; }

Tuesday, September 2, 2025

NHỮNG SỰ THẬT VỀ NGÀY ĐỘC LẬP

Đó là đoạn văn do Hồ Chí Minh đọc trước quảng trường Ba Đình, Hà Nội vào ngày 2/9/1945, tuyên bố về sự ra đời của một nước Việt Nam độc lập. Bản tuyên bố này được đọc trong bối cảnh đầy phức tạp của chiến tranh thế giới, nền thuộc địa Pháp, sự thâm nhập của thế lực cộng sản. Cho đến nay, các học giả vẫn tranh cãi về sự kiện này. Liệu ngày 2/9 có thật sự là ngày độc lập của Việt Nam?

Trước tháng 8/1945, người dân không biết Hồ Chí Minh là ai, có hình dáng như thế nào. Một bài báo của hãng tin AP vào tháng 4/1947 đã giải thích về Hồ Chí Minh như sau. Từ một người nắm một nhóm du kích chống Nhật khiêm tốn ở khu vực đồi núi gần biên giới Trung Quốc, Hồ Chí Minh chuyển sang làm việc cho không quân Mỹ, chuyên giải cứu phi công và làm nhiệm vụ phản gián.

Mỹ giao cho Hồ Chí Minh một số vũ khí và thiết bị radio. Từ tháng 3/1945, lực lượng của Hồ Chí Minh đã phát tuyên truyền rằng nếu chiến tranh kết thúc, Việt Nam sẽ được tự do và Hồ Chí Minh sẽ trở thành chủ tịch nước với sự hậu thuẫn của Mỹ. Trong vòng 4 tháng, chiến dịch tuyên truyền này gây được cảm tình được với dân chúng. Ngày 17/8/1945, Hồ Chí Minh tiến vào Hà Nội. Hai ngày sau, lực lượng Việt Minh tiếp quản bộ máy hành chính do Nhật bỏ lại.

Sự đầu hàng của Nhật trước phe Đồng Minh, sự do dự của Pháp khiến không khí độc lập dâng cao. Vua Bảo Đại, 32 tuổi, tuyên bố thoái vị để thiết lập nền cộng hòa, chính phủ Trần Trọng Kim do người Nhật dựng lên cũng tan rã theo. Đế Quốc Việt Nam sụp đổ.

Ngày 2/9/1945, tại Hà Nội, Hồ Chí Minh đọc bản tuyên bố về sự độc lập của Việt Nam, tự thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tuy nhiên, đến đầu năm 1946, chưa có nước nào công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đất nước Việt Nam chỉ mới bắt đầu tìm kiếm sự độc lập.

Vào tháng 3/1946, Hồ Chí Minh đã ký với Pháp một hiệp ước sơ bộ. Theo đó, Hồ Chí Minh chấp nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nằm trong Liên bang Đông Dương và khối Liên hiệp Pháp, và sẽ thảo luận vị thế cụ thể của Việt Nam.

Tiếp đến, một cuộc họp trù bị giữa Pháp và phía Hồ Chí Minh được tổ chức tại Đà Lạt để thảo luận rõ hơn về vị thế của Việt Nam trong Khối Liên Hiệp Pháp.

Hội nghị chính thức về vị thế của Việt Nam diễn ra từ tháng 7 đến tháng 9/1946, tức Hội nghị Fontainebleau, tại Paris. Phía Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa ở thế quá yếu, không đạt được những mục tiêu về chính sách ngoại giao độc lập, cũng như việc thống nhất đất nước. Pháp đã từ chối cuộc trưng cầu dân ý để sáp nhập miền Nam (tức Cochin China) vào phần còn lại. Vào lúc này, Pháp đã công nhận miền Nam là Cộng hòa Tự trị Nam Kỳ với thủ tướng là bác sĩ Nguyễn Văn Thinh.

Chủ quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến lúc này chỉ bao gồm Bắc Kỳ (tức Tonkin) và Trung Kỳ (tức An Nam), và nằm trong Khối Liên Hiệp Pháp.

Vào ngày 15/12/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi cho thủ tướng Pháp một thông điệp rằng: “chân thành mong muốn có sự hợp tác bằng tình huynh đệ với nhân dân Pháp trong khuôn khổ Liên hiệp Pháp”.

Tuy nhiên, lúc này, Pháp nghi ngờ Hồ Chí Minh đang tổ chức một chiến dịch nổi loạn. Pháp nói người dân Hà Nội và các vùng lân cận đã đào chiến hào, dựng rào chắn, chặn đường tàu, cho lính cải trang thành bệnh nhân và chuẩn bị phá hoại nhà máy điện.

Trong khi đó, Hồ Chí Minh cáo buộc Pháp bắt ép chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chuyển giao quyền kiểm soát cảnh sát cho nên giao tranh nổ ra vào ngày 19/12/1945. Hồ Chí Minh phát động toàn quốc kháng chiến.

Đến tháng 1/1947, Pháp bác bỏ đề nghị hòa bình của Hồ Chí Minh và tuyên bố sẽ nghiền nát lực lượng kháng chiến. Phía Pháp nói sẽ chờ thương lượng hòa bình với những nhà lãnh đạo khác của Việt Nam, miễn không phải từ phía của Hồ Chí Minh.

Đến tháng 2, Hồ Chí Minh trả lời phỏng vấn với phóng viên ngoại quốc rằng Việt Minh có nhiều thành phần khác nhau như xã hội chủ nghĩa, dân chủ, dân tộc, Mác-xít, Công giáo, Phật giáo, Khổng giáo và các tổ chức nhà đất.

“Chương trình của chúng tôi không phải cộng sản cũng không phải xã hội chủ nghĩa. Chúng tôi chỉ đơn giản là muốn cung cấp thức ăn, quần áo tối thiểu cho người dân, dạy tất cả trẻ em biết đọc và viết, và cho tất cả mọi người quyền tự do dân chủ”, Hồ Chí Minh nói.

Đến tháng 9/1947, phía Pháp đề nghị hòa bình và chuyển giao bộ máy hành chính cho Việt Minh với điều kiện Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trở về nằm trong khối Liên Hiệp Pháp, Pháp kiểm soát về chính sách ngoại giao và thiết lập các căn cứ quân sự.

Vì không đạt được thỏa thuận với Việt Minh, Pháp đã tìm kiếm giải pháp khác.

—–

Ngày 20/5/1948, tại miền Trung, một chính phủ lâm thời được thành lập do tướng Nguyễn Văn Xuân làm thủ tướng.

Đến tháng 6/1948, tại Vịnh Hạ Long, Pháp công nhận Quốc gia Việt Nam trong khối Liên Hiệp Pháp, bao gồm cả ba miền, do Bảo Đại đứng đầu và thủ tướng là Nguyễn Văn Xuân.

Một năm sau, Pháp ký một nghị định chuyển giao một số quyền tự trị cho chính phủ của Bảo Đại, bao gồm tư pháp, hành chính ngoại giao, sử dụng đồng tiền chung Đông Dương cùng với Lào và Campuchia, và có quân đội vận hành bằng tài chính của Việt Nam. Pháp vẫn tiếp tục đóng quân tại một số căn cứ và cố vấn cho quân đội của Việt Nam. Việt Nam vẫn chưa được độc lập hoàn toàn.

Tháng 7/1949, Bảo Đại trở về cố đô Huế để thiết lập chính phủ Việt Nam, thông báo cho các nước về sự ra đời của nước Việt Nam tự do.

“5 năm trước, trẫm đã thoái vị để tránh gây ra sự rắc rối và chia rẽ, nhưng hôm nay trẫm sẽ nắm quyền lực một lần nữa nhằm kết thúc chiến sự và đưa vận mệnh đất nước theo tiếng nói của nhân dân”, Bảo Đại nói trước quần chúng tại Huế.

Tuy nhiên, vấn đề lớn nhất của Bảo Đại là chứng minh ông không phải là con rối của Pháp, cũng như khả năng hàn gắn sự chia rẽ của đất nước.

——

Năm 1950, Liên Xô và Trung Quốc công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Mỹ công nhận nước Việt Nam của Bảo Đại. Và những nước này không chỉ cộng nhận mà còn trợ giúp cho bên này chống bên kia. Sự độc lập của Việt Nam sớm trở thành cuộc chiến giữa hai phe tư bản và cộng sản.

Pháp vẫn trụ lại Việt Nam với lý do nếu rời đi Việt Minh sẽ chiếm đất nước trong khi Bảo Đại chưa có được quân đội thật sự trung thành.

Chiến sự ở giữa Việt Minh và Pháp đã kéo dài được ba năm và gây ra tổn thất rất lớn ở cả ba miền. Những cuộc chiến lớn xảy ra ở miền Bắc. Miền Nam là chiến tranh du kích. Phe cộng sản được cho là kiểm soát nhiều diện tích đất đai và ước tính khoảng 50% dân số. Một số nơi xuất hiện tình trạng ngày Việt Nam, đêm Việt Minh.

