Friday, December 30, 2022
Friday, December 23, 2022
Saturday, November 12, 2022
Sunday, November 6, 2022
TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM MỘT GIA ĐÌNH THANH BẦN
Wednesday, September 14, 2022
TÁI CHIẾM QUẢNG TRỊ, TRẬN CHIẾN DÀI NHẤT
JOHN D. HOWARD
ĐINH YÊN THẢO dịch
Lời người dịch: Trận đánh tái chiếm cổ thành Quảng Trị kéo dài 81 ngày trong mùa Hè đỏ lửa 1972 là một trong những trận đánh dài và khốc liệt nhất trong chiến tranh Việt Nam. Trong tạp chí tháng Tư trên trang mạng khảo cứu lịch sử historynet năm nay, Thiếu Tướng hồi hưu John D. Howard, một sĩ quan West Point và cựu cố vấn tại chiến trường Việt Nam vào năm 1972 đã kể lại diễn biến toàn bộ chiến dịch và trận tái chiếm lịch sử này. Xin giới thiệu lại bài viết này nhân kỷ niệm 50 năm trận tái chiếm cổ thành kết thúc vào ngày 16 tháng 9 năm 1972.
*
Chiến Dịch Phục Sinh
Nằm gần các mật khu phía Bắc khu phi quân sư (DMZ) và giáp Lào, Quảng Trị là một chiến trường đụng độ liên tục trong chiến tranh Việt Nam. Các ủy viên Bộ Chính Trị Bắc Việt gọi đây là "mặt trận rực lửa" và Lê Duẩn xem Quảng Trị là “thành phố cách mạng anh hùng” khi tái thiết lại cổ thành này vào năm 1980. Các hướng dẫn viên du lịch tại đây thường giới thiệu với du khách ngoại quốc và ca ngợi sự anh hùng của những người cộng sản trong cuộc Tổng tấn công Xuân-Hạ 1972. Nhưng họ không hề nhắc đến rằng, quân cộng sản đã chiếm được cổ thành này vào ngày 1 tháng 5 năm 1972 và lính Thủy Quân Lục Chiến của miền Nam Việt Nam đã tái chiếm lại sau đó năm tháng.
Cuộc tấn công mở màn của Bắc Việt diễn ra vào ngày 30 tháng 3, tức ngày thứ Năm trước lễ Phục Sinh. Nó thường được gọi là Chiến Dịch Phục Sinh (người dịch: The Easter Offensive, theo cách gọi của sách báo Mỹ, và Mùa Hè Đỏ Lửa của VNCH), là chiến dịch lớn nhất trong cuộc chiến. Quân cộng sản tấn công bằng các đơn vị chủ lực trong mục đích giành chiến thắng quyết định, không đánh du kích và dùng các đơn vị nhỏ làm tiêu hao lực lượng khiến quân Mỹ mệt mỏi và rút quân như trước kia. Chiến lược đánh dai dẳng bị loại bỏ để Bắc Việt dốc một canh bạc “được ăn cả, ngả về không” (go-for-broke) nhằm đánh bại quân lực Việt Nam Cộng Hòa và lật đổ chính phủ Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.
Quân Bắc Việt tràn qua khu phi quân sự (DMZ) và băng qua Lào dọc theo Quốc lộ 9, hướng đến cố đô Huế, khởi đầu chiến dịch bằng ba cuộc tấn công vào các vùng khác nhau của Nam Việt Nam. Rạng sáng ngày 3 tháng Tư, cộng quân tấn công vào các căn cứ hỏa lực vùng cao nguyên, mở màn với trận đánh vào Kontum với mục tiêu tiêu tối hậu là cắt đôi Nam Việt Nam ở trung lộ. Ở phía Nam thì bốn ngày sau, tại khu vực quanh Sài Gòn, cộng quân tràn qua Lộc Ninh, một khu vực tiền đồn được phòng thủ chắc chắn tại vùng biên giới Campuchia và bao vây An Lộc, chỉ cách Sài Gòn khoảng 60 dặm.
