BS.Tôn Thất Sang
Crack!
Tiếng cơ bẩm đẩy viên đạn lên nòng súng nghe gai nhọn và lạnh lùng như
tiếng gằn giọng của tử thần! Một luồng cảm giác ớn lạnh chạy dọc xương
sống, làm toàn thân tôi nổi ốc. Tôi chưa
kịp định thần thì một giọng nói chát chúa vang lên:
-Ðứng lại, không tôi bắn!
Tôi vội vàng cố khép hai vạt áo mưa đang phần phật bay trong gió, quay mình lại. Một tên "cán bộ" sát khí đằng
đằng lạnh lùng chĩa mũi súng vào tôi và nhìn tôi không chớp mắt.
Tôi vội nói:
-Báo cáo cán bộ, tôi, Y tế trại, đi cấp cứu.
-Vậy đèn đóm đâu hết?
-Bị gió lùa mới tắt!
Tên Cán bộ nhìn tôi gằn giọng:
-Lần sau đi không có đèn thì tôi bắn ! Thôi anh đi đi !Tôi gật đầu chào nó, vội quay đi mà lòng còn ấm ức.
Tôi
đi trong cái lạnh và cô đơn vô cùng của đêm khuya ở trại Z 30D Hàm Tân,
khoảng 2, 3 giờ sáng, giữa hai hàng cây so đũa đưa đẩy cùng bóng tối,
đang chập chờn uốn éo và cất tiếng hú xào xạc
dưới cơn mưa lất phất nghe như tiếng rên xiết thở than của linh hồn
những người tù ở trại đã bỏ mình quá nhiều vì bệnh tật, vì lao động khổ
sai ! Tôi thốt nhiên rùng mình xốc lại túi cứu thương nặng trĩu một bên
vai, hai tay khép chặt tà áo mưa cúi mình rảo
bước.Xa xa, lẫn trong tiếng gió, văng vẳng tiếng la lớn của một tù
nhân:
-Báo cáo Cán bộ, buồng 9 có người bệnh nặng, xin cấp cứu !
Tiếng
kêu được lập đi lập lại nhiều lần, thống thiết, khẩn cầu và khổ sở
nhưng chứa chan tình đồng đội. Tôi chạy vội lại hướng đó. Ðêm khuya lắm
rồi, trời lạnh thấu xương, cả trại Hàm Tân đang
đắm chìm trong giấc ngủ đầy giá buốt và ác mộng, một giấc ngủ dật dờ
không đầy giấc để tờ mờ sáng hôm sau, nghe kẻng báo thức, tất cả lại phờ
phạc thức dậy, lại đi lao động, lại kéo dài cuộc sống khổ sai!
Ðến
buồng 9, qua chấn song sắt của khung cửa hẹp, tôi thấy một số anh em
còn thức, ngồi quây quần ở bục xi măng cuối phòng. Dưới ánh đèn le lói,
khoảng giữa một số mùng đã được cuốn lên nhăn
nhúm, có một thân hình bọc kín trong hai ba lớp chăn đang run lên từng
chập, cất tiếng rên hừ hừ giữa hai hàm răng đánh lập cập. Mọi người
chung quanh đang lo lắng, kẻ thoa dầu, người bắt gió. Trông thấy tôi, ai
nấy đều thở phào, nhẹ nhõm:
-Y tế đến rồi, yên tâm đi, có gì thì khai với Bác sĩ.
Tôi vội hỏi người trưởng buồng:
-Ai bệnh vậy, anh Ngọc ?
-Anh Loan đó anh.
Mọi
người chung quanh vội đẩy anh Loan đến sát bờ cửa sổ vì cửa chính đang
bị đóng kín với vòng xích sắt khổng lồ được khóa bằng một khóa Virex to
tổ bố. Trong lúc đó, tôi cởi áo mưa, ngồi
xổm xuống, mở túi cứu thương, lùa tay qua chấn song, kẹp nhiệt người
bệnh, sờ trán thấy nóng như lửa, tốc mền bệnh nhân ấn chẩn, thấy đau
vùng gan lách, bắt mạch thấy nhanh, đều, đọc nhiệt kế thấy 40 độ C. Tôi
bảo bệnh nhân ngồi dậy để nghe tim, phổi, không
có tiếng thổi bệnh lý, tuy nhịp có nhanh hơn vì đang sốt. Bệnh nhân
khai sốt về chiều, rét run và đổ mồ hôi, ăn không ngon, miệng đắng, nhức
đầu.