Trong khi đó, việc đoàn kết đất nước vượt quá khả năng của Bảo Đại.

Những nơi không bị Việt Minh chiếm đóng bị chia rẽ ít nhất thành bốn phe khác nhau: phe ủng hộ chính quyền của Bảo Đại, phe trung lập, phe dân tộc chủ nghĩa – tức những người không tán đồng việc hợp tác cả với Pháp và cộng sản, và phe nghi ngờ sự trợ giúp của phương Tây đồng thời có cảm tình với phe cộng sản của Hồ Chí Minh.

Năm 1954, Việt Minh thắng Pháp trong trận Điện Biên Phủ. Đất nước tạm thời chia cắt tại vĩ tuyến 17, ấn định một cuộc tổng tuyển cử vào ngày 20/7/1956. Tại miền Nam, chính phủ Ngô Đình Diệm phế truất Bảo Đại qua một cuộc trưng cầu dân ý, tuyên bố thành lập chế độ Việt Nam Cộng hòa, tổ chức bầu Quốc hội và thông qua Hiến pháp.

Friday, August 15, 2025

NỮ ĐIỆP VIÊN DO THÁI CÀI TRONG LÒNG ĐỊCH IRAN

   Trong thế giới tình báo, có drone, vệ tinh và công cụ mạng. Nhưng đôi khi, vũ khí nguy hiểm nhất… lại là một người phụ nữ.
Hãy gặp Kathrine Pérez Sheked (tên khác là Catherine Pérez Shakdam) — điệp viên Mossad đã khiến Iran rung chuyển từ bên trong. Sinh ra tại Pháp, được đào tạo bởi cơ quan tình báo hàng đầu Israel và được giao một trong những nhiệm vụ táo bạo nhất trong lịch sử gián điệp hiện đại.
Hai năm trước, Mossad triển khai chiến dịch “Mission Iran.”
Mục tiêu? Thâm nhập giới quân sự tinh nhuệ và chương trình hạt nhân của Iran. Nhưng để làm được điều đó, họ cần nhiều hơn một gián điệp. Họ cần một người có thể quyến rũ, đánh lừa và biến mất không dấu vết. Và người đó chính là Kathrine.
Sau khóa huấn luyện khắc nghiệt, cô xâm nhập vào Iran dưới một danh tính giả — một phụ nữ châu Âu “tìm thấy sự bình an” trong đức tin Hồi giáo Shiite. Cô học tiếng, tiếp nhận tập quán địa phương và thực hành nghi lễ tôn giáo. Vỏ bọc của cô hoàn hảo.
Cô bắt đầu từ những bước nhỏ — làm quen với các bà vợ của sĩ quan cấp cao trong quân đội Iran. Tính cách thân thiện và sự quan tâm của cô nhanh chóng chiếm được cảm tình. Những buổi uống trà trở thành lời mời đến nhà. Những lời mời trở thành tình bạn. Và chẳng bao lâu sau, cô có quyền ra vào những ngôi nhà quyền lực nhất Iran.
Từ đó, chiến dịch thực sự bắt đầu.
Bên trong những ngôi nhà ấy, không ai nghi ngờ cô. Trong khi lực lượng an ninh bận quét điện thoại và giám sát email, Kathrine lặng lẽ mỉm cười, đi lại tự nhiên — thu thập ảnh chụp, bản thiết kế và lịch trình cá nhân. Cô gửi mọi thứ thẳng về cho Mossad.
Nhưng cô không chỉ thu thập dữ liệu. Cô đang đặt nền móng cho chiến tranh.
Và vào đêm ngày 12 tháng 6 năm 2025, tất cả được kích hoạt.
Israel phát động cuộc không kích bất ngờ trên khắp Iran, nhắm vào các căn cứ quân sự, hầm bí mật và trung tâm nghiên cứu hạt nhân. Nhưng đây không phải những cú đánh ngẫu nhiên — từng đòn tấn công đều chính xác, phẫu thuật và gây chết người.
Trong số những người thiệt mạng:
• 8 tướng quân đội cấp cao
• 7 nhà khoa học hạt nhân hàng đầu
• 3 chỉ huy tình báo cấp cao
Tất cả đều từng mời Kathrine vào nhà họ — mà không hề hay biết.
Iran choáng váng. Trước khi có thể phản ứng, bộ chỉ huy cao cấp đã bị xóa sổ. Khi các cơ quan an ninh vào cuộc điều tra, họ không tìm ra cô qua công nghệ, mà qua những bức ảnh cũ chụp trong các buổi họp mặt gia đình. Ở đó, cô đứng mỉm cười bên cạnh những người đàn ông mà chính tay cô đã góp phần tiêu diệt.
Nhưng đến khi họ nhận ra cô là ai… thì cô đã biến mất.
Áp phích truy nã cô được dán khắp Tehran. Tên cô được thì thầm trong các vòng tròn quân sự như một truyền thuyết ma. Nhưng cô đã không còn ở đó. Có người nói cô chạy trốn qua núi. Người khác tin rằng Mossad đã bí mật đưa cô rời khỏi Iran.
Dù sự thật là gì, có một điều chắc chắn:
Kathrine Pérez Sheked đã thay đổi cuộc chơi. Không cần súng, không cần bom — chỉ bằng sắc đẹp, trí tuệ và sự táo bạo, cô đã làm lộ những bí mật được canh giữ nghiêm ngặt nhất của Iran.
Iran gọi đây là “cuộc rò rỉ tình báo con người thảm khốc nhất trong lịch sử quốc gia.”

Thế giới? Sẽ không bao giờ quên người phụ nữ đã bước vào Iran… và xé toạc nó từ bên trong.

Saturday, July 26, 2025

QUỐC GIA VIỆT NAM PHẢN ĐỐI HIỆP ĐỊNH GENÈVE 20 THÁNG 07 NĂM 1954

 Kỳ 1: Chính phủ Quốc Gia Việt Nam từ 1948 đến tháng Bảy 1954


Lời tòa soạn: Cách đây 70 năm, vào ngày 20 tháng 7, Hội nghị quốc tế về tình hình Đông Dương nhóm họp tại Genève đã kết thúc sau gần 3 tháng thảo luận. Văn kiện chính được công bố tại hội nghị này là Hiệp định đình chiến ở Việt Nam với 47 điều chia làm 5 chương. Nội dung chính của Hiệp định là thành lập tại vĩ tuyến 17 đi qua sông Bến Hải, tỉnh Quảng Trị, một giới tuyến quân sự tạm thời và phân chia đất nước Việt Nam ra hai khu phi chiến ở hai bên giới tuyến đó: từ phía Nam vĩ tuyến 17 là lãnh thổ thuộc quyền kiểm soát của chính phủ Quốc Gia Việt Nam (trở thành Việt Nam Cộng Hòa kể từ 26 tháng 10/1955); từ phía Bắc vĩ tuyến 17 trở ra do chính quyền Cộng sản Việt Nam kiểm soát. Trước khi Hiệp định được ký kết, đại diện cho Chính phủ Quốc Gia Việt Nam là Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ đã ra tuyên ngôn phản đối với những điểm chính được tóm lược như sau: “Việc ký kết hiệp định giữa Pháp và Việt Minh trong đó có những điều khoản mang nặng những nguy hại cho tương lai của dân tộc Việt Nam. Việc hiệp định đã nhường cho Việt Minh những vùng mà Quân đội Quốc Gia còn đóng quân và việc tước mất của Việt Nam quyền bất khả xâm phạm để tổ chức phòng thủ... Việt Nam long trọng phản đối việc ký Hiệp định Genève, Chính phủ Quốc gia Việt Nam hoàn toàn tự do hành động để bảo vệ quyền lợi thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong cuộc thực hiện thống nhất, độc lập và tự do cho xứ sở.”


70 năm đã qua đi, các sử gia chân chính luôn nhận định rằng ngày 20 tháng 7 năm 1954 là ngày Quốc hận của Dân tộc Việt Nam. Trong tình thần tưởng niệm ngày lãnh thổ Việt Nam bị chia cắt, Việt Báo trân trọng giới thiệu đến bạn đọc loạt bài tổng hợp về sự hình thành của chính phủ Quốc Gia Việt Nam và diễn tiến hiệp định Genève.