Lực lượng tấn công của quân Bắc Việt có khoảng 30,000 đến 40,000 quân từ ba Sư Đoàn thiện chiến là 304, 308 và 325C, đã cùng với 200 chiến xa và các khẩu đội phòng không, tấn công vào một Lữ Đoàn mong manh của quân đoàn Thủy Quân Lục Chiến và Sư đoàn 3 quân lực VNCH. Trung tướng Hoàng Xuân Lãm, người đứng đầu Quân đoàn I đóng tại Đà Nẵng đã bỏ qua các báo cáo tình báo cho thấy kẻ thù đã tập trung lực lượng lớn khắp DMZ và ra lệnh chuyển quân giữa hai căn cứ hỏa lực của Sư đoàn 3 vào ngày 29 tháng 3. Mệnh lệnh sai thời điểm của ông đã góp thêm vào tình trạng hỗn loạn khi cộng quân tấn công vào ngày hôm sau.
Thủy Quân Lục Chiến và Sư đoàn 3 ở ngay phía Nam DMZ và ở chân đồi phía Tây đều bị tấn công dữ dội vào Chủ nhật Phục Sinh ngày 2 tháng Tư. Trung tá QLVNCH Phạm Văn Đính, chỉ huy trưởng Trung đoàn 56 của Sư đoàn 3, đã đầu hàng toàn bộ đơn vị của mình cùng căn cứ Carroll, một căn cứ hỏa lực cũ của Thủy Quân Lục Chiến Mỹ. Trung Tá Đính cũng không cho phá hủy kho đạn lớn hoặc vô hiệu hóa hơn 20 khẩu pháo, trong đó có 4 khẩu 175 mm.
Các cố vấn Mỹ là Trung tá Bill Camper và Thiếu tá Joe Brown đã gửi một tin vô tuyến ngắn gọn cho biết họ sẽ rời khỏi căn cứ. Vì lý do an ninh, họ không cho biết Trung đoàn 56 đã đầu hàng hàng loạt. Một Trung tá Mỹ mới được thuyên chuyển đến gởi ra một mệnh lệnh "Không được rời căn cứ!" Camper và Brown bất chấp mệnh lệnh nhằm tránh bị bắt sống và đã rời trên chiếc trực thăng Chinook CH-47 do Đại úy Harry Thain lái, người về sau đã nhận được huân chương cho cuộc giải cứu táo bạo này.
Việc mất căn cứ Carroll dẫn đến một cuộc triệt thoái quân về các vị trí gần thị xã Đông Hà. Các cuộc không kích của Hoa Kỳ đã giúp làm chậm bước quân Bắc Việt. Tuy nhiên, những nỗ lực nhằm thiết lập một hàng phòng thủ liên hoàn đã bị thất bại bởi Tư Lệnh Quân đoàn I liên tục ra các lệnh thiếu sự phối hợp. Ngày 28 tháng 4, Đông Hà thất thủ. Ba ngày sau thành Quảng Trị tan hoang, quân đội triệt thoái.
Tình trạng hỗn loạn đã diễn ra. Thủy Quân Lục Chiến VNCH giữ vững kỷ luật và chặn đứng đường tiến quân của cộng quân bằng một tuyến phòng thủ kiên cố dọc theo sông Mỹ Chánh, cách Huế 15 dặm.
Những thành công ban đầu của phe cộng sản đã củng cố sự lạc quan của những lãnh đạo diều hâu trong Bộ Chính trị Bắc Việt và gạt qua những thành viên muốn có sự thận trọng. Lê Duẩn, thủ lĩnh của phe chủ chiến, cương quyết cho rằng môi trường chính trị tại Hoa Kỳ sẽ ngăn cản Tổng thống Richard Nixon có phản ứng mạnh mẽ vì năm 1972 là năm bầu cử tổng thống và công chúng Hoa Kỳ bị xem là đã mệt mỏi với chiến tranh. Đó là một suy đoán hoàn toàn sai lầm về tổng thống Hoa Kỳ.
Tuy nhiên, vào thời điểm này trong cuộc chiến, các chọn lựa đáp trả mạnh mẽ từ Hoa Kỳ bị hạn chế. Vào ngày 30 tháng 4 năm 1972, có 68,100 lính Mỹ ở Việt Nam, giảm từ mức cao nhất là 543,100 quân vào tháng 4 năm 1969. Năm đó, chính quyền Nixon khởi xướng chương trình Việt Nam Hóa Chiến Tranh, rút dần quân đội Mỹ để chuyển giao trách nhiệm chiến đấu cho miền Nam Việt Nam. Chỉ còn lại hai lữ đoàn chiến đấu của Mỹ, một ở phía Bắc Nam Việt Nam và một ở khu vực Sài Gòn với nhiệm vụ chính của họ là bảo vệ các căn cứ không quân và cơ sở hậu cần của Hoa Kỳ.
