam. Pháp vẫn tiếp tục đóng quân tại một số căn cứ và cố vấn cho quân đội của Việt Nam. Việt Nam vẫn chưa được độc lập hoàn toàn.

Tháng 7/1949, Bảo Đại trở về cố đô Huế để thiết lập chính phủ Việt Nam, thông báo cho các nước về sự ra đời của nước Việt Nam tự do.

“5 năm trước, trẫm đã thoái vị để tránh gây ra sự rắc rối và chia rẽ, nhưng hôm nay trẫm sẽ nắm quyền lực một lần nữa nhằm kết thúc chiến sự và đưa vận mệnh đất nước theo tiếng nói của nhân dân”, Bảo Đại nói trước quần chúng tại Huế.

Tuy nhiên, vấn đề lớn nhất của Bảo Đại là chứng minh ông không phải là con rối của Pháp, cũng như khả năng hàn gắn sự chia rẽ của đất nước.

——

Năm 1950, Liên Xô và Trung Quốc công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Mỹ công nhận nước Việt Nam của Bảo Đại. Và những nước này không chỉ cộng nhận mà còn trợ giúp cho bên này chống bên kia. Sự độc lập của Việt Nam sớm trở thành cuộc chiến giữa hai phe tư bản và cộng sản.

Pháp vẫn trụ lại Việt Nam với lý do nếu rời đi Việt Minh sẽ chiếm đất nước trong khi Bảo Đại chưa có được quân đội thật sự trung thành.

Chiến sự ở giữa Việt Minh và Pháp đã kéo dài được ba năm và gây ra tổn thất rất lớn ở cả ba miền. Những cuộc chiến lớn xảy ra ở miền Bắc. Miền Nam là chiến tranh du kích. Phe cộng sản được cho là kiểm soát nhiều diện tích đất đai và ước tính khoảng 50% dân số. Một số nơi xuất hiện tình trạng ngày Việt Nam, đêm Việt Minh.

Trong khi đó, việc đoàn kết đất nước vượt quá khả năng của Bảo Đại.

Những nơi không bị Việt Minh chiếm đóng bị chia rẽ ít nhất thành bốn phe khác nhau: phe ủng hộ chính quyền của Bảo Đại, phe trung lập, phe dân tộc chủ nghĩa – tức những người không tán đồng việc hợp tác cả với Pháp và cộng sản, và phe nghi ngờ sự trợ giúp của phương Tây đồng thời có cảm tình với phe cộng sản của Hồ Chí Minh.

Năm 1954, Việt Minh thắng Pháp trong trận Điện Biên Phủ. Đất nước tạm thời chia cắt tại vĩ tuyến 17, ấn định một cuộc tổng tuyển cử vào ngày 20/7/1956. Tại miền Nam, chính phủ Ngô Đình Diệm phế truất Bảo Đại qua một cuộc trưng cầu dân ý, tuyên bố thành lập chế độ Việt Nam Cộng hòa, tổ chức bầu Quốc hội và thông qua Hiến pháp.