 

* 1948: Chính phủ lâm thời Quốc Gia Việt Nam thành lập


Ngày 2 tháng 6/1948, một đại hội nhân sĩ và đại diện các đảng phái nhóm họp tại Sài Gòn. Tại hội nghị, sau khi nghe Thủ tướng Nam Kỳ là Trung tướng Nguyễn Văn Xuân trình bày, và sau khi nghe chiếu thư của Hoàng đế Bảo Đại, tất cả đã đồng thanh bầu Trung tướng Nguyễn Văn Xuân làm Thủ tướng lâm thời Quốc gia Việt Nam. Ngày 5 tháng 6, Hoàng đế Bảo Đại từ Hồng Kông đến vịnh Hạ Long trên một phi cơ đáp trên nước của hãng hàng không Anh Hồng Kông Calatina, phi cơ hạ cánh trên một chiến hạm Pháp. Trên chiến hạm này, Hoàng đế đã cùng Thủ tướng Nguyễn Văn Xuân và đại diện chính phủ Pháp ký Hiệp định Hạ Long. Theo hiệp định, chính phủ lâm thời không có quyền về ngoại giao, nhưng Thủ tướng Nguyễn Văn Xuân nói với ông Tổng thư ký nói rõ một điểm: Nếu cần, chánh phủ Lâm Thời Trung Ương có thể chỉ định một số đại sứ ở ngoại quốc. Hoàng đế Bảo Đại đã ở lại Hạ Long một đêm, sau đó đã đi Bangkok, từ Bangkok đổi lấy phi cơ dân sự để qua Pháp.

 

* Năm 1949: Quốc trưởng Bảo Đại về nước chấp chánh


Ngày 15-3, Thủ tướng Nguyễn Văn Xuân qua Pháp. Sau mấy ngày tiếp xúc với các yếu nhân trong chính phủ Pháp, Thủ tướng Xuân đã xuống miền Nam nước Pháp và yết kiến Hoàng đế Bảo Đại để trình bày tình hình đất nước và thỉnh cầu Hoàng đế về nước để trực tiếp điều khiển quốc gia. Đầu tháng 4/1949, Thủ tướng Xuân tổ chức một đại hội với 1,000 đại biểu là cư dân Nam Kỳ và 700 đại biểu là kiều dân Pháp tại Nam Kỳ, quyết định xin sát nhập miền đất Nam Kỳ vào nước Việt Nam. Thuộc địa Nam Kỳ được xóa bỏ ngày 25 tháng 4 năm 1949 do biểu quyết của đại diện các đoàn thể tôn giáo, chính trị và đồng bào các giới dự họp. Dựa trên quyết định đó, Quốc hội Pháp chấp thuận hủy bỏ quy chế thuộc địa Nam Kỳ. Tại Pháp, Hoàng đế Bảo Đại tuyên bố sẽ về nước vào ngày 28 tháng 4/1949 và chọn Đà Lạt làm nơi đặt văn phòng thay vì Huế.


Ngày 26 tháng 8/1949, Thủ tướng Nguyễn Văn Xuân cùng phái đoàn chính phủ lâm thời bay qua Singapore để rước Hoàng đế Bảo Đại về nước. Hoàng đế muốn được đón tiếp ở Singapore thay vì ở Pháp để tránh tốn kém cho phái đoàn. Ngày 1 tháng 7/1949, thành phần chính phủ Quốc gia Việt Nam được chính thức công bố do Quốc trưởng kiêm nhiệm chức vụ Thủ tướng, với các thành viên: Phó Thủ tướng kiêm tổng trưởng Quốc phòng: Trung tướng Nguyễn Văn Xuân; Tổng trưởng Ngoại giao: Nguyễn Phan Long; Tư pháp: Nguyễn Khắc Vệ, Kinh tế và kế hoạch: Trần Văn Văn, Nội vụ: Vũ Ngọc Trân; Tài chánh: Dương Tấn Tài; Ngoại giao: Lê Thăng; Quốc Phòng: Trần Quang Vinh; Thương mại và Kỹ nghệ: Hoàng Cung; Canh Nông, Xã hội, Lao động: Phan Khắc Sửu; Công chánh, Giao thông, Kiến thiết: Trần Văn Của; Quốc gia Giáo dục: Phan Huy Quát; Y tế: Nguyễn Hữu Phiếm; Thông tin: Trần Văn Tuyên. Thủ hiến Bắc Việt: Nguyễn Hữu Trí. Trung Việt: Phan Văn Giáo, Nam Việt: Trần Văn Hữu.

 

* Năm 1950: Pháp công nhận quyền độc lập của Quốc gia Việt Nam


- Ngày 21 tháng 1/1950, Trung tướng Nguyễn Văn Xuân từ chức Phó Thủ tướng, nhân dịp này Quốc trưởng Bảo Đại bỏ chức vụ Thủ tướng kiêm nhiệm, chỉ giữ chức Quốc trưởng, và cử ông Nguyễn Phan Long giữ chức Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Ngoại giao và Nội vụ. Ông Nguyễn Phan Long giữ chức Thủ tướng chỉ được hơn 3 tháng thì xin từ chức, Thủ hiến Nam Việt Trần Văn Hữu được chỉ định giữ chức Thủ tướng kiêm tổng trưởng Ngoại giao và Quốc phòng.


- Ngày 29/6/1950, Pháp chính thức công nhận Quốc Gia Việt Nam là một thành viên có chủ quyền trong khối Liên Hiệp Pháp. Sự công nhận này được công bố theo thỏa ước Pau. Cuối năm 1950, chánh phủ Pháp cử Đai tướng De Lattre de Tasigny sang Việt Nam với chức vụ Toàn quyền về Quân sự và Dân sự.

Về ngoại giao, ngày 7 tháng 2/1950, Hoa Kỳ và Anh cùng một số quốc gia chính thức công nhận và lập bang giao với Quốc Gia Việt Nam. Riêng Mỹ, tòa đại sứ đầu tiên của Hoa Kỳ đặt tại Sài Gòn do ông Donald Heath, một nhân vật ngoại giao kỳ cựu làm đại sứ. Ngày 6 tháng 3/1950, Hoa Kỳ đặt phái bộ quân sự. Ngày 9 tháng 3/1950, ông Achelon, một đặc sứ của Tổng thống Mỹ Truman đã yêu cầu chính phủ Hoa Kỳ viện trợ quân sự cho Việt Nam.

 

* Năm 1951: Hoa Kỳ viện trợ cho Việt Nam; Quốc gia Việt Nam gửi đơn gia nhập Liên Hiệp Quốc...


- 16/2: Thủ tướng Trần Văn Hữu trình diện nội các mới sau khi nội các cũ do ông làm Thủ tướng bị giải tán.


-19/3: Chính phủ Quốc gia Việt Nam phê chuẩn Hiệp định của Hoa Kỳ gồm 16 triệu Mỹ kim dành cho 3 quốc gia Đông Dương.


- 15/7: Quốc trưởng Bảo Đại ký Dụ số 12 ban hành quy chế quân dịch.


- 18/12: Quốc gia Việt Nam gửi đơn xin gia nhập Liên Hiệp Quốc do đại diện Pháp tại Liên Hiệp Quốc Chauvel chuyển cho Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc.

 

* Năm 1952: hai lần thay đổi nội các; Bộ Tổng Tham Mưu Quân đội Quốc Gia Việt Nam chính thức thành hình.


-8/3: Thủ tướng Trần Văn Hữu lại cải tổ chính phủ lần nữa, ông kiêm nhiệm Tổng trưởng Quốc phòng và Tài chánh.


-1/5: Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Quốc gia Việt Nam chính thức thành lập sau khi các quân chủng và một số binh chủng, binh đoàn đã được thành lập từ năm 1950 đến tháng 4/1952. Tổng tham mưu trưởng đầu tiên là Thiếu tướng Nguyễn Văn Hinh (thăng Trung tướng 1953)


-6/6: Thân phụ của Tướng Nguyễn Văn Hinh là ông Nguyễn Văn Tâm, nguyên Tổng trưởng bộ Nội vụ của nội các Trần Văn Hữu được Quốc trưởng Bảo Đại bổ nhiệm làm Thủ tướng, Thủ tướng Tâm vẫn kiêm Tổng trưởng Nội vụ.

 

* Năm 1953: Quân đội Quốc gia Việt Nam phát triển; cải tổ chính phủ.


- 8/1: Thủ tướng Nguyễn Văn Tâm cải tổ chính phủ, ông vẫn kiêm nhiệm bộ Nội vụ, Tổng trưởng Quốc phòng là ông Lê Quang Huy.


- Ngày 24-2, Hội đồng quân sự Việt Pháp nhóm họp quyết định thành lập 54 tiểu đoàn commando và 14 đại đội trọng pháo với sự yểm trợ về vũ khí, quân dụng của Hoa Kỳ. Các tiểu đoàn commando sau đổi thành tiểu đoàn Khinh quân.
- 1/9: Thành lập 4 liên đoàn Bộ binh đầu tiên của Quân đội Quốc gia Việt Nam.

 

* Năm 1954: Chiến sự sôi động, Pháp thất thủ Điện Biên Phủ, Hiệp định Genève chia đôi đất nước. Hai lần thay đổi nội các.