Nixon loại trừ việc điều quân bộ binh mà tấn công bằng không quân. Ông điều động thêm phi cơ đến Đông Nam Á, tiếp tục ném bom ra mạn Bắc và ra lệnh thả mìn phong toả các cảng của Bắc Việt. Không Quân Hoa Kỳ và các chiến đấu cơ trên các hàng không mẫu hạm, với 206 phi cơ B-52 ném bom và hơn 800 phản lực chiến đấu đã sẵn sàng cho cuộc chiến. Vào đầu tháng Năm thì tình thế tại miền Nam Việt Nam bị xem là lâm vào tình trạng nguy hiểm nghiêm trọng.
Việc mất Quảng Trị và hỗn loạn tại Huế đã dẫn đến quyết định từ Tổng Thống Thiệu là tướng Lãm phải bị thay. Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lịnh vùng đồng bằng sông Mekong và được xem là một trong những tướng tài nhất của miền Nam Việt Nam sẽ thay thế. Tướng Trưởng cùng các sĩ quan tùy tùng bay ra vùng Một trong vòng 24 tiếng. Quân lực VNCH chuẩn bị phản công.
Những cuộc giao tranh đẫm máu
Trung tướng Ngô Quang Trưởng cùng các sĩ quan tùy tùng thân tín bay ra Quân đoàn I trong vòng chưa đầy 24 giờ sau lệnh bổ nhiệm từ Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Vị tân tư lịnh thể hiện một phong cách riêng khi chuyển bộ chỉ huy chính của Quân đoàn I từ Đà Nẵng ra Huế, nơi chỉ là một sở chỉ huy tiền phương nhỏ do một số sĩ quan và cố vấn Hoa Kỳ chỉ huy nhưng ông vẫn bay về Đà Nẵng đánh tennis và ăn tối ở nhà.
Tuyến quân tại sông Mỹ Chánh cần được tăng viện. Tướng Trưởng đề nghị Tổng Thống Thiệu cho bổ sung quân số. Ngày 8 tháng 5, Lữ đoàn 2 Nhảy Dù đến tăng viện và củng cố lại tuyến đường mặt biển. Hai tuần sau, Lữ đoàn 3 Nhảy Dù và bộ chỉ huy sư đoàn Dù bay đến Huế. Các đơn vị thiện chiến nhất bao gồm sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến, sư đoàn Dù và sư đoàn 1 QLVNCH lúc này xem như đã nằm dưới quyền chỉ huy của tướng Trưởng.
Bày binh bố trận tốt cho phép vị tướng trở nên quyết đoán táo bạo hơn. Lữ đoàn 369 của Thủy Quân Lục Chiến VNCH mở màn cuộc tấn công vào hậu cứ cộng quân ngay phía Nam thị xã Quảng Trị với hai tiểu đoàn phi đội. Hai ngày sau, vào ngày 15 tháng 5, Sư đoàn 1 QLVNCH tái chiếm được căn cứ hỏa lực cũ của Mỹ là Bastogne, củng cố phía mạn Tây dẫn vào Huế. Trong khi quân đội VNCH tiếp tục chiến đấu với địch quân thì các cố vấn Mỹ đã điều các cuộc không kích đầy hữu hiệu.
Cuộc phản công của Quân đoàn I mang mật danh là Chiến Dịch Lam Sơn 72 nhằm đẩy lùi địch quân qua khỏi khu vực phi quân sự DMZ. Tổng Thống Thiệu ra lệnh cho tướng Trưởng tái chiếm cổ thành Quảng Trị, là thành phố tỉnh lỵ duy nhất nằm trong tay địch, trước khi tiến quân xa hơn ra phía Bắc. Thị trấn này không có giá trị chiến lược và tướng Trưởng muốn bỏ qua nó vì ông muốn tiêu diệt các đơn vị Cộng quân và chiếm lại các vùng đã mất trước, nhưng lệnh của tổng thống Thiệu đã buộc các sư đoàn Dù và Thủy Quân Lục Chiến đi vào một cuộc đụng độ đẫm máu trong nội đô với quân địch.
Một kế hoạch tinh vi nhằm đánh lừa địch quân về thời gian và địa điểm của cuộc tấn công được vạch ra. Đó là cho "lộ bí mật" về một cuộc nhảy dù và một cuộc đổ bộ vào hậu cứ của địch quân. Tuy nhiên, cú lừa này không tạo ra hiệu quả đặc biệt gì vì bộ chỉ huy quân cộng sản trong khu vực đã nhận được thông tin chi tiết về cuộc tấn công thật sự từ một điệp viên của họ cài vào trong ban tham mưu Quân đoàn I.