Tôi
trấn an anh Loan, bảo anh đang lên cơn sốt rét và sau khi ra mồ hôi,
thân nhiệt sẽ hạ và khỏe lại, không có gì đáng ngại. Tôi nhờ anh em vén
cao tay áo anh Loan, làm garrot
và dưới ánh đèn leo lét, tôi vỗ, vuốt, nắn, tìm veine mediane và chích
ống Quinoserum vào tĩnh mạch một cách nhẹ nhàng và đầy kinh nghiệm,
cái kinh nghiệm đắng cay và đầy linh động tính của một thầy thuốc trong
trại tù thường khi phải hành xử những thủ thuật
Y khoa trong mọi điều kiện thiếu thốn về vệ sinh, thuốc men, y cụ...
Mỗi
lần phải cấp cứu trong đêm khuya, thường phải chẩn bệnh qua song sắt,
mà khi chích thuốc, anh em tù nhân thường phải đứng nhón mông lên đúng
giữa hai chấn song, và thầy thuốc định vị xong
cũng phóng kim nhanh như chớp. Cái khó là chích gân (veine) qua khe cửa
vì lấn cấn, tuy nhiên lâu ngày cũng quen dần nên mọi sự vẫn trôi chảy.
Chích
thuốc xong, tôi đưa thêm anh Loan vài viên Quinine, Perymethamine và
một viên an thần. Dặn anh cách sử dụng xong tôi về Phòng y tế. Trong
giấc ngủ chập chờn, tôi mơ hồ nhớ lại hồi ở trại
miền Trung.***
Hồi
ở trại Tiên Lãnh, tù nhân có ba bác sĩ là các anh Phùng Văn Hạnh, Vương
Ngọc Lâm và tôi. Tuy nhiên, trại bảo chúng tôi là thành phần trí thức
Tiểu tư sản nguy hiểm nên cả ba anh em chúng
tôi không ai được làm Y tế. Tên trại trưởng chỉ định một anh cán sự Y
tế (anh Hiển) lên làm Y tế trại để định bệnh và trị bệnh cho hàng ngàn
tù nhân. Anh Hiển làm việc rất tận tâm và cũng được anh em thương mến,
tuy nhiên vì bệnh nhân quá nhiều và có những
trường hợp vượt quá khả năng của một Y tá nên thỉnh thoảng vẫn có những
vấn đề nghiêm trọng xảy ra. Trong khi đó thì những Bác sĩ vẫn phải đi
lao động khổ sai!
Anh
Phùng Văn Hạnh đi nhổ mạ, tăng gia sản xuất. Anh Vương Ngọc Lâm theo
đội 11 lên rừng đốn củi, một công việc rất nặng nhọc và theo chỉ tiêu
tăng dần.
Có
bữa đi lao động ngoài, gặp Lâm. Nhìn anh trong bộ Treillis tơi tả, lưng
đeo túi cải thiện (vỏ đựng mìn Claymore), tay xách lon gô (guigoz), vai
vác cây rựa cùn, mặt mày đen nhẻm, tôi cười
bảo: Sao, ngày nay lại lên rừng khám bệnh cho khỉ à ? Anh nhìn lại
tôi,nói: Anh lại ra ruộng nghiên cứu chất Heparine chống đông máu à ?
(chất của đỉa tiết ra làm loảng máu để dễ hút). Hai thằng chua chát cười
xòa rồi tôi vội đi nhanh cho kịp đội ra ruộng
đàn piano - mò cỏ lúa -làm bạn với đỉa, với ếch nhái và rắn nước.
