Trần Hưng
Trong
thời kỳ nghìn năm Bắc thuộc, người Bách Việt chỉ giành được độc lập
ngắn khi có các cuộc khởi nghĩa nổ ra. Điều kỳ lạ là cuộc khởi nghĩa đầu
tiên nhằm thoát khỏi ách đô hộ của nhà Hán lại được lãnh đạo bởi những
người phụ nữ. Đây là điều mà người Hán có nằm mơ cũng không thể tưởng
tượng ra được.
Hình ảnh các nữ nhi người Việt tiên phong xông pha trận mạc đã trở thành nỗi kinh hoàng ám ảnh quân Hán lúc đó:
Vùng Mê Linh có chị em Trưng Trắc, Trưng nhị.
Vùng Yên Dũng, Bắc Giang có nữ tướng Thánh Thiên.
An Biên, Hải Phòng có căn cứ của Lê Chân.
Tiên La (Thái Bình) có Bát Nạn tướng quân.
Bạch hạc (Vĩnh Phú) có nàng Hội.
Nga Sơn, Thanh Hóa có Lê Thị Hoa.
Động Lão Mai ở Thái Nguyên có Hồ Đề.
Tam Nông, Vĩnh Phú có Xuân Nương.
Châu Đại Man (Tuyên Quang) có Nàng Quỳnh, Nàng Quế.
Thanh Sơn, Vĩnh Phú có Đàm Ngọc Nga.
Tam Thanh (Vĩnh Phú) có Thiều Hoa.
Bạch Hạc (Vĩnh Phú) có Quách A.
Tiên Nga (Vĩnh Phú) có Vĩnh Hoa.
Vĩnh Tường, Vĩnh Phú có Lê Ngọc Trinh.
Đường Lâm – Sơn Tây có Lê Thị Lan.
Thanh Ba (Vĩnh Phú) có Phật Nguyệt.
Lang Tài (Bắc Ninh) có Phương Dung.
Thương Hồng (Hải Dương) có Trần Nang.
Gia Lâm, Hà Nội có Đường Quốc.
Bình Xuyên (Vĩnh Phú) có ba chị em Đạm Nương, Hồng Nương, Thanh Nương.
Chí Linh, Hải Dương có Quý Lan.
Các
nhà sử học xem đây là một chuyện kỳ lạ có một không hai trên thế giới,
một dân tộc sau 2 thế kỷ bị đô hộ đã có một cuộc khởi nghĩa ở khắp nơi,
mà thủ lĩnh lại toàn là phụ nữ. Trong các thủ lĩnh này, ngoài hai chị em
Trưng Trắc và Trưng Nhị rất quen thuộc với người Việt, nổi lên hai vị
nữ tướng là Thánh Thiên và Lê Chân.
Nữ nhi làm thủ lĩnh
Theo
dân gian lưu truyền, thời ấy tại làng Bích Uyển thuộc phủ Kinh Môn,
quận Hải Dương một vị quan là Nguyễn Huyến cùng vợ về quê ở ẩn, trước
ngày sinh phu nhân nằm mộng thấy một người con gái tự xưng là “Tự nơi
dương đình khâm thụ mệnh Trời, xuống đầu nhập thai sinh”. Phu nhân thụ
thai đúng 13 tháng, giữa ngày 12 tháng 2 năm Ngọ sinh một gái mày ngài,
mắt phượng, tướng mạo oai nghiêm, vợ chồng rất yêu quý con mà đặt mệnh
danh cho là Thánh Thiên công chúa.
Thánh
Thiên thông minh đĩnh ngộ, học một biết mười, năm lên 9 tuổi tam phần,
ngũ điển, lục thao, tam lược đều quán thông. Năm 12 tuổi đã có tài văn
chương, thông thạo võ thuật
Ông Nguyễn Huyến thường ngày vẫn đem tâm sự gửi gắm trong mấy câu thơ ngâm nga:
Từ khi thất quốc, vong gia
Vợ chồng, con cái đến nhờ thuyền môn
Lòng riêng báo quốc không chồn
Bình lương chứa chất luôn luôn đã nhiều
Ai tài chửa thấy ai theo
Một mình công việc trăm chiều khó đương
Sau
khi cha mẹ qua đời, Thánh Thiên chiêu mộ quân sĩ, luyện chiến thuật,
nổi danh một phương. Nghe tin cậu mình từ quan chiêu mộ trai làng, Thánh
Thiên đưa quân đến phối hợp cùng cậu mình, giành được nhiều thắng lợi ở
vùng Yên Dũng, Bắc Giang. Người Hán liên tục đưa quân tiến đánh nhưng
lần nào cũng bị bại trận phải rút về.