Chiến dịch Lam Sơn 72 bắt đầu vào ngày 28 tháng 6 khi Thủy Quân Lục Chiến và lính Dù mở cuộc tấn công trong đêm qua sông Mỹ Chánh. Mặc dù kế hoạch đã bị lộ, họ cũng gặp sự kháng cự giới hạn từ địch quân. Các sĩ quan cao cấp đầy tự tin của QLVNCH hy vọng sẽ tái chiếm được cổ thành Quảng Trị trong chín ngày nhưng dự tính này đã thiếu chính xác.
Quân tiến công được hỗ trợ bởi các cuộc oanh kích của B-52, có sự yểm trợ mạnh trên không cùng hỏa lực của hải quân Hoa Kỳ với hai tiểu đoàn lính Dù và hai tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến VNCH đổ bộ vào phía sau tuyến kháng cự chính của địch quân. Dù vậy, sư đoàn Dù cũng phải mất một tuần mới đến được vòng ngoài của thị xã. Tốc độ tiến quân chậm đã giúp phía địch quân có được thời gian để củng cố trong cổ thành.
Được xây dựng vào năm 1824, bốn mặt của cổ thành có chiều dài 1,640 feet (khoảng 500 mét) và tất cả đều được bảo vệ bởi một con hào rộng. Những bức tường gạch dày cao gần 30 feet (hơn 9 mét) với một tháp pháo đài ở mỗi góc thành.
Tư lệnh Sư đoàn Dù là Trung tướng Dư Quốc Đống ra lệnh cho Lữ đoàn Dù 2, gồm ba tiểu đoàn với hơn 2,000 lính dù, đánh chiếm thị xã. Đại tá Trần Quốc Lịch cam đoan với tướng Đống rằng Lữ đoàn của ông sẽ chiếm lại nhanh chóng và đã chuẩn bị rượu champagne để ăn mừng chiến thắng. Dù vậy, Đại Tá Lich vẫn cho tấn công khá thận trọng.
Thiếu tá Lê Văn Mễ, một sĩ quan có năng lực xuất chúng chỉ huy đơn vị chủ lực của lữ đoàn là Tiểu đoàn Dù 11, biết sự thận trọng của Đại Tá Lịch đã khiến tiểu đoàn của ông mất phần chủ động. Cố vấn Hoa Kỳ của Thiếu tá Mễ là Đại úy Gail “Woody” Furrow, nói với một cố vấn khác rằng: “Họ đã trên đường bỏ chạy! Chúng ta nên bỏ qua thị xã Quảng Trị và tiến thẳng đến DMZ”.
Tư lệnh quân Bắc Việt tại chiến trường này là Trung tướng Trần Văn Quang, biết Tổng Thống Thiệu sẽ cho thực hiện bất cứ điều gì cần thiết để tái chiếm thị xã. Biết là một cuộc chiến đẫm máu sẽ diễn ra, ông ta đã chuyển một số trung đoàn bộ binh vào trong cổ thành và sử dụng một trung đoàn khác để xây dựng các công sự bên trong thị xã. Súng cối và đại bác, đặc biệt là pháo hạng nặng 130 ly do Liên Xô chế tạo đã được tái bố trí để hỗ trợ tối đa hỏa lực. Các đại bác 130 ly đã phóng những quả đạn nặng 70 pound đi xa khoảng 17 dặm, vượt xa tầm bắn của các loại pháo 105 và 155 ly của phía VNCH. Pháo binh và súng cối của cộng quân đã gây ra phần lớn thương vong cho lính VNCH.
Cuộc tấn công của Lữ đoàn 2 Nhảy Dù bắt đầu vào ngày 10 tháng 7. Hai tiểu đoàn 6 và 11 tấn công từ phía Nam, trong khi Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù thực hiện cuộc tấn công chính từ phía Đông Bắc. Các tiểu đoàn 5 và 6 Nhảy Dù, tăng viện vào ngày 25 tháng 6, không đủ quân số chiến đấu do thiệt hại từ chiến trường An Lộc kéo dài từ tháng Tư đến giữa tháng Sáu. Đại úy Earl Isabell, cố vấn của Tiểu đoàn 5, sau đó cho biết: “Chúng tôi được chỉ định là mũi tấn công chính nhưng không được bổ sung thêm quân số. Chúng tôi cần thêm vài đại đội. Các tân binh thì hầu như chưa được huấn luyện còn các chỉ huy dày dặn kinh nghiệm tử nạn tại An Lộc vẫn chưa được thay thế”.