- 11/1: Hoàng thân Bữu Lộc được cử giữ chức Thủ tướng thay ông Nguyễn Văn Tâm. Tân Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Nội vụ, Tổng trưởng Quốc phòng là bác sĩ Phan Huy Quát (năm 1965 là Thủ tướng).


- Ngày 6-7, ông Ngô Đình Diệm thành lập chính phủ và chính thức chấp chánh ngày 7-7 (Song Thất), Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Nội vụ và Quốc phòng.


- Ngày 20 tháng 7/1954: Hiệp định Genève ký kết chia hai đất nước, Cộng sản chiếm phía Bắc vĩ tuyến 17, phía Nam là lãnh thổ Việt Nam Tự Do, đường ranh giới là sông Bến Hải tỉnh Quảng Trị. Phái đoàn của Quốc gia Việt Nam do ngoại trưởng Trần Văn Đỗ làm trưởng đoàn đã phản đối việc việc ký hiệp định này.

 

 

Vương Hồng Anh

Nguồn: Việt Báo

Monday, July 7, 2025

PHẢI BIẾT BAO NHIÊU NĂM MỚI XÂY DỰNG ĐƯỢC MỘT NỀN VĂN HÓA?

Nền văn hóa thanh lịch của Hà nội, được hình thành, phát triển, và củng cố từ mấy trăm năm, qua bao nhiêu thế hệ tiếp nối nhau, vẫn phát huy rực rỡ dưới 80 năm đô hộ của thực dân Pháp , nhưng lại bị yểu tử dưới bàn tay của những người Cộng Sản …
Hơn nửa thế kỷ trước, Hà nội được mệnh danh là đất “ngàn năm văn vật”, nơi đã trải qua “4,000 năm văn hiến”. Hà nội được xưng tụng là “Hà Thành thanh lịch”, đào tạo ra những “trai thanh, gái lịch”. Các“nam thanh, nữ tú” đã làm Hà nội hãnh diện bằng 2 câu thơ:
Chẳng thơm cũng thể hoa nhài.
Dẫu không thanh lịch, cũng người Tràng An
Hà nội xa xưa, chỉ là một thành phố xinh xắn,hiền hòa, với 36 phố phường và 5 cửa ô. Phố xá Hà nội ngắn, gọn, và sạch sẽ,nhà cửa khang trang. Người Hà Nội hầu như quen biết nhau gần hết. Họ chung sống hài hòa, và đối xử với nhau lịch sự tới độ khách sáo. Khoảng cách giữa giàu và nghèo không chênh lệch là mấy.
Hà nội còn nổi tiếng về các vùng phụ cận như làng Nhật Tân ven Sông Hồng, nhờ thổ nhưỡng đặc biết đã trồng được loại hoa đào đẹp nhất miền Bắc. Hoa đào Nhật Tân, sắc hồng thắm rực rỡ, cánh kép lâu tàn, nụ hoa chi chít trên cành. Ngày mùng một Tết, đào Nhật Tân nở rộ, những bông hoa tươi thắm còn ngậm sương mai, xen lẫn với các nụ hoa chúm chím, và lất phất những cánh lá non mươn mướt trên cành, trông đẹp vô tả. Theo dòng lịch sử, ngày mùng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu, khi vừa chiến thắng trận Đống Đa, vua Quang Trung vào thành Thăng Long, và đã tới ngay làng Nhật Tân để chọn một cành đào đẹp nhất, gửi về tặng Bắc Cung Hoàng Hậu, là công chúa Ngọc Hân.
Hà Nội còn nổi danh với khu Khâm Thiên, nơi giải trí của các bậc thức giả phong lưu. Họ đã ngẫu hứng sáng tác ra những bài ca trù, cho các ả đào ngâm nga bên khay rượu. Giọng ngâm thơ, xen lẫn với tiếng trống chầu thưởng, phạt, khen, chê đã nâng cao trình độ nghệ thuật của một thú ăn chơi nửa thanh nửa tục. Nhiều bài hát ả đào đã nổi danh, được lưu truyền trong văn học, và làm phong phú thêm cho nền văn hóa Việt Nam.
Hà Nội mang nhiều dấu ấn lịch sử, trải qua nhiều triều đại. Năm 1010, khi vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư, ra thành Đại La, đột nhiên thấy trên trời hiện ra đám mây mang hình dáng một con rồng đang bay lượn. Vua cho đó là điềm lành, nên đổi tên ra Thăng Long thành. Rồi tới đời vua Minh Mạng, năm 1831, lại đổi tên từ Thăng Long ra Hà Nội.
Hồ Hoàn Kiếm với Tháp Rùa (Hình:  wikipedia)
Hồ Hoàn Kiếm, một danh lam thắng cảnh ở trung tâm Hà nội, ghi lại huyền thoại vua Lê Thái Tổ du ngoạn trên hồ, khi vừa đại thắng quân Minh, năm 1428. Một con rùa vàng trồi lên mặt nước, đòi lại thanh bảo kiếm, đã cho nhà vua mượn diệt giặc. Nhận được thanh kiếm, rùa bèn ngậm vào miệng, và lặn xuống đáy hồ. Vua Lê Thái Tổ bèn đặt tên cho hồ, là Hồ Hoàn Kiếm.
Thăng Long thành còn ghi lại chiến tích oai hùng của trận Đống Đa, khi vua Quang Trung đại phá quân Thanh vào ngày mùng 5 Tết năm Kỷ Dậu, 1789, khiến Thái Thú Sầm Nghi Đống phải treo cổ tự vận, và tướng giặc Tôn sĩ Nghị phải bỏ cả ấn tín, tháo chạy về Tàu.
Đất Hà Thành là đất địa linh nhân kiệt. Người Hà Thành tao nhã, lịch sự từ lời ăn tiếng nói, tới cách phục sức, và giao tế.
Cái văn hóa của người Hà nội xa xưa, là hình ảnh của những người đàn ông phong lưu, lịch lãm, tề chỉnh mỗi khi bước ra khỏi cửa, là các bà nội trợ nề nếp, đảm đang, khăn nhung, áo lụa, khoe tài nữ công gia chánh qua những mâm cỗ thịnh soạn vào các ngày giỗ, ngày Tết, là các cô thiếu nữ duyên dáng, e ấp trong tà áo nhung, tấm khăn quàng, lên chùa lễ Phật buổi đầu năm. Người Hà nội, khi vui không sôi nổi, ồn ào, khi bất bình, giận dữ, biết kiềm chế lời ăn tiếng nói, để tránh xung đột.
Cái thanh lịch của người Hà Nội không phải chỉ tập tành trong một sớm một chiều mà có được. Cái phong thái đó, phải có sẵn trong nếp nhà, từ trước khi đứa trẻ sinh ra đời, để rồi khi lớn lên, đứa trẻ cứ rập khuôn theo cái nếp có sẵn, mà học theo cách cư sử, phép giao tế, lời ăn tiếng nói, nếp sinh hoạt của những bậc trưởng thượng. Thêm vào đó, là sự theo dõi, uốn nắn, dạy dỗ của các bậc phụ huynh, để rồi khi tới tuổi trưởng thành,người con trai trở nên một thanh niên phong lưu, lịch lãm, mạnh dạn bước vào đời, và người con gái trở thành một thiếu nữ đức hạnh, đảm đang, có khả năng quán xuyến một gia đình mới.
Có người nhận xét, người Hà nội khéo ăn khéo nói, nhưng không thực lòng, xử sự mềm mỏng nhưng thiếu chân tình, lịch sự, nhã nhặn nhưng ngầm kiểu cách. Có người còn nói, người Hà Nội coi trọng thể diện, giữ gìn mặt mũi, và sợ dư luận, nên họ sống cho người ngoài, nhiều hơn cho chính họ.
Những nhận xét đó, không phải là sai. Ngày tôi còn nhỏ, mẹ tôi thường nhắc nhở: “Ở trong nhà thiếu thốn, thì cũng chỉ có mình biết, nhưng bước ra ngoài, mà sử sự hẹp hòi, thì sẽ bị thiên hạ chê cười, làng nước đàm tiếu”. Bởi vậy, các khoản chi tiêu về giao tế như hiếu, hỷ, hay mọi đóng góp, mẹ tôi đều rất hào phóng. Để bù lại, bà thẳng tay cắt xén những khoản chi tiêu trong gia đình, kể cả khoản tiền chợ mỗi ngày. Mẹ tôi còn kể cho tôi nghe rằng ngày bà còn trẻ, trước khi đi ăn giỗ, ăn cưới, bà đều bị bà ngoại tôi ép ăn cơm trưóc ở nhà, để khi tới nơi, không vì đói mà ăn uống thô tục. Con gái của gia đình lễ giáo là phải …khảnh ăn, thanh cao, và đài các.
Tôi đã từng theo mẹ tôi đi tham dự các buổi họp mặt với bạn bè của bà. Vừa ăn xong, là các bà tranh nhau trả tiền, để chứng tỏ rằng mình là người lịch sự, hào phóng, nhưng khi về nhà, thì lại ngồi tiếc tiền. Có lần tôi nghe bà bạn hỏi ý kiến mẹ tôi về cái áo choàng của chồng bà vừa mua tặng từ Hồng Kong. Mẹ tôi hết lời khen ngợi, nhưng khi bà khách vừa ra về, thì mẹ tôi lại nói với ba tôi là cái áo màu mè, coi thiếu thẩm mỹ. Tôi thắc mắc về thái độ này, thì mẹ tôi giải thích rằng : “Chiếc áo đã lỡ mua rồi, không thay đổi được, thì can chi làm buồn lòng người khác !”
Ngày còn nhỏ, tôi cứ phân vân, không biết những thái độ này là đúng hay sai, nhưng từ khi biết suy nghĩ, tôi lại thấy, có lẽ những cách xử thế này, đã góp phần không nhỏ trong việc kiến tạo cái xã hội thanh lịch của người Hà thành. Vì họ luôn muốn vui lòng người khác, trọng “thể diện”, và sợ tai tiếng, nên họ thận trọng từ lời ăn, tiếng nói, tới cách thức giao tế, và dạy dỗ con cái. Thà là bản thân và gia đình chịu o ép, thiệt thòi, chứ không để cho thiên hạ dị nghị, chê cười.
Đó là những người Hà Nội của hơn nửa thế kỷ trước.
Người xưa nói, “cùng một giống quýt, trồng ở Giang Nam thì ngọt, trồng ở Giang Bắc thì chua”. Như vậy, môi trường đã đóng góp không nhỏ vào việc hình thành phẩm chất của cây trái.
Con người cũng vậy. Bản chất con người cũng thay đổi theo hoàn cảnh và môi trường sống. Sau khi đất nước bị chia đôi năm 1954, miền Bắc được giao cho CS, thì từ cảnh quang, tới con người Hà nội, đều mau chóng….bị phá sản. Nếp sống lễ giáo, gia phong của người Hà nội, bị CS lên án là “phong kiến”, “tiểu tư sản”, và hô hào từ bỏ, để học theo “nếp sống mới”.