Thánh Thiên công chúa (Ảnh minh họa)
Một
nữ tướng khác là Lê Chân sinh ra ở làng An Biên (tên cổ là làng Vẻn,
nay thuộc thôn An Biên, xã Thủy An, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh),
con ông Lê Đạo và bà Trần Thị Châu. Gia đình họ Lê chuyên dạy học, làm
thuốc, làm nhiều việc thiện cho dân quanh vùng.
Theo
dân gian truyền lại thì ông bà Lê Đạo tuổi cao, muộn con nên rất lo
lắng. Một hôm, hai vợ chồng lên chùa Yên Tử làm lễ cầu tự. Đêm ấy, ông
Lê Đạo nằm mơ thấy hai vị thiên sứ một vị mặc áo xanh tay cầm kim mâu,
một vị mặc áo tía tay cầm bảo kiếm dẫn ông lên thiên cung. Ông bàng
hoàng kinh sợ vội sụp lạy trước một vị đại quan ngồi trong điện, đầu đội
mũ bách tinh, mình mặc áo bào vàng; bên trái bên phải mỗi bên có một vị
quan tay cầm giấy bút. Ông Lê Đạo văng vẳng nghe thấy lời truyền bảo:
“Nhà
ngươi có phúc lớn, tiếng đến thiên đình. Nay nhân có một tiên nữ phạm
lỗi, đày xuống trần 40 năm, cho đầu thai làm con nhà ngươi, sau sẽ làm
rạng rỡ gia đình, con trai cũng không sánh kịp”.
Bỗng
chuông trống chói tai làm ông chợt tỉnh, biết là nằm mơ. Vợ chồng ra
về, một buổi sáng sớm, bà đi ra ngoài ấp thấy một vết chân lớn, đưa chân
ướm thử, thấy người xúc động rồi có thai. Sau 12 tháng, sinh được một
gái (hôm ấy là ngày 08 tháng 02) mày ngài mắt phượng, sắc đẹp nghiêng
nước nghiêng thành. Nhân cớ ướm chân nên đặt tên là Chân.
Năm Lê Chân 18 tuổi, sắc đẹp và đức hạnh nổi tiếng khắp vùng. Không chỉ có tài thơ ca mà giỏi cả võ nghệ.
Lê Chân (Tranh minh họa)
Thái
thú Tô Định muốn ép Lê Chân về làm tì thiếp, nhưng Lê Chân đã dứt khoát
từ chối vì thế mà Tô Định đã sát hại cả bố mẹ nàng. Lê Chân trốn thoát
được liền tìm thầy học binh thư, võ nghệ, kết giao với những người cùng
chí hướng.
Khi
đã tinh thông võ nghệ, Lê Chân cùng các bạn bè tâm phúc theo đường sông
xuôi về phía nam. Đến đất An Dương, của sông Cấm (Hải Phòng ngày nay),
thì thấy nơi đây đất đai màu mỡ liền dừng chân lập trại khai phá, chiêu
thêm dân đến, lập xóm ấp, trồng dâu, nuôi tằm, khai thác thủy hải sản,
đồng thời chiêu lập binh mã.
Nhớ
cội nguồn, Lê Chân đặt tên cho nơi đây là An Biên trang. Binh sĩ chiêu
mộ được tập luyện rất chu đáo và có sở trường thủy trận.
Cuộc khởi nghĩa của các nữ tướng
Mặc
dù thời bấy giờ, các cuộc khỏi nghĩa có rất nhiều, nhưng lại không có
sự liên kết giữa các nơi. Chính vì vậy, cuối năm 39 sau Công Nguyên, Hai
Bà Trưng khởi nghĩa, hiệu triệu tất cả các thủ lĩnh cùng quy tụ về.
Thánh Thiên, Lê Chân cùng hàng chục các nữ thủ lĩnh khác cùng về theo
Hai Bà Trưng.
Hai Bà Trưng khởi nghĩa.
Năm
40 sau Công Nguyên, Hai Bà Trưng xuất quân. Đại hội quân sĩ được tổ
chức tại Hát Môn, Trưng Trắc lập đàn tráng, cáo lễ với trời đất, tự xưng
là Trưng Nữ Vương, rồi chia quân tiến đánh các nơi.