Các Tiểu Đoàn 6 và 11 Nhảy Dù đã giành được ưu thế vành ngoài thị xã, nhưng quân Bắc Việt đã chiến đấu ở mỗi góc nhà. Cuộc xung kích được tính từng mét và mỗi tòa nhà chiếm được. Tiểu Đoàn 1 của sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến đã mở một cuộc tấn công bằng đường không ở cách thị xã Quảng Trị khoảng một dặm về phía Đông Bắc vào sáng ngày 11 tháng 7 để ngăn chặn giao thông trên đường 560, song song với sông Thạch Hãn là tuyến tiếp tế chính của quân cộng sản phòng thủ. Tiểu đoàn được chở trên 34 chiếc trực thăng của Thủy Quân Lục Chiến Mỹ và 6 trực thăng tấn công Cobra của Quân đội Hoa Kỳ hộ tống.
Cuộc đổ quân được yểm trợ bởi hỏa lực Hải Quân và các cuộc oanh tạc của B-52 nhưng vẫn vấp phải sự kháng cự mạnh mẽ. Súng tự động và hỏa tiễn địa-không SA-7 bắn lên như mưa. Một chiếc CH-53 Sea Stallion và hai chiếc trực thăng CH-46 Sea Knight chở Thủy Quân Lục Chiến bị bắn hạ. Một chiếc trực thăng vô tình hạ cánh gần một chiếc xe tăng T-54 của cộng quân được ngụy trang khá kỹ nhưng chiếc Cobra hộ tống có trang bị phi đạn chống tăng nên đã tiêu diệt được chiếc xe tăng này.
Thiếu tá Nguyễn Đăng Hòa, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu đoàn 1 và cố vấn của ông là Đại úy Thủy Quân Lục Chiến Mỹ Lawrence Livingston đã dẫn đầu các cuộc xung phong vào ngày 11 tháng 7 nhằm phá hủy các công sự của cộng quân đang chặn đường tiến quân lính VNCH. Livingston đã được tặng thưởng bội tinh vì sự anh dũng của mình. Trận đánh tiếp diễn trong ba ngày. Đến ngày 14 tháng 7, đường 560 đã bị cắt đứt. Quân Bắc Việt phải tìm đường khác thay thế để tiếp tế cho quân của mình tại Quảng Trị.
Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù đã thực hiện cuộc tấn công chủ lực vào đêm ngày 11 tháng 7. Hỏa lực pháo binh được bắn trước và 18 cuộc xuất kích của Không quân Hoa Kỳ đã làm yếu các công sự phòng thủ của tòa thành. Tuy nhiên, quân phòng ngự của địch quân đã chặn được Tiểu đoàn 5 ngay sát chân tường thành. 25 lính bị tử nạn và hơn 100 lính bị thương.
Lệnh cấm Không Quân Mỹ không kích vào bên trong thị xã được ban hành vào ngày 15 tháng 7 vì Tổng Thống Thiệu muốn tái chiếm Quảng Trị mà không cần sự trợ giúp của Hoa Kỳ. Ông bối rối trước các báo cáo rằng Không Quân Hoa Kỳ đã cứu được An Lộc và Kontum. Trước sự phản đối của tướng Trưởng, một vòng tròn tưởng tượng đã được vẽ xung quanh thị xã. Các cuộc không kích của Hoa Kỳ đã bị cấm trong khu vực đó.
Khúc khải hoàn viết bằng máu
Quân Bắc Việt vẫn mở các cuộc tấn công nhằm phá vỡ những cuộc hành quân phối hợp của phía VNCH. Họ tấn công Tiểu Đoàn 5 vào ngày 15 tháng 7 và gần như chiếm được trạm chỉ huy tiểu đoàn. Vì một lý do không giải thích được, cuộc tấn công đã bị dừng lại khi chiến thắng nằm trong tầm tay của cộng quân. Hai ngày sau, một cuộc tấn công tương tự vào Tiểu Đoàn 6, hai bên đánh xáp lá cà trước khi quân Bắc Việt rút lui.