“Nếp sống mới” khai thác sức lao đông của con người. Nông trường và công trường được thành lập để mọi người tham gia lao động tập thể. Tà áo dài duyên dáng,thướt tha, được thay thế bằng quần đen, áo ngắn, vừa gọn gàng, vừa đỡ tốn vải. Có lao động mới được nhà nước bán cho 15 kí gạo mỗi tháng, đuợc mua nhu yếuphẩm theo giá quy định, và được phân phối 3 mét vải may quần áo mỗi năm. Văn chương, thi phú, và âm nhạc bị kết tôi là văn hóa nô dịch, văn chương tiểu tư sản, ủy mị, ru ngủ con người, nên bị cấm lưu hành và trình diễn. Vụ án “Nhân Văn Giai Phẩm” năm 1957, đã tận diệt các nhà trí thức, và các văn nghệ sĩ đòi hỏi quyền được tự do sáng tác. Nhà nước nắm quyền chỉ đạo văn hóa, xử dụng cho mục đích tuyên truyền và khích động đấu tranh. Bằng chính sách văn nghệ chỉ huy, CS đã bóp nghẹt tự do ngôn luận, và tước đi cái khả năng sáng tạo của người làm văn nghệ. Tôn giáo cũng bị bài xích, vì cho là thuốc phiện, làm mê muội trí óc.
Tiếp thu Hà nội, CS chào mừng dân chúng bằng “Tuần Lễ Vàng”, kêu gọi mọi người đóng góp vàng và các quý kim, để nhà nước có tiền kiến thiết đất nước. Ban đầu,là tự nguyện, nhưng sau khi “tuần lễ vàng” kết thúc, cán bộ ngầm tiếp xúc với những gia đình khá giả, rỉ tai hăm dọa và bắt buộc họ đóng góp theo mức ấn định của nhà nước. “Tuần lễ vàng” là hình thức cướp của, và bần cùng hóa nhân dân,giống như những đợt đánh tư sản tại miền Nam, năm 75, sau khi CS cưỡng chiếm.
Ngay khi vừa ổn định, chính quyền CS đã có kế hoạch dồn những người Hà nội ra các vùng phụ cận thành phố, để lấy chỗ cho những người có công với cách mạng, từ các vùng nông thôn Hà Đông, Nam Định, và Ninh Bình vào nhập cư. Những người Hà nội còn sót lại, như cá nằm trên thớt, cố uốn mình để thích nghi theo nếp sống của những người mới nhập cư, mong được yên thân.
Để củng cố thể chế, nhà nước đã đặt tai mắt khắp mọi nơi, mọi chỗ, ngấm ngầm chỉ định những người láng giềng, bạn bè, thân tộc, nhòm ngó, theo dõi lẫn nhau, để báo cáo cho chính quyền. Ngay cả các học sinh, cũng được cán bộ chỉ dẫn về nhà nghe lén những lời trò chuyện trong gia đình, để rồi báo cáo lại với thầy cô, tạo ra một bầu không khí ngột ngạt, bất an, nghi kỵ lẫn nhau trong gia đình và xã hội.
Đợt cải cách ruộng đất trời long đất lở, vào những năm 54-56, đảng CS đã phá vỡ cái kỷ cương và lễ giáo của một xã hội đặt nặng đạo đức và nền tảng gia đình,của người dân miền Bắc. Để đạt chỉ tiêu, cán bộ đã bắt buộc, thúc đẩy, hăm dọa, để con cháu đứng lên đấu tố ông bà, cha mẹ, học trò tố khổ thầy, những tay chân thân tín kể tội chủ bằng những câu chuyện bịa đặt, các lời lẽ hỗn hào, thô lỗ, thậm chí “mày tao chi tớ”, “thằng này, con kia” bất kể tới tuổi tác và tôn ty trật tự, ngay trước mặt đám đông.
Nhà nước giữ độc quyền quyết định và phân phối những nhu cầu sống căn bản của người dân như gạo, đường, muối, vải…. Trong thời kỳ kinh tế bao cấp, người dân triền miên sống trong tình trạng thiếu thốn, và trở nên thèm thuồng đủ thứ. Con người dần “biến chất”, trở thành ích kỷ, hẹp hòi, và ty tiện. Đi chơi xa, phải xách theo khẩu phần gạo của mình, nếu không,chỉ được ngồi nói chuyện xuông, nhìn gia đình chủ nhà ăn cơm, vì mỗi người chỉ có đủ khẩu phần gạo cho mình. “Bần cùng sinh đạo tặc”, xã hội nảy sinh ra nhiều tệ trang như tham nhũng, móc ngoặc, cắt xén, phe phẩy. Người ta sẵn sàng bán rẻ bạn bè, thân tộc, vì những quyền lợi vật chất nhỏ nhen. Con người mất hết nhân phẩm.
Trong các sinh hoạt công cộng, những buổi học tập chính trị, diễn giả đã không ngần ngại dùng những từ ngữ … thiếu văn hóa “thằng này, con nọ”, “mày, tao,chi, tớ”. để khích động lòng căm thù của người nghe. Thậm chí, đến những câu vè, câu thơ, công cụ tuyên truyền, cũng mang đầy tính chất bạo lực đến… rợn người:
“Bún xào thịt giặc mới ngon.
“Cơm chan máu địch cho con no lòng…”
hoặc
Giết! Giết nữa,bàn tay không phút nghỉ
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong
Cho Đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng
Thờ Mao Chủ tịch, thờ Stalin bất diệt“ (1)
Được trưởng thành trong một môi trường… vô văn hóa, thiếu nhân bản, và tràn ngập hận thù như vậy, người dân dễ dàng trở nên hiếu động, hung hăng, sẵn sàng đỏ mặt, xăn tay áo gây gổ, mở miệng ra là chửi thề, dùng các danh từ thô lỗ “đéo…” “đếch…” để mở đầu câu chuyện. Xã hội cũng xuất hiện những hàng quán loại “cơm mắng, cháo chửi”, chẳng giống ai. Ở đây, khách hàng không phải là thượng đế, mà bị đối xử tàn tệ hơn cả … con ở. Nhiều người đã lập lại ngôn từ của bà chủ quán: “Này ! không chờ được thì.. xéo đi, lấy chỗ cho người khác, đừng có đứng đó mà lải nhải…”, hoặc là “Mắt để ở trên trán hay sao mà xớn xác, không chịu nhìn. Nước mắm để ở góc bàn kia kìa…”. Điều ngạc nhiên, là mỗi lần nghe chửi mắng, thì thực khách trong quán đã không tức giận, mà lại còn nháy mắt với nhau, và…rú lên cười. Người ta bảo, sở dĩ quán đông khách là vì các món ăn vừa rẻ, vừa ngon. Hóa ra, chỉ vì tham ăn, tục uống mà người Hà Nội bây giờ mất hết cả tư cách.
Ăn uống ở Hà nội, thực khách xả rác vô tư.Những xương xẩu, giấy chùi tay, đàm rãi khạc nhổ đều dùng sàn nhà, ngay dưới chân. Cười nói, đùa rỡn quang quác như ở chỗ không người. Ra đường, muốn đi tiểu thì quay đi quay lại, thấy vắng người là vạch quần …xả xú bắp.
Về cảnh quang, Hà nội ngày nay, không còn là một thành phố hiền hòa và sạch sẽ như nửa thế kỷ trước. Cho dù, Hà nội đã có những tòa cao ốc chọc trời, những sân golf trưởng giả, những khách sạn nguy nga, nhưng sự phát triển của Hà nội, là sự phát triển không đồng đều, và thiếu kế hoạch. Khu giàu sang sát ngay bên khu nghèo khó, giống như một cái áo cũ mang nhiều miếng vá khác nhau. Hệ thống thoát nước không được phát triển song hành, nên sau mỗi trận mưa lớn, là thành phố ngập lụt, gây trở ngại giao thông. Cảnh sống tập thể của 5, 7 gia đình trong một căn nhà, đã thường xuyên xảy ra xung đột, xô xát, gấu ó lẫn nhau. Vì cảnh “cha chung không ai khóc”, nên không ai quan tâm tới việc tu bổ hoặc bảo trì nhà cửa. Vôi tường tróc lở, mái ngói rêu phong, cửa nẻo xộc xệch, quần áo phơi kín ban công. Ngoài phố xá, thương buôn ngồi la liệt chật kín vỉa hè, xả rác vô tội vạ, bất chấp khách bộ hành.Trên trời, đường dây điện chằng chịt như bát quái trận đồ. Dưới lòng đường, xe cộ quá tải, bụi bậm mờ mịt, khói xe đầy trời, tạo nên nạn ô nhiễm môi trường.
Người Hà nội ngày nay, giàu nghèo cách biệt như hai thái cực. Giai cấp giàu có tụ tập trong những khu sang trọng, ở nhà cửa kiến trúc theo kiểu Âu Mỹ, có bảo vệ giữ an ninh, có xe hơi sang trọng, có con cái ra ngoại quốc du học, và khi đau ốm, thì bay sang các nước tân tiến điều trị. Giai cấp nghèo thì buôn gánh bán bưng, ăn bữa sáng lo bữa tối, sống trong những căn nhà lụp xụp, bên đống rác. Sư cách biệt vật chất, tạo nên tình trạng phân hóa trong xã hội.
Thương buôn ở Hà nội ngày nay đã biết mánh mung, lừa lọc, làm hàng giả, hàng nhái, pha trộn hóa chất vào thực phẩm để trục lợi. Du sinh sang Nhật, móc nối với tiếp viên hàng không, ăn cắp mỹ phẩm trong siêu thị, mang về VN bán kiếm lời. Nữ sinh đánh lộn, xé quần áo, lột trần nhau giữa chốn thanh thiên bạch nhật. Thanh niên giựt bóp, cướp xe ngay giữa ban ngày…
Bảy mươi năm trời, vận nước oan khiên đã đưa Hà nội vào vòng tay sắt máu của chế độ CS, khiến Hà nội bị… phá sản, cả về hình thức, lẫn nội dung. Nền văn hóa của Hà nội hiện nay, là loại “văn hóa chợ trời” do cuộc sống sô bồ, chụp giựt.Các nam thanh nữ tú, cũng được thay thế bằng các chị cán bộ cục mịch, dữ dằn,và các anh thanh niên vai u, thịt bắp, chửi thề như …pháo nổ.
Trở về thăm cố hương, những người Hà nội năm xưa, không khỏi ngậm ngùi, tiếc nuối cho một nền văn hóa đã từng vang bóng một thời, và dư âm còn kéo dài cho tới ngày nay. Và rồi đây, nếu chế độ CS còn tồn tại, thì nền văn hóa “Hà Thành thanh lịch” năm nào, sẽ dần đi vào quên lãng với thời gian.
Đoan Nghi