Bầu
trời xanh lồng lộng gió nhưng tôi không thấy bầu trời theo hướng bình
thường mà chỉ thấy một bầu trời đục nhờ nhợ, nhăn nhó lộn ngược phản
chiếu trong mặt nước đục ngầu tanh tưởi dưới chân
tôi. Tất cả bọn tù đều chổng mông, đầu cúi xuống, hai tay khuấy, mò,
rứt những chòm cỏ mọc gần thân lúa. Thỉnh thoảng chớp được con nhái con
ếch thì reo mừng cho vào túi cải thiện. Nếu gặp được bầy dế nhủi thì
thật là béo bở. Chúng tôi đàn piano suốt ngày,
khi nghe kiểng bãi, mừng rỡ bước lên bờ thì mặt nặng, chân phu, sưng vì
dồn máu, lưng chồn gối mỏi, đĩa đeo đầy kẻ móng chân, có vài con lại mò
lên hút máu gần chỗ bí hiểm, ngứa ngáy cùng mình, cảm thấy cuộc đời tù
tội là cả một chuỗi ngày dài thê thảm và
quá ảm đạm!
Một
thời gian sau vì tù nhân chết quá nhiều, giao mùa Hè -Thu là thời gian
sốt rét hoành hành song song với cường độ lao động căng thẳng thi đua
sản xuất để thu hoạch vụ mùa. Tù nhân đi lao
động mà như đang đi vào cõi chết, lừ đừ, mệt nhọc, tay chân làm mà tai
chỉ lóng nghe tiếng kẻng bãi! Tai nạn lao động xảy ra liên miên: người
bị tre đâm, kẻ bị sập nhà, người bị rắn cắn, kẻ bị cây đè, có bữa anh em
lại đạp phải mìn bị thương nhiều người nên
trại phải điều động Bác sĩ Hạnh lên phụ trách Y tế. Anh nguyên là Thiếu
tá BS, trưởng Khoa xương ở bệnh viện Ða Khoa và Giám đốc một Bệnh viện
tư ở Đà nẵng. Anh làm việc tận tụy bất kể ngày đêm. Việc anh khoái nhất
là nhổ răng cho anh em và các tiểu phẩu;
(BS Giải Phẩu, nên thấy máu là nhớ nghề lắm).
Trong
thời gian đó anh Lâm bị tai nạn lao động vì khiêng cây quá nặng, vấp té
ngồi trên một chồi cây đã vót nhọn làm rách toát hậu môn máu tuông xối
xả. Anh em vội cõng về Bệnh xá cấp cứu và
chính B.S. Hạnh đã khâu nhiều lớp trong ngoài rất đẹp và rất thành
công. Một thời gian sau anh Lâm cũng được điều lên Bệnh xá. Tuy nhiên
sau đó ít lâu thì nghe nói hai anh Hạnh và Lâm bị chế tài phải ra lao
động lại vì phát biểu linh tinh.
Tôi,
sau một thời gian lao động chết bỏ, cũng được điều lên Na Sơn, trại lẻ
cách đó mười tám cây số đường núi, làm Y tế. Ở trại này là nơi sơn cùng
thủy tận, đầy sương lam chướng khí, đêm đêm
trong cái lạnh tê người, nằm nghe tiếng suối chảy róc rách lẫn với
tiếng thác dội ì ầm, tiếng chim gõ mõ, thỉnh thoảng lại vang lên tiếng
bóp bóp, bóp thì bóp của đôi chim đỗ quyên suốt đêm cô đơn đi tìm nhau
mà hừng sáng là chấm dứt: một chuyện tình, một
lời nhắn gọi đầy bi thảm, quyến luyến, thi vị và đầy kịch tính.