Friday, August 15, 2025

NỮ ĐIỆP VIÊN DO THÁI CÀI TRONG LÒNG ĐỊCH IRAN

   Trong thế giới tình báo, có drone, vệ tinh và công cụ mạng. Nhưng đôi khi, vũ khí nguy hiểm nhất… lại là một người phụ nữ.
Hãy gặp Kathrine Pérez Sheked (tên khác là Catherine Pérez Shakdam) — điệp viên Mossad đã khiến Iran rung chuyển từ bên trong. Sinh ra tại Pháp, được đào tạo bởi cơ quan tình báo hàng đầu Israel và được giao một trong những nhiệm vụ táo bạo nhất trong lịch sử gián điệp hiện đại.
Hai năm trước, Mossad triển khai chiến dịch “Mission Iran.”
Mục tiêu? Thâm nhập giới quân sự tinh nhuệ và chương trình hạt nhân của Iran. Nhưng để làm được điều đó, họ cần nhiều hơn một gián điệp. Họ cần một người có thể quyến rũ, đánh lừa và biến mất không dấu vết. Và người đó chính là Kathrine.
Sau khóa huấn luyện khắc nghiệt, cô xâm nhập vào Iran dưới một danh tính giả — một phụ nữ châu Âu “tìm thấy sự bình an” trong đức tin Hồi giáo Shiite. Cô học tiếng, tiếp nhận tập quán địa phương và thực hành nghi lễ tôn giáo. Vỏ bọc của cô hoàn hảo.
Cô bắt đầu từ những bước nhỏ — làm quen với các bà vợ của sĩ quan cấp cao trong quân đội Iran. Tính cách thân thiện và sự quan tâm của cô nhanh chóng chiếm được cảm tình. Những buổi uống trà trở thành lời mời đến nhà. Những lời mời trở thành tình bạn. Và chẳng bao lâu sau, cô có quyền ra vào những ngôi nhà quyền lực nhất Iran.
Từ đó, chiến dịch thực sự bắt đầu.
Bên trong những ngôi nhà ấy, không ai nghi ngờ cô. Trong khi lực lượng an ninh bận quét điện thoại và giám sát email, Kathrine lặng lẽ mỉm cười, đi lại tự nhiên — thu thập ảnh chụp, bản thiết kế và lịch trình cá nhân. Cô gửi mọi thứ thẳng về cho Mossad.
Nhưng cô không chỉ thu thập dữ liệu. Cô đang đặt nền móng cho chiến tranh.
Và vào đêm ngày 12 tháng 6 năm 2025, tất cả được kích hoạt.
Israel phát động cuộc không kích bất ngờ trên khắp Iran, nhắm vào các căn cứ quân sự, hầm bí mật và trung tâm nghiên cứu hạt nhân. Nhưng đây không phải những cú đánh ngẫu nhiên — từng đòn tấn công đều chính xác, phẫu thuật và gây chết người.
Trong số những người thiệt mạng:
• 8 tướng quân đội cấp cao
• 7 nhà khoa học hạt nhân hàng đầu
• 3 chỉ huy tình báo cấp cao
Tất cả đều từng mời Kathrine vào nhà họ — mà không hề hay biết.
Iran choáng váng. Trước khi có thể phản ứng, bộ chỉ huy cao cấp đã bị xóa sổ. Khi các cơ quan an ninh vào cuộc điều tra, họ không tìm ra cô qua công nghệ, mà qua những bức ảnh cũ chụp trong các buổi họp mặt gia đình. Ở đó, cô đứng mỉm cười bên cạnh những người đàn ông mà chính tay cô đã góp phần tiêu diệt.
Nhưng đến khi họ nhận ra cô là ai… thì cô đã biến mất.
Áp phích truy nã cô được dán khắp Tehran. Tên cô được thì thầm trong các vòng tròn quân sự như một truyền thuyết ma. Nhưng cô đã không còn ở đó. Có người nói cô chạy trốn qua núi. Người khác tin rằng Mossad đã bí mật đưa cô rời khỏi Iran.
Dù sự thật là gì, có một điều chắc chắn:
Kathrine Pérez Sheked đã thay đổi cuộc chơi. Không cần súng, không cần bom — chỉ bằng sắc đẹp, trí tuệ và sự táo bạo, cô đã làm lộ những bí mật được canh giữ nghiêm ngặt nhất của Iran.
Iran gọi đây là “cuộc rò rỉ tình báo con người thảm khốc nhất trong lịch sử quốc gia.”

Thế giới? Sẽ không bao giờ quên người phụ nữ đã bước vào Iran… và xé toạc nó từ bên trong.

Saturday, July 26, 2025

QUỐC GIA VIỆT NAM PHẢN ĐỐI HIỆP ĐỊNH GENÈVE 20 THÁNG 07 NĂM 1954

 Kỳ 1: Chính phủ Quốc Gia Việt Nam từ 1948 đến tháng Bảy 1954


Lời tòa soạn: Cách đây 70 năm, vào ngày 20 tháng 7, Hội nghị quốc tế về tình hình Đông Dương nhóm họp tại Genève đã kết thúc sau gần 3 tháng thảo luận. Văn kiện chính được công bố tại hội nghị này là Hiệp định đình chiến ở Việt Nam với 47 điều chia làm 5 chương. Nội dung chính của Hiệp định là thành lập tại vĩ tuyến 17 đi qua sông Bến Hải, tỉnh Quảng Trị, một giới tuyến quân sự tạm thời và phân chia đất nước Việt Nam ra hai khu phi chiến ở hai bên giới tuyến đó: từ phía Nam vĩ tuyến 17 là lãnh thổ thuộc quyền kiểm soát của chính phủ Quốc Gia Việt Nam (trở thành Việt Nam Cộng Hòa kể từ 26 tháng 10/1955); từ phía Bắc vĩ tuyến 17 trở ra do chính quyền Cộng sản Việt Nam kiểm soát. Trước khi Hiệp định được ký kết, đại diện cho Chính phủ Quốc Gia Việt Nam là Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ đã ra tuyên ngôn phản đối với những điểm chính được tóm lược như sau: “Việc ký kết hiệp định giữa Pháp và Việt Minh trong đó có những điều khoản mang nặng những nguy hại cho tương lai của dân tộc Việt Nam. Việc hiệp định đã nhường cho Việt Minh những vùng mà Quân đội Quốc Gia còn đóng quân và việc tước mất của Việt Nam quyền bất khả xâm phạm để tổ chức phòng thủ... Việt Nam long trọng phản đối việc ký Hiệp định Genève, Chính phủ Quốc gia Việt Nam hoàn toàn tự do hành động để bảo vệ quyền lợi thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong cuộc thực hiện thống nhất, độc lập và tự do cho xứ sở.”


70 năm đã qua đi, các sử gia chân chính luôn nhận định rằng ngày 20 tháng 7 năm 1954 là ngày Quốc hận của Dân tộc Việt Nam. Trong tình thần tưởng niệm ngày lãnh thổ Việt Nam bị chia cắt, Việt Báo trân trọng giới thiệu đến bạn đọc loạt bài tổng hợp về sự hình thành của chính phủ Quốc Gia Việt Nam và diễn tiến hiệp định Genève.