Thursday, June 19, 2025

NHỮNG NGƯỜI CHA CAN TRƯỜNG

 Nguyễn Diễm Nga

 

Trong lòng tôi, họ là những người cha can trường. 

Có thể lúc ấy, họ vẫn là những chàng trai độc thân mang nợ nước trên vai và nợ tình trong tim, cầm súng lên đường xông pha vào chiến tuyến.

Có thể lúc ấy, họ đã là những người cha nhưng chưa hề biết mặt đứa con thơ của mình còn đang nằm trong bụng mẹ. 

Họ đã mạnh mẽ gạt tình riêng, từ biệt vợ dại con thơ ra đi theo tiếng gọi thiêng liêng “Tổ Quốc – Danh Dự – Trách Nhiệm” vang vang trong tâm tưởng của những người trai thời chiến. 

Đã có lúc tôi từng muốn lịch sử ngủ yên!

Quay ngược dòng ký ức để làm gì khi lúc ấy chúng tôi chỉ là những đứa trẻ? 

Không ai yêu thích chiến tranh, nhưng nếu hiểu rõ về một cuộc chiến, hiểu rõ được sự can trường của những người lính Việt Nam Cộng Hoà, hiểu rõ được “tầm vóc” của họ trong đôi mắt và suy nghĩ từ những ngòi bút chân chính khắp nơi trên thế giới, tôi tin mình sẽ trưởng thành hơn.

Hôm nay, tôi muốn viết về cảm xúc của mình khi đọc bài viết “Heroic Allies” của tác giả Harry F. Noyes III. Tác giả là một cựu chiến binh Hoa Kỳ từng chiến đấu tại Việt Nam trong quân chủng Không Quân. Sau cuộc chiến trở về, ông lấy được văn bằng cao học về Nghiên Cứu Á Châu từ trường Ðại Học Hawaii. Bài này (Heroic Allies) được đăng trong tạp chí Vietnam, số tháng 8, 1993.

“They were small, talked in sing-song squeaks, put a smelly fish sauce on their food, and often held hands with each other.” 

Ông Noyes bắt đầu bài viết của mình bằng một câu như vậy: “Họ (người lính VNCH) vóc dáng nhỏ con, nói chuyện líu lo như chim hót, ưa thêm nước mắm vào mọi món ăn, và thường hay nắm tay nhau.” 

Chính những điều lạ lẫm, thiếu hiểu biết về xứ sở, về văn hoá của một đất nước, một dân tộc với những con người xa lạ này đã khiến cho đa số những người lính viễn chinh Mỹ khó lòng thông cảm với những người mà họ bất đắc dĩ gọi là “đồng minh”, những người lính Việt Nam Cộng Hòa.

Và rồi từ sự thiếu thông cảm này dẫn đến những kỳ thị, những đánh giá thiếu công bằng cho Quân Đội Miền Nam Việt Nam, đồng thời cũng là hình thức bao biện cho sự bỏ rơi “đồng minh” một cách phũ phàng, nếu không muốn nói là “vô nhân đạo” của Quân Đội Hoa Kỳ.

Ví dầu tình bậu muốn thôi

Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra 

Tôi nhớ đến hai câu ca dao trên và bất giác mỉm cười chua chát.

Ôi, những câu ca dao Việt sao mà đúng từ ngàn xưa cho tới ngàn sau.

Những điều ông Noyes viết, không phải chúng ta chưa từng nghe, từng đọc trước đây về những tội danh mà truyền thông Mỹ đã “gieo tiếng dữ” cho Quân Đội Miền Nam Việt Nam như “bất tài, phản trắc và hèn nhát…vv…và vv…” Tuy nhiên, ông đã lập luận gãy gọn và đưa ra những bằng chứng hết sức xác đáng “từng quan điểm một” để so sánh và phân tích vị thế và khả năng tác chiến của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà với những đội quân khác trên thế giới bao gồm Quân Lực Hoa Kỳ thời chiến tranh Ðộc Lập của Hoa Kỳ (American War of Independence) với nước Anh Vĩ Đại (The Great Britain) vào cuối thế kỷ 18. 

Theo ông Noyes, trong cuộc Chiến Tranh Cách Mạng (Revolutionary War) ấy, Quân Đội Mỹ đã có nhiều thuận lợi hơn Quân Đội Miền Nam Việt Nam ở những điểm sau:

    • Quy mô của cuộc chiến ấy nhỏ hơn và dễ chi phối hơn (khác với Chiến Tranh Việt Nam tuy chịu tiếng là “nồi da xáo thịt” nhưng thực chất chính là một cuộc đối đầu giữa hai khối tư tưởng chính trị gây ảnh hưởng toàn cầu: Chủ Nghĩa Tư Bản và Chủ Nghĩa Cộng Sản.)