Có
một lần, trong đêm, cả trại hầu như thức dậy xôn xao, sợ hãi vì một
tiếng gầm rung chuyển cả núi rừng. Tiếng của chúa sơn lâm, đang giận dữ
tìm mồi lẩn quẩn đâu đây gần doanh trại. Tôi rùng
mình mơ màng, không tin rằng mình đang ở hậu bán thế kỷ 20, gần đầu thế
kỷ 21, thời gian mà nền khoa học vũ trụ đang phát triển tột đỉnh với
những trạm không gian có người ở, với hệ thống vệ tinh và những tàu con
thoi tuyệt hảo mà thân phận những tù nhân Việt
Nam phải còn ở nơi rừng xanh núi thẳm làm bạn với rắn rít, với hổ dữ,
một kiếp sống nô lệ không tương lai, một cuộc sống cô lập với thế giới
bên ngoài, hoàn toàn bị bưng bít sau bức màn sắt.Ở trại tù, tình trạng
lao động nặng, lại thêm suy dinh dưỡng của anh
em đã đến cực độ, thân mình chỉ còn da bọc xương, hoặc phù thũng vì
thiếu ăn, thiếu sinh tố.
Anh
em bị bệnh sốt rét rất nhiều (tôi cũng trải qua mấy cơn), kế đến là lao
phổi, kiết lỵ, dạ dày, gan, thấp khớp và tim mạch, v.v. và v.v... Thuốc
men giới hạn, thiếu ăn, đói khát, nên có
lần tôi phải xin Cán bộ chăn nuôi cho một ít cám heo (thường hàm chứa
một số Vitamine B1) để phát cho anh em quá suy dinh dưỡng đang bị
phù thủng. Nhìn anh em nhận lon cám heo, đôi mắt rực sáng sung sướng tôi
không khỏi ngậm ngùi nghĩ đến cái nhân vị con người
ở mức độ không thường dưới chế độ Cộng sản.
Trong
trại tù, đau răng là một bệnh hầu như mọi người đều mắc phải. Theo
thống kê, đau răng khi lên cơn nhức thường có cường độ cao hơn khi đau
đẻ. Khi chịu không nổi, anh em thường nhờ tôi
nhổ (cũng nhờ tôi thưòng xem BS. Hạnh nhổ cho các bạn tù, chính tôi
cũng được anh nhỗ cho ba cái răng sâu). Tôi soạn dụng cụ nhổ răng gồm có
hai thanh sắt nhỏ dẹp đầu, một cái dùng để nạy (tôi thường gọi là thanh
xà beng), một cái sắc cạnh hơn dùng để tách
và rọc niếu răng. Ngoài ra còn có một cây kềm mỏ cong như mỏ chim ưng,
để nhổ.
Thấy
tôi bày đồ ra anh em cứ tưởng tượng là dụng cụ sửa xe đạp thì hết hồn.
Nhưng sau khi nấu sôi dụng cụ cùng với bông gòn để sát trùng, chích
thuốc tê, tiếp đó bảo bệnh nhân ngồi trên chiếc
ghế, dựa lưng sát tường, đầu ngẩn cao, lại nhờ một anh bạn mạnh bạo giữ
thật chặc đầu bệnh, không cho lắc ! Sau đó tôi dùng thủ thuật róc, tách
niếu ra và lấy kềm mỏ cong (nhờ thợ rèn trong trại làm) kẹp chính xác,
nhổ răng ra nhẹ nhàng thì anh em như cất
được gánh nặng cám ơn rối rít. Có nhiều lúc, vì răng cấm quá chắc nên
thầy thuốc, bệnh nhân cùng người kềm giữ đánh vật với nhau gần nữa tiếng
mới xong, và cả ba đồng cưòi xoà và thở ra nhẹ nhỏm ! Vì vậy, hầu như
ngày nào cũng có người ghi tên nhổ răng.
Có
những khi trại hết thuốc tê mà anh em đau quá, tôi phải dùng nước cất
chích vào niếu răng để bệnh nhân yên trí là có thuốc tê (Phương pháp
dùng thuốc tâm lý placebo) và tôi cũng nhổ được
răng mà người bệnh quả nhiên không thấy đau bao nhiêu.
Có
một thời gian thuốc thông thường, trụ sinh đều thiếu trầm trọng, Cán bộ Y
tế chỉ cho được vài chai Xuyên tâm liên và quảng cáo đó là thuốc trị bá
bệnh của nhà nước ta, vì vậy, đau đầu, nhức
răng, khó ngủ, đau bụng, nhiễm trùng... tất cả đều được cấp phát Xuyên
tâm liên mà sau này tôi gọi đùa là Xuyên tâm tiễn.