Thánh
Thiên Công Chúa cưỡi ngựa xông trận, quân Hán chặn lại. Ngày xưa mỗi
khi ra trận các tướng thường khiêu chiến và đánh trước. Tướng quân Hán
thấy tướng quân Nam chỉ là một nữ tướng thì cả cười, không ngờ chỉ mấy
đường kiếm Thánh Thiên đã chém bay đầu tướng Hán, thêm một tướng Hán nữa
xông trận lại bị Thánh Thiên chém chết. Không chịu nổi nỗi nhục khi
quân Bách Việt chỉ có nữ tướng mà hạ liền hai tướng của mình, quân Hán
đưa thêm tướng vào trận, thế nhưng chỉ thấy vài đường kiếm đã bị Thánh
Thiên chém bay đầu. Mới chỉ thoáng chốc quân Hán mất liền 3 tướng, cả
quân tướng Hán đều thất kinh.
Quân
Nam hò reo dậy đất, sĩ khí ngùn ngụt xông lên, quân Hán hoảng sợ tháo
chạy. Quân Hai Bà Trưng tiến thẳng đến Luy Lâu. Thái thú Tô Định, phải
cạo râu, cạo tóc, vứt bỏ cả ấn tín, trà trộn vào đám loạn quân của mình
rồi chạy trối chết về nước.
Đường tiến quân của Hai Bà Trưng năm 40 SCN.
Tất
cả các châu quận đều được quân Hai Bà Trưng chiếm lại, gồm các quận
Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố, Thương Ngô, Uất Lâm, Nam Hải v.v…
tức bao gồm cả tỉnh Quảng Tây và Quảng Đông Trung Cộng ngày nay.
Bản đồ Lĩnh Nam thời Trưng Vương.
Sách
sử nhà Hán có ghi chép lại rằng: “Năm Kiến Vũ thứ 16 (tức năm 40 sau
Công Nguyên), người con gái ở Giao Chỉ là Trưng Trắc và em gái là Trưng
Nhị làm phản, đánh phá quận. Trưng Trắc là con gái Lạc tướng huyện Mê
Linh, là vợ Thi Sách người Chu Diên, rất hùng dũng. Thái thú Giao Chỉ là
Tô Định dùng pháp luật trói buộc, Trưng Trắc phẫn nộ, vì thế mà làm
phản. Do vậy, những người Man, người Lý ở Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố
đều hưởng ứng. Gồm chiếm được 65 thành tự lập làm vua. Thứ sử Giao Chỉ
và các thái thú chỉ giữ được thân mình mà thôi.”
Năm 40 sau Công Nguyên, dân tộc Bách Việt làm chủ chính mình, quét sạch quân Hán ra khởi bờ cõi.
Đây
cũng là lần duy nhất trong lịch sử thế giới, một đội quân mà người cầm
quân hầu hết là phụ nữ trẻ tuổi, nhưng không chỉ giành chiến thắng mà
còn lập ra một vương triều mới, lịch sử ghi nhận chỉ diễn ra duy nhất
một lần ở Việt Nam.
Các
lễ hội mừng thắng trận diễn ra, người dân đều suy tôn Trưng Trắc lên
làm vua. Sau khi lên ngôi vua, Trưng Trắc cho đóng đô ở Mê Linh, củng cố
thành lũy sẵn sàng chống giặc.
Lê
Chân năm ấy mới 24 tuổi được phong là Thánh Chân công chúa, giữ chức
chưởng quản binh quyền nội bộ, đứng ra tổ chức, luyện tập quân sĩ. Lê
Chân huấn luyện quân sĩ liên kết nhằm tạo sức mạnh tập thể.
Cuộc chiến bảo vệ giang sơn
Thái
thú Tô Định khi chạy trốn về nước, Mã Viện dâng sớ lên Hán Quang Vũ Đế
hạch tội: “thấy tiền thì giương mắt lên, thấy giặc thì cụp mắt xuống”.
Năm
42 sau Công Nguyên, Hán Quang Vũ Đế phong Mã Viện làm Phục Ba tướng
quân, Lưu Long làm phó tướng cùng với Đoàn Chí đem ba vạn quân sang đánh
chiếm Bách Việt.
Thế
nhưng quân của Mã Viện khi từ Hợp Phố tiến sang gặp ngay phải đội quân
của Thánh Thiên. Hai bên giao chiến ba, bốn trận, quân Hán bị bại trận,
thây chết ngổn ngang, không tiến được phải lùi về vùng Mã Giang. Uy danh
của dũng tướng Thánh Thiên khiến quân tướng nhà Hán đều kinh hoàng.
Mã
Viện phải dâng biểu về triều đình xin thêm tướng giỏi và quân tinh nhuệ
giúp sức: “Nam bang có nữ tướng Thánh Thiên dụng binh như thần, trí
dũng thiên phương, không sao phục được. Xin bệ hạ phái thêm các tướng
giỏi và tiếp thêm quân sĩ sang giúp sức”.