 

* 1948: Chính phủ lâm thời Quốc Gia Việt Nam thành lập


Ngày 2 tháng 6/1948, một đại hội nhân sĩ và đại diện các đảng phái nhóm họp tại Sài Gòn. Tại hội nghị, sau khi nghe Thủ tướng Nam Kỳ là Trung tướng Nguyễn Văn Xuân trình bày, và sau khi nghe chiếu thư của Hoàng đế Bảo Đại, tất cả đã đồng thanh bầu Trung tướng Nguyễn Văn Xuân làm Thủ tướng lâm thời Quốc gia Việt Nam. Ngày 5 tháng 6, Hoàng đế Bảo Đại từ Hồng Kông đến vịnh Hạ Long trên một phi cơ đáp trên nước của hãng hàng không Anh Hồng Kông Calatina, phi cơ hạ cánh trên một chiến hạm Pháp. Trên chiến hạm này, Hoàng đế đã cùng Thủ tướng Nguyễn Văn Xuân và đại diện chính phủ Pháp ký Hiệp định Hạ Long. Theo hiệp định, chính phủ lâm thời không có quyền về ngoại giao, nhưng Thủ tướng Nguyễn Văn Xuân nói với ông Tổng thư ký nói rõ một điểm: Nếu cần, chánh phủ Lâm Thời Trung Ương có thể chỉ định một số đại sứ ở ngoại quốc. Hoàng đế Bảo Đại đã ở lại Hạ Long một đêm, sau đó đã đi Bangkok, từ Bangkok đổi lấy phi cơ dân sự để qua Pháp.

 

* Năm 1949: Quốc trưởng Bảo Đại về nước chấp chánh


Ngày 15-3, Thủ tướng Nguyễn Văn Xuân qua Pháp. Sau mấy ngày tiếp xúc với các yếu nhân trong chính phủ Pháp, Thủ tướng Xuân đã xuống miền Nam nước Pháp và yết kiến Hoàng đế Bảo Đại để trình bày tình hình đất nước và thỉnh cầu Hoàng đế về nước để trực tiếp điều khiển quốc gia. Đầu tháng 4/1949, Thủ tướng Xuân tổ chức một đại hội với 1,000 đại biểu là cư dân Nam Kỳ và 700 đại biểu là kiều dân Pháp tại Nam Kỳ, quyết định xin sát nhập miền đất Nam Kỳ vào nước Việt Nam. Thuộc địa Nam Kỳ được xóa bỏ ngày 25 tháng 4 năm 1949 do biểu quyết của đại diện các đoàn thể tôn giáo, chính trị và đồng bào các giới dự họp. Dựa trên quyết định đó, Quốc hội Pháp chấp thuận hủy bỏ quy chế thuộc địa Nam Kỳ. Tại Pháp, Hoàng đế Bảo Đại tuyên bố sẽ về nước vào ngày 28 tháng 4/1949 và chọn Đà Lạt làm nơi đặt văn phòng thay vì Huế.


Ngày 26 tháng 8/1949, Thủ tướng Nguyễn Văn Xuân cùng phái đoàn chính phủ lâm thời bay qua Singapore để rước Hoàng đế Bảo Đại về nước. Hoàng đế muốn được đón tiếp ở Singapore thay vì ở Pháp để tránh tốn kém cho phái đoàn. Ngày 1 tháng 7/1949, thành phần chính phủ Quốc gia Việt Nam được chính thức công bố do Quốc trưởng kiêm nhiệm chức vụ Thủ tướng, với các thành viên: Phó Thủ tướng kiêm tổng trưởng Quốc phòng: Trung tướng Nguyễn Văn Xuân; Tổng trưởng Ngoại giao: Nguyễn Phan Long; Tư pháp: Nguyễn Khắc Vệ, Kinh tế và kế hoạch: Trần Văn Văn, Nội vụ: Vũ Ngọc Trân; Tài chánh: Dương Tấn Tài; Ngoại giao: Lê Thăng; Quốc Phòng: Trần Quang Vinh; Thương mại và Kỹ nghệ: Hoàng Cung; Canh Nông, Xã hội, Lao động: Phan Khắc Sửu; Công chánh, Giao thông, Kiến thiết: Trần Văn Của; Quốc gia Giáo dục: Phan Huy Quát; Y tế: Nguyễn Hữu Phiếm; Thông tin: Trần Văn Tuyên. Thủ hiến Bắc Việt: Nguyễn Hữu Trí. Trung Việt: Phan Văn Giáo, Nam Việt: Trần Văn Hữu.

 

* Năm 1950: Pháp công nhận quyền độc lập của Quốc gia Việt Nam


- Ngày 21 tháng 1/1950, Trung tướng Nguyễn Văn Xuân từ chức Phó Thủ tướng, nhân dịp này Quốc trưởng Bảo Đại bỏ chức vụ Thủ tướng kiêm nhiệm, chỉ giữ chức Quốc trưởng, và cử ông Nguyễn Phan Long giữ chức Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Ngoại giao và Nội vụ. Ông Nguyễn Phan Long giữ chức Thủ tướng chỉ được hơn 3 tháng thì xin từ chức, Thủ hiến Nam Việt Trần Văn Hữu được chỉ định giữ chức Thủ tướng kiêm tổng trưởng Ngoại giao và Quốc phòng.