Có
đôi lúc khâu vết thương rách toạt vì tai nạn lao động mà không có kim
mỗ, tôi phải lấy kim may và chỉ may quần áo nấu sôi sát trùng và khâu
vết thương, cho thêm trụ sinh và cắt chỉ năm hay
bảy ngày sau.
Tóm
lại, làm Y tế trại tù là phải quyền biến, thường phải dùng xuyên tâm
trị liệu kết hợp với vật lý trị liệu, tâm lý trị liệu, cùng với thuốc
tây, thuốc nam (cỏ mực để cầm máu, vỏ cây xoài
để trị nhức răng, lá ổi nấu nước uống để cầm tiêu chảy...) Phải biết
làm thầy mằn để trị bong gân, trật xương, phải biết châm cứu để trị
đau lưng, mất ngủ, di tinh... Vì vậy tôi nhắn người nhà gởi lên cuốn
châm cứu thực hành của cụ Thượng Trúc để biết thế
nào là nhâm mạch, đốc mạch cùng 12 đường huyệt đạo chính trên cơ thể:
thủ thái âm, thủ thiếu âm, túc khuyết âm, túc thiếu dương... hiểu thế
nào là bá hội huyệt, phong phù, phong trì, thiếu dương, quan xung, đan
điền v.v...
Cũng
nhờ vậy mà tôi biết những tay viết kiếm hiệp thường dùng từ đả thông
huyệt nhâm đốc, sinh tử huyền quan, kinh kỳ bát mạch và những tay xạo có
hạng thường chế thêm ra chưởng thế này thế
nọ, dùng cách không điểm huyệt cách sơn đả ngưu, câu hồn đại nã di tâm
pháp. v.v...là cũng dựa vào tên các huyệt đạo này để lòe độc giả, làm
mọi người say mê đến quên ăn bỏ ngủ một thời (trong đó cũng có tôi).
Hơn
12 năm trời rồi cũng trôi qua, lần tay đếm lại thấy số đậu trắng rất
nhiều mà số đậu đen hầu như rất ít. Mừng, vì mình làm đuợc nhiều việc
hữu ích cho anh em, 12 năm trời qua đi như một
giấc mộng đớn đau ở chín tầng địa ngục, bây giờ mới thấy ánh bình minh !
Cuối
cùng tôi cũng hết hạn tù, ra về với tâm hồn thanh thản vì đã sống được
một cuộc sống đẹp và hết lòng với anh em, một cuộc sống không chút bợn
nhơ, được anh em thương mến. Tôi ra về, anh
em chào giã từ trong thương yêu và ngậm ngùi, có một vài bác già, bệnh
nặng kinh niên, khi tôi về các bác mừng cho tôi nhưng lại lo lắng vì
không biết ngưòi kế tiếp có nắm vững bệnh lý của các bác mà chữa trị
không ?! Tôi trấn an và bồi hồi chào giã biệt các
bác.
Trên
đường ra khỏi cổng trại, ngoảnh mặt lại, bùi ngùi vẫn thấy anh em vẫn
lao động miệt mài khổ ải ở hiện trường, tôi bâng khuâng đưa tay vẫy anh
em một lần nữa, anh em lưu luyến khẻ vẫy tay
chào lại và trong ngấn mắt mờ lệ, tôi thoáng nhớ đến câu nói của một
Văn sĩ nào đó: Trại tù không phải là nơi anh ăn ở suốt đời, sẽ có một
ngày nào đó anh sẽ được trở về với gia đình, với xã hội. Ðiều quan trọng
là anh ăn ở làm sao mà khi ra đời, gặp lại bạn
tù, người ta vui vẻ chào anh, mời anh một điếu thuốc, chứ đừng để cho
người ta phải tránh né anh, hoặc nhổ vào mặt anh một bãi nước miếng !
Tôi tự nhiên cảm thấy sung sướng thật sự vì mình đã không nằm ở vế thứ hai...
BS.Tôn thất Sang
No comments:
Post a Comment