    • Quá trình thuộc địa Hoa Kỳ đã giúp hình thành được những chính quyền tự phát địa phương, cho phép đất nước này hun đúc nên những vị lãnh tụ tài ba thật sự (trong khi Miền Nam Việt Nam chỉ là một nền Cộng Hòa đang phát triển, mới vừa thoát khỏi ách thuộc địa Pháp lại phải lao đầu ngay vào một cuộc chiến sinh tử với một đối thủ hùng mạnh được cả một khối Cộng Sản hỗ trợ phía sau)

    • Quân Anh không quá ngoan cố như Cộng Sản Bắc Việt.

    • Quân đồng minh Pháp thời bấy giờ đã không bỏ rơi nước Mỹ non trẻ như kiểu người Mỹ bỏ rơi Miền Nam Việt Nam. 

Chúng ta hãy cùng với ông Noyes điểm qua một vài trận đánh sau đây để ngậm ngùi chịu tiếng oan “bất tài, phản trắc, và hèn nhát” cùng với những người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà:

Trận Tổng Công Kích Tết Mậu Thân 1968, Cộng Sản Miền Bắc tưởng rằng sẽ đập tan được ý chí chiến đấu của Nam Việt. Tuy nhiên, thay vì bỏ cuộc, Quân Đội Miền Nam Việt Nam đã kháng cự mãnh liệt và hữu hiệu: không một đơn vị nào tan rã hay tháo chạy. Ngay cả cảnh sát cũng chiến đấu, họ đương đầu với quân chính quy đối phương trang bị bằng vũ khí hùng hậu với chỉ bằng những khẩu súng cầm tay. Dựa theo báo cáo, sau trận này, tinh thần chiến đấu của người miền Nam dâng cao, số người xin đăng lính cao đến nỗi chính quyền của quốc gia này phải đình hoãn bớt việc thu nhận thêm tân binh. 

Trong cuộc Tổng Tấn Công năm 72, lực lượng trú phòng của Quân Đội Miền Nam Việt Nam bị vây hãm tại An Lộc đã giữ vững được vị trí của mình trước một lực lượng ghê gớm của quân thù cả về người lẫn hỏa lực kinh hồn của đại pháo và hỏa tiễn. Chúng ta đã đọc rất nhiều, đã nghe rất nhiều những hồi ký về Trận An Lộc từ những nhân chứng sống người Việt. Thiết tưởng nay dưới một góc nhìn khách quan của một nghiên cứu gia người Mỹ đã từng góp mặt trong cuộc chiến, liệu nỗi oan của họ có rửa được chăng? 

Sau trận này, ông Noyes kể đã được tiếp xúc với một cố vấn Mỹ để nghe tường thuật lại mẩu chuyện một tiểu đội lính VNCH trong vùng được lệnh thanh toán ba chiến xa, đã hành động như thế nào. Họ hạ được một chiếc, rồi quyết định tìm cách bắt sống hai chiếc còn lại. “Theo tôi nhớ thì họ chộp được một chiếc còn một chiếc bỏ chạy, thế là mấy người lính chạy bộ rượt theo đến cuối đường.”

Ông Noyes cho rằng việc thi hành thượng lệnh của mấy người lính này có thể không đúng tác phong quân kỷ, nhưng lối hành xử cho thấy tinh thần chiến đấu cao của họ và thế chủ động mà mọi binh sĩ VNCH đều có.

Cho đến năm 1975 khi Quốc Hội Mỹ đã quyết định không ra tay cứu giúp VNCH thêm nữa về cả nhiên liệu lẫn đạn dược, thế mà một đơn vị quân VNCH tầm cỡ một sư đoàn đã cầm chân được bốn sư đoàn BV trong suốt hai tuần giao tranh ác liệt tại Xuân Lộc. Một chọi bốn! Theo ông Noyes, chỉ riêng một trận này thôi sự anh dũng còn nổi bật hơn bất kỳ một chiến công nào có thể tìm thấy trong chiến sử Hoa Kỳ. Nhưng… ngậm ngùi thay, đội quân Miền Nam sau đó đành phải lui binh vì Không Quân của họ không còn bom để yểm trợ. 

Đến đây, tôi muốn bạn hãy đọc một đoạn bằng nguyên bản tiếng Anh của ông Noyes: 

Remember: The United States had cut aid to South Vietnam drastically in 1974, months before the final enemy offensive. As a result, only a little fuel and ammunition were being sent to South Vietnam. South Vietnamese air and ground vehicles were immobilized by lack of spare parts. Troops went into battle without batteries for their radios, and their medics lacked basic supplies. South Vietnamese rifles and artillery pieces were rationed to three rounds of ammunition per day in the last months of the war.

The situation was so bad that even the North Vietnamese commander who conquered South Vietnam, General Van Tien Dung, admitted his enemy’s mobility and firepower had been cut in half. Aside from the direct physical effect, we must take into account the impact this impoverishment had on South Vietnamese soldiers’ morale.

Bởi vì tôi e sợ bạn sẽ không tin tôi nếu như lược dịch những điều này qua tiếng Việt. 

Tôi đã khóc khi đọc đến đây! 

Tôi đã khóc cho một quân đội bất hạnh khi hình dung ra ông ngoại tôi, bố tôi, các chú bác của tôi, hai cậu tôi cùng biết bao đồng đội của họ đã phải chiến đấu trong một hoàn cảnh tồi tệ như vậy. Bởi vì có hai thứ mà một người lính cần nhất trên mặt trận đó là vũ khí và tinh thần. Tinh thần thì vẫn cao ngất, nhưng vũ khí và sự hỗ trợ từ “đồng minh” thì cạn kiệt. Thương thay!

Hai luận điểm quan trọng nhất mà ông Noyes đã dùng để minh chứng cho ý chí chiến đấu kiên cường của quân nhân Miền Nam và để thấy rõ sự thất bại và đổ lỗi của người Mỹ tại Việt Nam như sau: 

Thứ nhất: Chiến tranh Việt Nam đã khởi sự khoảng bảy năm trước khi lực lượng Hoa Kỳ chính thức đổ bộ đổ và sau đó lại tiếp tục thêm chừng 5 năm sau khi quân Mỹ rút đi. Quân đội Miền Nam Việt Nam đã-vẫn-và luôn luôn kiên cường chiến đấu, không ai khác hơn! 

Thứ hai: Quân đội Miền Nam Việt Nam bị thương vong một phần tư triệu binh sĩ trên chiến trường. Theo “tỉ lệ dân số” thì tương đương hai triệu lính Mỹ chết (một con số gấp đôi tổn thất của Mỹ trong tất cả các chiến tranh gộp lại). 

Vì vậy, nếu cho rằng Quân Đội Miền Nam hèn nhát và không chịu chiến đấu thì tại sao họ lại hy sinh nhiều như vậy?

Tuy nhiên còn có một luận điểm nữa trong bài viết mà ông Noyes đã nói đến không chút tránh né khiến cho tôi vô cùng vì nể đó là khi ông phân tích về sự “bất tài và hoảng loạn, về động thái “bỏ chạy” trên chiến trường. 

Ông dẫn chứng bằng những mẩu chuyện sau:

“Khi một phụ nữ Anh hỏi viên công tước xứ Wellington rằng lính Anh có bao giờ bỏ chạy trên chiến trường không?” 

Viên công tước đáp, “Ngoài chiến trường người lính nào cũng có bỏ chạy cả, thưa bà.” 

Cuộc Nội Chiến (Civil War) của nước Mỹ cũng đã cho thấy sự can trường lẫn sợ hãi liên tục trồi lên sụt xuống. Những đơn vị của cả hai phe Confederate lẫn Union đều có lúc xông pha rất hăng hái và rồi có lúc phải “bỏ chạy” trước hỏa lực kinh hồn trước khi tập hợp lại tiếp tục chiến đấu. Họ cũng có lúc giao động chạy tán loạn nơi một chiến trường quá đẫm máu.

Hoặc như trong Thế Chiến Thứ Hai, khi cảm tử quân Nhật vừa tấn công vừa hò hét đã khiến cho một đơn vị bộ binh Hoa kỳ hoảng hốt “bỏ chạy”, trong khi đơn vị thứ hai trụ lại quyết chiến và sau khi tiêu diệt đội cảm tử quân Nhật gồm 10 tên thì mới biết đa số quân Nhật không có vũ khí.

Ông kết luận rằng, nếu một biến cố đơn thuần không thể đem ra mà gán cho cả quân lực Hoa Kỳ là hèn nhát, thì thỉnh thoảng có sự tan hàng của một vài người lính hay tướng lãnh VNCH cũng không có nghĩa là tất cả chiến binh miền Nam đều hèn nhát. 