- Ngày 29/6/1950, Pháp chính thức công nhận Quốc Gia Việt Nam là một thành viên có chủ quyền trong khối Liên Hiệp Pháp. Sự công nhận này được công bố theo thỏa ước Pau. Cuối năm 1950, chánh phủ Pháp cử Đai tướng De Lattre de Tasigny sang Việt Nam với chức vụ Toàn quyền về Quân sự và Dân sự.

Về ngoại giao, ngày 7 tháng 2/1950, Hoa Kỳ và Anh cùng một số quốc gia chính thức công nhận và lập bang giao với Quốc Gia Việt Nam. Riêng Mỹ, tòa đại sứ đầu tiên của Hoa Kỳ đặt tại Sài Gòn do ông Donald Heath, một nhân vật ngoại giao kỳ cựu làm đại sứ. Ngày 6 tháng 3/1950, Hoa Kỳ đặt phái bộ quân sự. Ngày 9 tháng 3/1950, ông Achelon, một đặc sứ của Tổng thống Mỹ Truman đã yêu cầu chính phủ Hoa Kỳ viện trợ quân sự cho Việt Nam.

 

* Năm 1951: Hoa Kỳ viện trợ cho Việt Nam; Quốc gia Việt Nam gửi đơn gia nhập Liên Hiệp Quốc...


- 16/2: Thủ tướng Trần Văn Hữu trình diện nội các mới sau khi nội các cũ do ông làm Thủ tướng bị giải tán.


-19/3: Chính phủ Quốc gia Việt Nam phê chuẩn Hiệp định của Hoa Kỳ gồm 16 triệu Mỹ kim dành cho 3 quốc gia Đông Dương.


- 15/7: Quốc trưởng Bảo Đại ký Dụ số 12 ban hành quy chế quân dịch.


- 18/12: Quốc gia Việt Nam gửi đơn xin gia nhập Liên Hiệp Quốc do đại diện Pháp tại Liên Hiệp Quốc Chauvel chuyển cho Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc.

 

* Năm 1952: hai lần thay đổi nội các; Bộ Tổng Tham Mưu Quân đội Quốc Gia Việt Nam chính thức thành hình.


-8/3: Thủ tướng Trần Văn Hữu lại cải tổ chính phủ lần nữa, ông kiêm nhiệm Tổng trưởng Quốc phòng và Tài chánh.


-1/5: Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Quốc gia Việt Nam chính thức thành lập sau khi các quân chủng và một số binh chủng, binh đoàn đã được thành lập từ năm 1950 đến tháng 4/1952. Tổng tham mưu trưởng đầu tiên là Thiếu tướng Nguyễn Văn Hinh (thăng Trung tướng 1953)


-6/6: Thân phụ của Tướng Nguyễn Văn Hinh là ông Nguyễn Văn Tâm, nguyên Tổng trưởng bộ Nội vụ của nội các Trần Văn Hữu được Quốc trưởng Bảo Đại bổ nhiệm làm Thủ tướng, Thủ tướng Tâm vẫn kiêm Tổng trưởng Nội vụ.

 

* Năm 1953: Quân đội Quốc gia Việt Nam phát triển; cải tổ chính phủ.


- 8/1: Thủ tướng Nguyễn Văn Tâm cải tổ chính phủ, ông vẫn kiêm nhiệm bộ Nội vụ, Tổng trưởng Quốc phòng là ông Lê Quang Huy.


- Ngày 24-2, Hội đồng quân sự Việt Pháp nhóm họp quyết định thành lập 54 tiểu đoàn commando và 14 đại đội trọng pháo với sự yểm trợ về vũ khí, quân dụng của Hoa Kỳ. Các tiểu đoàn commando sau đổi thành tiểu đoàn Khinh quân.
- 1/9: Thành lập 4 liên đoàn Bộ binh đầu tiên của Quân đội Quốc gia Việt Nam.

 

* Năm 1954: Chiến sự sôi động, Pháp thất thủ Điện Biên Phủ, Hiệp định Genève chia đôi đất nước. Hai lần thay đổi nội các.


- 11/1: Hoàng thân Bữu Lộc được cử giữ chức Thủ tướng thay ông Nguyễn Văn Tâm. Tân Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Nội vụ, Tổng trưởng Quốc phòng là bác sĩ Phan Huy Quát (năm 1965 là Thủ tướng).


- Ngày 6-7, ông Ngô Đình Diệm thành lập chính phủ và chính thức chấp chánh ngày 7-7 (Song Thất), Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Nội vụ và Quốc phòng.


- Ngày 20 tháng 7/1954: Hiệp định Genève ký kết chia hai đất nước, Cộng sản chiếm phía Bắc vĩ tuyến 17, phía Nam là lãnh thổ Việt Nam Tự Do, đường ranh giới là sông Bến Hải tỉnh Quảng Trị. Phái đoàn của Quốc gia Việt Nam do ngoại trưởng Trần Văn Đỗ làm trưởng đoàn đã phản đối việc việc ký hiệp định này.

 

 

Vương Hồng Anh

Nguồn: Việt Báo

Monday, July 7, 2025

PHẢI BIẾT BAO NHIÊU NĂM MỚI XÂY DỰNG ĐƯỢC MỘT NỀN VĂN HÓA?