Vua Hán lập tức cho thêm quân tướng tinh nhuệ sang giúp Mã Viện cùng mật truyền: “Nên dùng mưu mà đánh”.
Mã
Viện là một viên tướng giàu kinh nghiệm, qua quan sát lối đánh của quân
Bách Việt, viên tướng này nhận thấy sức mạnh của quân Việt chính là sự
đoàn kết. Một người lính Việt có thể đánh thua một người lính Hán, nhưng
nhiều quân Việt thì lại đánh thắng nhiều quân Hán. Từ đó Mã Viện đã tìm
được cách phá vỡ thế trận quân Nam, nhất là khi đã có thêm viện binh
đến.
Bị
quân của Thánh Thiên chặn đường bộ, Mã Viện cho quân đến Hợp Phố rồi đi
theo đường biển tiến đánh xuống phía nam. Đội quân phòng thủ vùng biển
Đông Bắc do Lê Chân chỉ huy, quân Nam chặn chiến thuyền quân Hán ngay
tại cửa sông Bạch Đằng. Tướng quân Bát Nạn cũng đưa quân đến chặn quân
trên bộ của Mã Viện ở cửa biển, phối hợp cùng cánh quân của Lê Chân.
Lê
Chân cho dựng các chướng ngại trên sông, dùng thuyền nhỏ nhẹ nhưng cơ
động của mình đánh vào mạn thuyền to lớn của quân Hán khiến quân Hán
thiệt hại nặng nề.
Suốt
dọc cửa sông Bạch Đằng, trên bờ và dưới nước, quân Việt do Bát Nạn cùng
Lê Chân chỉ huy giao chiến ác liệt cùng quân Hán. Song quân Hán lực
lượng đông hơn, được trang bị nhiều loại vũ khí khác nhau đã đánh lui
quân Nam, hai nữ tướng đành phải lui quân.
Các
thuyền của Lê Chân nhỏ nhẹ nên di chuyển rất nhanh, chẳng mấy chốc đã
bỏ xa quân Hán. Về kinh đô Mê Linh hội với quân Hai Bà Trưng tại đây.
Mã
Viện chọn vùng Lãng Bạc (Tiên Du ngày nay) để hội quân, nơi đây địa thế
thuận lợi để quân Hán có thể phòng thủ, quân thủy bộ dễ dàng hỗ trợ cho
nhau.
Trưng
Trắc chờ mãi không thấy quân Hán có động tĩnh gì liền chủ động đưa quân
đến đánh thẳng vào Lãng Bạc. Quân tiên phong do Lê Chân chỉ huy giao
tranh với quân Hán nhiều ngày, quân Hán cố thủ nhưng bị quân của Lê Chân
đánh mạnh khiến thiệt hại rất nhiều, cộng thêm cái nắng mùa hè khiến
quân Hán mệt mỏi vì bệnh tật. Tướng Hán là Hàn Vũ cũng bị thiệt mạng do
bệnh.
Nhiều
nhà nghiên cứu xác định trận đánh diễn ra rất ác liệt nhiều ngày ở trên
đồi, chân đồi và cả khúc sông thuộc vùng Tiên Du. Quân Hán còn rất
mạnh, quân số đông, có lực lượng thuỷ, bộ phối hợp, quen trận mạc, thành
thạo đánh tập trung theo cách đánh trận địa. Mã Viện là một lão tướng
già dặn kinh nghiệm chiến trường, từng lập nhiều chiến công trong các
cuộc đàn áp các phong trào nổi dậy chống nhà Hán.
Để
phá thế mạnh liên kết quân Việt, Mã Viện có quân số đông đã cho quân
chia cắt quân Nam ra để đánh, khiến quân Việt khó tạo ra sức mạnh liên
kết. Sau thời gian dài không thắng được, Hai Bà Trưng phải rút quân về
thành Cổ Loa. Quân Việt thiệt hại rất nặng.
Mã
Viện cho quân tiến đánh Cổ Loa, quân Nam lui về kinh đô Mê Linh, rồi
đến Cấm Khê. Những nghiên cứu mới đây cho thấy Cấm Khê có thể ở thung
lũng Suối Vàng, ở chân ngọn núi Vua Bà cao 525m, trong dãy Ba Vì thuộc
Hà Tây.
Cấm
Khê là nơi thuận lợi để lập trận phòng ngự. Quân Hán cho quân đến đánh
Cấm Khê, chiến trận diễn ra ác liệt từ mùa hè năm 42 đến mùa xuân năm 43
thì Cấm Khê thất thủ, Hai Bà Trưng cùng Lê Chân chia hai ngả rút ra
khỏi căn cứ. Hai Bà Trưng chạy đến sông Hát thì không thể thoát được
đành nhảy xuống sông tự vẫn để không sa vào tay giặc.