Riêng tôi, tôi tự hỏi: tấm gương của Ngũ Hổ Tướng tuẫn tiết trong giờ phút thứ 25 cùng với biết bao Quân Dân Cán Chính Miền Nam Việt Nam kiên cường ở lại cùng quê hương, sẵn sàng đối mặt với sự trả thù hèn hạ của Cộng Sản trong các trại tù từ Nam ra Bắc, những điều này mang ý nghĩa gì đối với truyền thông một chiều của nước Mỹ?

…..

Văng vẳng đâu đây lời tình ca ai viết sao tôi nghe như một câu hỏi day dứt: 

Em ru gì, lời ru cho đá núi

Đá núi tật nguyền, vết sẹo thời gian… 

Biết bao giờ thời gian mới xóa nhoà và xoa dịu vết thương chiến tranh trong lòng họ, những người cha can trường của thế hệ chúng tôi?

Nguyễn Diễm Nga

Saturday, May 17, 2025

CÓ MỘT NICK ÚT MÀ TÔI BIẾT

Tuấn Khanh

Nick Út trong một lần về Việt Nam, ra sách và tặng riêng cho ông Trương Tấn Sang (VietnamNet)

        Câu chuyện về nhà nhiếp ảnh Nick Út và bức ảnh “Em bé Napalm”, trước khi bị đưa ra ánh sáng, đã có nhiều bài viết khẳng định rằng bức ảnh này không phải của ông ta. Năm 2015, nhà bình luận Đức Hồng viết trên BBC tiếng Việt, đã khởi đi rất nhiều tranh luận của người Việt trong và ngoài nước về sự thật ai là tác giả của bức ảnh này. Bằng giọng văn thuyết phục và quả quyết, ông Đức Hồng cho thấy sau bức ảnh “Em bé Napalm” đó còn nhiều điều chưa nói hết, khiến lâu nay nhiều người Việt Nam vẫn lầm tưởng.

Bài viết đặt một câu hỏi – rất hiển nhiên – mà cũng rất cay đắng, vì sao cái gọi là nạn nhân chiến tranh xâm lược của Đế Quốc Mỹ, cô Kim Phúc, cuối cùng đã tìm cách đào thoát và được giúp tỵ nạn ở phương Tây, chứ không ở lại Việt Nam. Nạn nhân đó cũng không muốn được hưởng vinh quang như một biểu tượng chống chiến tranh. Câu hỏi đặt ra là cô Kim Phúc, nhân vật chính trong bức ảnh đó, có hài lòng cho cuộc đời trở thành điểm tựa đẹp nhất về tuyên truyền cho quân đội miền Bắc Việt Nam hay không?

Sự thật là năm 1992, cô Kim Phúc đã thoát khỏi Việt Nam, tỵ nạn ở Canada để không biến mình thành công cụ truyên truyền cho một phía, cũng như tác giả Đức Hồng đặt lên một câu hỏi rất đáng chú ý rằng năm 1972, những người lính Cộng sản Bắc Việt đang làm gì ở đất của miền Nam trong một hiệp định phân chia đất nước vẫn còn hiệu lực. Và vì sao “các em nhỏ ấy lại chạy về phía lính Việt Nam Cộng hòa để kêu cứu mà không một chút sợ sệt, sao các em không chọn những người lính Cộng sản Bắc Việt cũng đang lẩn trốn ở ngay gần đó?”.

Sự thật ít người biết là gia đình cô Kim Phúc cũng bị đánh tư sản vào năm 1975. Cả nhà sống rất khó khăn. Năm 1982 khi một phóng viên người Đức đến Việt Nam để tìm lại nhân vật lịch sử trong bức ảnh “em bé Napalm” thì Kim Phúc bị đẩy thành một nhân vật tuyên truyền cho giai đoạn sau chiến tranh. Mọi thời gian sinh hoạt của cô Kim Phúc lúc bấy giờ đều bị công an kiểm soát chặt chẽ. Thậm chí Kim Phúc bị buộc thôi học trường đại học Y khoa ở Sài Gòn, về sống ở quê Trảng Bàng để tiện dễ kiểm soát ngôn ngữ tuyên truyền.

Sau đó, khi lấy chồng là một du học sinh sống ở Cuba, nhân một chuyến đi, máy bay ngừng chặng ở Gander, Newfoundland (Canada), Kim Phúc cùng chồng trốn khỏi sự kiểm soát của công an viên đi kèm và xin tị nạn. Mọi sự kiện này không là lời kể miệng, mà được bày tỏ công khai trên trang web riêng của Kim Phúc tên là Kim Foundation, quỹ từ thiện do cô sáng lập và cũng như trong quyền hồi ký The Girl in the Picture, hiện vẫn còn bán online trên các nhà sách lớn, như Amazon.

Cùng với những câu hỏi của tác giả Đức Hồng, cũng có một câu hỏi khác được đặt ra, là một người phóng viên của AP, vì sao từ vị trí là một nhiếp ảnh gia ghi chép sự kiện một cách trung dung, ông Nick Út dần dần biến mình thành một người quảng bá sai ý nghĩa của bức ảnh, biến mình thành một nhân vật tuyên truyền hơn cả cô Kim Phúc?

Trong cuộc tranh cãi về sự kiện ông Nick Út trở lại Việt Nam hồi Tháng Sáu 2015, họa sĩ Trịnh Cung nêu một ý kiến khác. “Nếu là một phóng viên có đạo đức, Nick Út đã phải có một thái độ khác. Trái lại, ông Út đã biến cơ hội giữ lại khoảng khắc thương đau của một sinh mệnh, tạo hào quang cho mình, mà không đứng về sự thật của nạn nhân trong suốt nhiều năm liền”, họa sĩ Trịnh Cung nói, ”giả sử khi được trao giải Pulitzer, ông Nick từ chối và trao tặng cho nạn nhân mà ông chụp được, có lẽ ông đã giải bày được một cách khiêm tốn về cơ may – hơn là tài năng – và tỏa sáng gấp bội lần hơn lúc này”.

Nhưng điều quan trọng là bên cạnh sự thật ít ai biết về cô Kim Phúc khi phải đào thoát sang Canada – trong số ít đó có ông Nick – thì dường như ông cũng tảng lờ việc đứng về phía nỗi khổ và khó khăn của cô Kim Phúc, và chỉ bám chặt vào bề mặt bức ảnh, lấy câu chuyện để nuôi ánh hào quang cho mình, phản bội lại đạo đức nghề nghiệp báo chí, là phải nói thật về điều mình thấy, trình bày sự thật mà mình biết.

Đạo đức nghề nghiệp đó, đã từng được chứng minh như chuyện nhà nhiếp ảnh Eddie Adams với bức ảnh chấn động thế giới về tướng Nguyễn Ngọc Loan khi bắn phục binh Bắc Việt Bảy Lốp vào năm 1968. Sau khi biết được sự thật, nhất là khi nghe tin tướng Loan qua đời, Eddie Adamas đã nói với báo chí rằng ông đã rất hối hận vì bức ảnh đó làm hại một tướng quân và làm hại một chế độ.

Đạo đức con người cũng đã được thể hiện, khi diễn viên Jane Fonda đi ra miền Bắc Việt Nam cổ vũ cho cuộc chiến tranh tương tàn vào năm 1972. Nhiều năm sau, nhiều lần, người diễn viên này đã bày tỏ sự hối hận vô bờ bến về hành động của mình khi biết rõ tác hại từ chuyến đi của mình. Bà Jane Fonda vẫn lập lại lời xin lỗi đến các cựu chiến binh Mỹ, mỗi khi có dịp.

Nhưng Nick Út thì khác. Ông quay lại Việt Nam để làm triển lãm riêng, ra sách chụp hình với các quan chức và đặc biệt là tảng lờ về cuộc đời thật của cô Kim Phúc mà ông lúc nào cũng quảng bá là thương mến và thân thiết.

Trong các buổi ra sách, và ký tặng, ông Nick cũng chưa bao giờ nói về sự thật của cuộc đời cô Kim Phúc, cũng như luôn mỉm cười im lặng, như một sự tán đồng với hệ thống truyên truyền Nhà nước rằng đó chính là bức ảnh ông chụp như để tố cáo tội ác xâm lược của đế quốc Mỹ.

Khi được hỏi về việc bị thế giới phát hiện ông là “kẻ cắp” của bức ảnh lừng danh, Nick Út nói ông sẽ đòi công lý “với nỗi đau của mình”. Nhưng có nỗi đau nào bằng chuyện công sức của một người bị cưỡng đoạt suốt nửa thể kỷ, và ông Nick Út thì bao giờ cũng cười tươi che hết ống kính khi nghe nhắc về bức ảnh này. Cũng như có nỗi đau nào diễn đạt được thành lời, khi cô Kim Phúc luôn bị ông giấu trong bóng tối, để làm sáng lòa hơn gương mặt của ông trước báo chí và ống kính truyền thông Việt Nam?

Nguồn: https://saigonnhonews.com/van-hoa-van-nghe/ben-tach-tra/co-mot-nick-ut-ma-toi-biet/