Nền văn hóa thanh lịch của Hà nội, được hình thành, phát triển, và củng cố từ mấy trăm năm, qua bao nhiêu thế hệ tiếp nối nhau, vẫn phát huy rực rỡ dưới 80 năm đô hộ của thực dân Pháp , nhưng lại bị yểu tử dưới bàn tay của những người Cộng Sản …
Hơn nửa thế kỷ trước, Hà nội được mệnh danh là đất “ngàn năm văn vật”, nơi đã trải qua “4,000 năm văn hiến”. Hà nội được xưng tụng là “Hà Thành thanh lịch”, đào tạo ra những “trai thanh, gái lịch”. Các“nam thanh, nữ tú” đã làm Hà nội hãnh diện bằng 2 câu thơ:
Chẳng thơm cũng thể hoa nhài.
Dẫu không thanh lịch, cũng người Tràng An
Hà nội xa xưa, chỉ là một thành phố xinh xắn,hiền hòa, với 36 phố phường và 5 cửa ô. Phố xá Hà nội ngắn, gọn, và sạch sẽ,nhà cửa khang trang. Người Hà Nội hầu như quen biết nhau gần hết. Họ chung sống hài hòa, và đối xử với nhau lịch sự tới độ khách sáo. Khoảng cách giữa giàu và nghèo không chênh lệch là mấy.
Hà nội còn nổi tiếng về các vùng phụ cận như làng Nhật Tân ven Sông Hồng, nhờ thổ nhưỡng đặc biết đã trồng được loại hoa đào đẹp nhất miền Bắc. Hoa đào Nhật Tân, sắc hồng thắm rực rỡ, cánh kép lâu tàn, nụ hoa chi chít trên cành. Ngày mùng một Tết, đào Nhật Tân nở rộ, những bông hoa tươi thắm còn ngậm sương mai, xen lẫn với các nụ hoa chúm chím, và lất phất những cánh lá non mươn mướt trên cành, trông đẹp vô tả. Theo dòng lịch sử, ngày mùng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu, khi vừa chiến thắng trận Đống Đa, vua Quang Trung vào thành Thăng Long, và đã tới ngay làng Nhật Tân để chọn một cành đào đẹp nhất, gửi về tặng Bắc Cung Hoàng Hậu, là công chúa Ngọc Hân.
Hà Nội còn nổi danh với khu Khâm Thiên, nơi giải trí của các bậc thức giả phong lưu. Họ đã ngẫu hứng sáng tác ra những bài ca trù, cho các ả đào ngâm nga bên khay rượu. Giọng ngâm thơ, xen lẫn với tiếng trống chầu thưởng, phạt, khen, chê đã nâng cao trình độ nghệ thuật của một thú ăn chơi nửa thanh nửa tục. Nhiều bài hát ả đào đã nổi danh, được lưu truyền trong văn học, và làm phong phú thêm cho nền văn hóa Việt Nam.
Hà Nội mang nhiều dấu ấn lịch sử, trải qua nhiều triều đại. Năm 1010, khi vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư, ra thành Đại La, đột nhiên thấy trên trời hiện ra đám mây mang hình dáng một con rồng đang bay lượn. Vua cho đó là điềm lành, nên đổi tên ra Thăng Long thành. Rồi tới đời vua Minh Mạng, năm 1831, lại đổi tên từ Thăng Long ra Hà Nội.
Hồ Hoàn Kiếm với Tháp Rùa (Hình:  wikipedia)
Hồ Hoàn Kiếm, một danh lam thắng cảnh ở trung tâm Hà nội, ghi lại huyền thoại vua Lê Thái Tổ du ngoạn trên hồ, khi vừa đại thắng quân Minh, năm 1428. Một con rùa vàng trồi lên mặt nước, đòi lại thanh bảo kiếm, đã cho nhà vua mượn diệt giặc. Nhận được thanh kiếm, rùa bèn ngậm vào miệng, và lặn xuống đáy hồ. Vua Lê Thái Tổ bèn đặt tên cho hồ, là Hồ Hoàn Kiếm.
Thăng Long thành còn ghi lại chiến tích oai hùng của trận Đống Đa, khi vua Quang Trung đại phá quân Thanh vào ngày mùng 5 Tết năm Kỷ Dậu, 1789, khiến Thái Thú Sầm Nghi Đống phải treo cổ tự vận, và tướng giặc Tôn sĩ Nghị phải bỏ cả ấn tín, tháo chạy về Tàu.
Đất Hà Thành là đất địa linh nhân kiệt. Người Hà Thành tao nhã, lịch sự từ lời ăn tiếng nói, tới cách phục sức, và giao tế.
Cái văn hóa của người Hà nội xa xưa, là hình ảnh của những người đàn ông phong lưu, lịch lãm, tề chỉnh mỗi khi bước ra khỏi cửa, là các bà nội trợ nề nếp, đảm đang, khăn nhung, áo lụa, khoe tài nữ công gia chánh qua những mâm cỗ thịnh soạn vào các ngày giỗ, ngày Tết, là các cô thiếu nữ duyên dáng, e ấp trong tà áo nhung, tấm khăn quàng, lên chùa lễ Phật buổi đầu năm. Người Hà nội, khi vui không sôi nổi, ồn ào, khi bất bình, giận dữ, biết kiềm chế lời ăn tiếng nói, để tránh xung đột.