Thánh
Thiên lúc này đang ở mạn Bắc, nghe tin Cấm Khê thất thủ thì vội đưa
quân đến ứng cứu nhưng không kịp, liền đưa quân đóng ở sông Nhật Đức
(tức sông Thương ngày nay). Quân Hán tiến đánh với chiến thuật chia cắt
đội hình, quân của Thánh Thiên không thích nghi được nên thất trận phải
rút về Ngọc Lâm.
Quân
Hán tiến đánh Ngọc Lâm, trong trận giao tranh ác liệt, bị bao vây tứ
phía, Thánh Thiên đánh đến kiệt sức rồi hy sinh tại bến Ngọc (tên chữ là
Ngọc Chử, là một bến của con sông nhỏ Đa Mai) thuộc địa phận làng Ngọc
Lâm ngày nay.
Nữ
tướng Lê Chân rút theo đường thủy đến vùng Lạt Sơn, nhận thấy nơi đây
núi rừng hiểm trở có thể chặn quân Hán. Lưng có thể dựa vào dãy núi hình
cánh cung; trước mặt, phía Đông là sông Đáy, sông Ngân như hai hào
nước. Địa hình căn cứ tiến có thể đánh, lui có thể giữ, đầu cuối hô ứng
lẫn nhau.
Lê
Chân vừa xây dựng căn cứ, vừa chiêu mộ thêm quân sĩ. Căn cứ chưa xây
xong thì Mã Viện đưa quân tiến đánh, nhiều trận đánh ác liệt đã diễn ra.
Biết rõ không thể giữ căn cứ lâu dài, Lê Chân để một nữ tướng khác là
nàng Tía cùng một lượng lớn quân rút về phía Nam, còn Lê Chân cùng một
số ít quân tâm phúc tiếp tục ở lại tử thủ với quân Hán.
Quân
còn lại của Lê Chân rất ít không đủ sức đánh với quân Hán. Trận chiến
ác liệt cuối cùng diễn ra ở Đồng Loạn, nữ tướng Lê Chân cùng mấy tướng
tâm phúc rút lên núi Giát Dâu. Vào chiều ngày 13 tháng 7 năm Quí Mão
(tức năm 43 sau Công Nguyên) nữ tướng Lê Chân 27 tuổi, từ trên đỉnh núi
nước mắt chảy dài, nhìn lại giang sơn một lần cuối cùng rồi gieo mình
xuống dưới núi.
Hình ảnh tưởng niệm cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng.
Sau 3 năm ngắn ngủi giành được quyền tự chủ, dân tộc Bách Việt lại chìm vào thời kỳ Bắc thuộc.
Sức
mạnh của quân Việt thời đấy là sức mạnh đoàn kết, binh lính kết nối với
nhau tạo ra sức mạnh đương đầu với quân Hán. Mã Viện đã nhìn ra đặc
điểm này, nhờ quân đông lại thiện chiến hơn, Mã Viện đã cho quân thực
hiện chiến thuật chia cắt quân Việt ra để đánh và đã thành công.
Sử gia Nguyễn Nghiễm thời Lê trung hưng bình rằng:
Trưng
Vương là dòng dõi bậc thần minh, nhân lòng dân oán hận, nổi giận, khích
lệ người cùng chung mối thù. Nghĩa binh đi đến đâu gần xa đều hưởng
ứng, 65 thành ngoài miền Ngũ Lĩnh một buổi sớm đều thu phục được, người
dân chịu khổ từ lâu, không khác gì đã ra khỏi vực thẳm được thấy mặt
trời. Bà quả là bậc anh hùng khí khái hơn người. Tuy rằng quân mới tập
hợp, bị tan rã khi đã thành công, cũng làm hả được lòng căm phẫn của
thần dân một chút… Khi đất nước bị chìm đắm, thì hầu như lại được khôi
phục do một nữ chúa ở Mê Linh. Lúc đó bậc con trai mày râu phải cúi đầu
ngoan ngoãn tuân theo không dám làm gì, chẳng đáng thẹn lắm sao?
Trước
năm 1975 tại miền Nam Việt Nam, dưới chính thể Việt Nam Cộng Hòa, Ngày
Phụ nữ Việt Nam cũng là ngày tưởng niệm Hai bà Trưng vào ngày 6 tháng 2
âm lịch.
Trần Hưng
No comments:
Post a Comment