Cái thanh lịch của người Hà Nội không phải chỉ tập tành trong một sớm một chiều mà có được. Cái phong thái đó, phải có sẵn trong nếp nhà, từ trước khi đứa trẻ sinh ra đời, để rồi khi lớn lên, đứa trẻ cứ rập khuôn theo cái nếp có sẵn, mà học theo cách cư sử, phép giao tế, lời ăn tiếng nói, nếp sinh hoạt của những bậc trưởng thượng. Thêm vào đó, là sự theo dõi, uốn nắn, dạy dỗ của các bậc phụ huynh, để rồi khi tới tuổi trưởng thành,người con trai trở nên một thanh niên phong lưu, lịch lãm, mạnh dạn bước vào đời, và người con gái trở thành một thiếu nữ đức hạnh, đảm đang, có khả năng quán xuyến một gia đình mới.
Có người nhận xét, người Hà nội khéo ăn khéo nói, nhưng không thực lòng, xử sự mềm mỏng nhưng thiếu chân tình, lịch sự, nhã nhặn nhưng ngầm kiểu cách. Có người còn nói, người Hà Nội coi trọng thể diện, giữ gìn mặt mũi, và sợ dư luận, nên họ sống cho người ngoài, nhiều hơn cho chính họ.
Những nhận xét đó, không phải là sai. Ngày tôi còn nhỏ, mẹ tôi thường nhắc nhở: “Ở trong nhà thiếu thốn, thì cũng chỉ có mình biết, nhưng bước ra ngoài, mà sử sự hẹp hòi, thì sẽ bị thiên hạ chê cười, làng nước đàm tiếu”. Bởi vậy, các khoản chi tiêu về giao tế như hiếu, hỷ, hay mọi đóng góp, mẹ tôi đều rất hào phóng. Để bù lại, bà thẳng tay cắt xén những khoản chi tiêu trong gia đình, kể cả khoản tiền chợ mỗi ngày. Mẹ tôi còn kể cho tôi nghe rằng ngày bà còn trẻ, trước khi đi ăn giỗ, ăn cưới, bà đều bị bà ngoại tôi ép ăn cơm trưóc ở nhà, để khi tới nơi, không vì đói mà ăn uống thô tục. Con gái của gia đình lễ giáo là phải …khảnh ăn, thanh cao, và đài các.
Tôi đã từng theo mẹ tôi đi tham dự các buổi họp mặt với bạn bè của bà. Vừa ăn xong, là các bà tranh nhau trả tiền, để chứng tỏ rằng mình là người lịch sự, hào phóng, nhưng khi về nhà, thì lại ngồi tiếc tiền. Có lần tôi nghe bà bạn hỏi ý kiến mẹ tôi về cái áo choàng của chồng bà vừa mua tặng từ Hồng Kong. Mẹ tôi hết lời khen ngợi, nhưng khi bà khách vừa ra về, thì mẹ tôi lại nói với ba tôi là cái áo màu mè, coi thiếu thẩm mỹ. Tôi thắc mắc về thái độ này, thì mẹ tôi giải thích rằng : “Chiếc áo đã lỡ mua rồi, không thay đổi được, thì can chi làm buồn lòng người khác !”
Ngày còn nhỏ, tôi cứ phân vân, không biết những thái độ này là đúng hay sai, nhưng từ khi biết suy nghĩ, tôi lại thấy, có lẽ những cách xử thế này, đã góp phần không nhỏ trong việc kiến tạo cái xã hội thanh lịch của người Hà thành. Vì họ luôn muốn vui lòng người khác, trọng “thể diện”, và sợ tai tiếng, nên họ thận trọng từ lời ăn, tiếng nói, tới cách thức giao tế, và dạy dỗ con cái. Thà là bản thân và gia đình chịu o ép, thiệt thòi, chứ không để cho thiên hạ dị nghị, chê cười.
Đó là những người Hà Nội của hơn nửa thế kỷ trước.
Người xưa nói, “cùng một giống quýt, trồng ở Giang Nam thì ngọt, trồng ở Giang Bắc thì chua”. Như vậy, môi trường đã đóng góp không nhỏ vào việc hình thành phẩm chất của cây trái.
Con người cũng vậy. Bản chất con người cũng thay đổi theo hoàn cảnh và môi trường sống. Sau khi đất nước bị chia đôi năm 1954, miền Bắc được giao cho CS, thì từ cảnh quang, tới con người Hà nội, đều mau chóng….bị phá sản. Nếp sống lễ giáo, gia phong của người Hà nội, bị CS lên án là “phong kiến”, “tiểu tư sản”, và hô hào từ bỏ, để học theo “nếp sống mới”.
“Nếp sống mới” khai thác sức lao đông của con người. Nông trường và công trường được thành lập để mọi người tham gia lao động tập thể. Tà áo dài duyên dáng,thướt tha, được thay thế bằng quần đen, áo ngắn, vừa gọn gàng, vừa đỡ tốn vải. Có lao động mới được nhà nước bán cho 15 kí gạo mỗi tháng, đuợc mua nhu yếuphẩm theo giá quy định, và được phân phối 3 mét vải may quần áo mỗi năm. Văn chương, thi phú, và âm nhạc bị kết tôi là văn hóa nô dịch, văn chương tiểu tư sản, ủy mị, ru ngủ con người, nên bị cấm lưu hành và trình diễn. Vụ án “Nhân Văn Giai Phẩm” năm 1957, đã tận diệt các nhà trí thức, và các văn nghệ sĩ đòi hỏi quyền được tự do sáng tác. Nhà nước nắm quyền chỉ đạo văn hóa, xử dụng cho mục đích tuyên truyền và khích động đấu tranh. Bằng chính sách văn nghệ chỉ huy, CS đã bóp nghẹt tự do ngôn luận, và tước đi cái khả năng sáng tạo của người làm văn nghệ. Tôn giáo cũng bị bài xích, vì cho là thuốc phiện, làm mê muội trí óc.
Tiếp thu Hà nội, CS chào mừng dân chúng bằng “Tuần Lễ Vàng”, kêu gọi mọi người đóng góp vàng và các quý kim, để nhà nước có tiền kiến thiết đất nước. Ban đầu,là tự nguyện, nhưng sau khi “tuần lễ vàng” kết thúc, cán bộ ngầm tiếp xúc với những gia đình khá giả, rỉ tai hăm dọa và bắt buộc họ đóng góp theo mức ấn định của nhà nước. “Tuần lễ vàng” là hình thức cướp của, và bần cùng hóa nhân dân,giống như những đợt đánh tư sản tại miền Nam, năm 75, sau khi CS cưỡng chiếm.
Ngay khi vừa ổn định, chính quyền CS đã có kế hoạch dồn những người Hà nội ra các vùng phụ cận thành phố, để lấy chỗ cho những người có công với cách mạng, từ các vùng nông thôn Hà Đông, Nam Định, và Ninh Bình vào nhập cư. Những người Hà nội còn sót lại, như cá nằm trên thớt, cố uốn mình để thích nghi theo nếp sống của những người mới nhập cư, mong được yên thân.
Để củng cố thể chế, nhà nước đã đặt tai mắt khắp mọi nơi, mọi chỗ, ngấm ngầm chỉ định những người láng giềng, bạn bè, thân tộc, nhòm ngó, theo dõi lẫn nhau, để báo cáo cho chính quyền. Ngay cả các học sinh, cũng được cán bộ chỉ dẫn về nhà nghe lén những lời trò chuyện trong gia đình, để rồi báo cáo lại với thầy cô, tạo ra một bầu không khí ngột ngạt, bất an, nghi kỵ lẫn nhau trong gia đình và xã hội.
Đợt cải cách ruộng đất trời long đất lở, vào những năm 54-56, đảng CS đã phá vỡ cái kỷ cương và lễ giáo của một xã hội đặt nặng đạo đức và nền tảng gia đình,của người dân miền Bắc. Để đạt chỉ tiêu, cán bộ đã bắt buộc, thúc đẩy, hăm dọa, để con cháu đứng lên đấu tố ông bà, cha mẹ, học trò tố khổ thầy, những tay chân thân tín kể tội chủ bằng những câu chuyện bịa đặt, các lời lẽ hỗn hào, thô lỗ, thậm chí “mày tao chi tớ”, “thằng này, con kia” bất kể tới tuổi tác và tôn ty trật tự, ngay trước mặt đám đông.
Nhà nước giữ độc quyền quyết định và phân phối những nhu cầu sống căn bản của người dân như gạo, đường, muối, vải…. Trong thời kỳ kinh tế bao cấp, người dân triền miên sống trong tình trạng thiếu thốn, và trở nên thèm thuồng đủ thứ. Con người dần “biến chất”, trở thành ích kỷ, hẹp hòi, và ty tiện. Đi chơi xa, phải xách theo khẩu phần gạo của mình, nếu không,chỉ được ngồi nói chuyện xuông, nhìn gia đình chủ nhà ăn cơm, vì mỗi người chỉ có đủ khẩu phần gạo cho mình. “Bần cùng sinh đạo tặc”, xã hội nảy sinh ra nhiều tệ trang như tham nhũng, móc ngoặc, cắt xén, phe phẩy. Người ta sẵn sàng bán rẻ bạn bè, thân tộc, vì những quyền lợi vật chất nhỏ nhen. Con người mất hết nhân phẩm.
Trong các sinh hoạt công cộng, những buổi học tập chính trị, diễn giả đã không ngần ngại dùng những từ ngữ … thiếu văn hóa “thằng này, con nọ”, “mày, tao,chi, tớ”. để khích động lòng căm thù của người nghe. Thậm chí, đến những câu vè, câu thơ, công cụ tuyên truyền, cũng mang đầy tính chất bạo lực đến… rợn người:
“Bún xào thịt giặc mới ngon.
“Cơm chan máu địch cho con no lòng…”
hoặc
Giết! Giết nữa,bàn tay không phút nghỉ
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong
Cho Đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng
Thờ Mao Chủ tịch, thờ Stalin bất diệt“ (1)
Được trưởng thành trong một môi trường… vô văn hóa, thiếu nhân bản, và tràn ngập hận thù như vậy, người dân dễ dàng trở nên hiếu động, hung hăng, sẵn sàng đỏ mặt, xăn tay áo gây gổ, mở miệng ra là chửi thề, dùng các danh từ thô lỗ “đéo…” “đếch…” để mở đầu câu chuyện. Xã hội cũng xuất hiện những hàng quán loại “cơm mắng, cháo chửi”, chẳng giống ai. Ở đây, khách hàng không phải là thượng đế, mà bị đối xử tàn tệ hơn cả … con ở. Nhiều người đã lập lại ngôn từ của bà chủ quán: “Này ! không chờ được thì.. xéo đi, lấy chỗ cho người khác, đừng có đứng đó mà lải nhải…”, hoặc là “Mắt để ở trên trán hay sao mà xớn xác, không chịu nhìn. Nước mắm để ở góc bàn kia kìa…”. Điều ngạc nhiên, là mỗi lần nghe chửi mắng, thì thực khách trong quán đã không tức giận, mà lại còn nháy mắt với nhau, và…rú lên cười. Người ta bảo, sở dĩ quán đông khách là vì các món ăn vừa rẻ, vừa ngon. Hóa ra, chỉ vì tham ăn, tục uống mà người Hà Nội bây giờ mất hết cả tư cách.
Ăn uống ở Hà nội, thực khách xả rác vô tư.Những xương xẩu, giấy chùi tay, đàm rãi khạc nhổ đều dùng sàn nhà, ngay dưới chân. Cười nói, đùa rỡn quang quác như ở chỗ không người. Ra đường, muốn đi tiểu thì quay đi quay lại, thấy vắng người là vạch quần …xả xú bắp.
Về cảnh quang, Hà nội ngày nay, không còn là một thành phố hiền hòa và sạch sẽ như nửa thế kỷ trước. Cho dù, Hà nội đã có những tòa cao ốc chọc trời, những sân golf trưởng giả, những khách sạn nguy nga, nhưng sự phát triển của Hà nội, là sự phát triển không đồng đều, và thiếu kế hoạch. Khu giàu sang sát ngay bên khu nghèo khó, giống như một cái áo cũ mang nhiều miếng vá khác nhau. Hệ thống thoát nước không được phát triển song hành, nên sau mỗi trận mưa lớn, là thành phố ngập lụt, gây trở ngại giao thông. Cảnh sống tập thể của 5, 7 gia đình trong một căn nhà, đã thường xuyên xảy ra xung đột, xô xát, gấu ó lẫn nhau. Vì cảnh “cha chung không ai khóc”, nên không ai quan tâm tới việc tu bổ hoặc bảo trì nhà cửa. Vôi tường tróc lở, mái ngói rêu phong, cửa nẻo xộc xệch, quần áo phơi kín ban công. Ngoài phố xá, thương buôn ngồi la liệt chật kín vỉa hè, xả rác vô tội vạ, bất chấp khách bộ hành.Trên trời, đường dây điện chằng chịt như bát quái trận đồ. Dưới lòng đường, xe cộ quá tải, bụi bậm mờ mịt, khói xe đầy trời, tạo nên nạn ô nhiễm môi trường.
Người Hà nội ngày nay, giàu nghèo cách biệt như hai thái cực. Giai cấp giàu có tụ tập trong những khu sang trọng, ở nhà cửa kiến trúc theo kiểu Âu Mỹ, có bảo vệ giữ an ninh, có xe hơi sang trọng, có con cái ra ngoại quốc du học, và khi đau ốm, thì bay sang các nước tân tiến điều trị. Giai cấp nghèo thì buôn gánh bán bưng, ăn bữa sáng lo bữa tối, sống trong những căn nhà lụp xụp, bên đống rác. Sư cách biệt vật chất, tạo nên tình trạng phân hóa trong xã hội.
Thương buôn ở Hà nội ngày nay đã biết mánh mung, lừa lọc, làm hàng giả, hàng nhái, pha trộn hóa chất vào thực phẩm để trục lợi. Du sinh sang Nhật, móc nối với tiếp viên hàng không, ăn cắp mỹ phẩm trong siêu thị, mang về VN bán kiếm lời. Nữ sinh đánh lộn, xé quần áo, lột trần nhau giữa chốn thanh thiên bạch nhật. Thanh niên giựt bóp, cướp xe ngay giữa ban ngày…
Bảy mươi năm trời, vận nước oan khiên đã đưa Hà nội vào vòng tay sắt máu của chế độ CS, khiến Hà nội bị… phá sản, cả về hình thức, lẫn nội dung. Nền văn hóa của Hà nội hiện nay, là loại “văn hóa chợ trời” do cuộc sống sô bồ, chụp giựt.Các nam thanh nữ tú, cũng được thay thế bằng các chị cán bộ cục mịch, dữ dằn,và các anh thanh niên vai u, thịt bắp, chửi thề như …pháo nổ.
Trở về thăm cố hương, những người Hà nội năm xưa, không khỏi ngậm ngùi, tiếc nuối cho một nền văn hóa đã từng vang bóng một thời, và dư âm còn kéo dài cho tới ngày nay. Và rồi đây, nếu chế độ CS còn tồn tại, thì nền văn hóa “Hà Thành thanh lịch” năm nào, sẽ dần đi vào quên lãng với thời gian.
Đoan Nghi