Lính Dù của quân lực VNCH tấn công nhưng kết quả giới hạn và thương vong tăng lên. Những người cộng sản nướng quân cho chuyện cầm cự vì việc giữ được Quảng Trị là ưu tiên hàng đầu của Hà Nội. Mặc dù đường 560 đã bị chặn, các chuyến phà trên sông Thạch Hãn vẫn chuyển quân, hàng tiếp liệu và khí cụ thay thế vào cổ thành, cố duy trì ưu thế về quân số của mình. Trong khi đó, phía chính quyền Sài Gòn đã gặp khó khăn để đáp ứng kịp nhu cầu thay quân.
Bộ chỉ huy Lữ đoàn Dù 2 nhận mệnh lệnh mở một cuộc tấn công khác. Lần này Tiểu Đoàn 5 được tăng cường thêm hai Đại Đội từ Tiểu Đoàn 81 Biệt Cách Dù thiện chiến và một Trung Đội xe tăng. Trước cuộc tấn công vào đêm 23 tháng 7, một chiếc F-4 Phantom của Không lực Hoa Kỳ đã được phép thả một quả bom đạn đạo laser nặng 2,000 cân Anh xuống thành lũy phía Đông Bắc của tòa thành để Tiểu đoàn 5 đột kích vào pháo đài. Khi trời rạng sáng, lệnh hạn chế không lực Hoa Kỳ lại bị áp đặt và Không Quân VNCH được ra lệnh thay thế. Một phi cơ đã vô tình thả ba quả bom 500 cân vào giữa lính nhảy dù, gây thiệt mạng 45 lính và làm bị thương nặng 100 lính khác.Tiểu đoàn 5 buộc phải rút lui, chấm dứt cuộc tấn công.
Cuộc chiến đấu kéo dài hai tuần gần như xoá sổ cả Lữ đoàn 2 Nhảy Dù. Tiểu đoàn 5 bị thiệt hại nặng nề nhất. Đơn vị có 600 quân bị tử trận hết 98 lính và 400 lính bị thương. Hai tiểu đoàn còn lại cũng không khá hơn. Bốn trong sáu cố vấn Mỹ bị thương và phải chở vào bệnh viện. Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến VNCH tiếp viện cho Sư đoàn Dù vào ngày 27 tháng 7. Một cố vấn Thủy quân lục chiến Mỹ đã phải giật mình trước những gì nhìn thấy tại Quảng Trị.
Quảng Trị là hình ảnh của Berlin vào năm 1945. Hố bom khắp mọi nơi. Mọi cấu trúc hầu như đã bị phá hủy, chỉ còn những tòa nhà trơ trọi vách.
Hầu hết lính Thủy Quân Lục Chiến tin rằng họ sẽ nhanh chóng chiếm ưu thế nếu lính Dù chưa làm được. Sự lạc quan của họ nhanh chóng tụt xuống khi cuộc tấn công ban đầu bị chao đảo sau khi đối đầu với một lực lượng phòng vệ vượt trội về quân số phía địch quân. Thiếu tướng Thủy Quân Lục Chiến Mỹ là Richard Rothwell, cố vấn cho Tiểu đoàn 5 Thủy Quân Lục Chiến VNCH, đã đổ lỗi một phần điều này cho Sư đoàn Dù đã không bảo vệ được sườn trái của lực lượng Thủy Quân Lục Chiến. Nhiều pháo đài cũ ở phía Tây Quốc lộ Một do cộng quân chiếm giữ đã nã pháo vào các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến đang tấn công. Trước đó thì Thiếu Tá Lê Văn Mễ, Tiểu Đoàn trưởng Tiểu đoàn 11 Dù đã cho rằng các pháo đài nằm quá xa để có thể cản đường tiến công dọc theo trục mà Thủy Quân Lục Chiến sử dụng.
Bất kể là gì, bộ tham mưu Quân Đoàn I đã không giao trách nhiệm về các pháo đài và thiết lập ranh giới chính xác giữa hai sư đoàn. Đây là một sơ suất tác chiến quan trọng của bộ tham mưu trong chiến tranh quy ước vì chỉ từng tác chiến đơn vị nhỏ mà hiếm khi chỉ huy phối hợp trong môi trường chiến thuật.
Cuộc tấn công vào ngày 3 tháng 8 cũng bị sa lầy. Tổng Thống Thiệu buộc phải gỡ bỏ các hạn chế các cuộc oanh tạc của Mỹ vào Quảng Trị, nhưng quyết định đó cũng không thay đổi được gì khi trận chiến đã trở thành các cuộc đọ sức giữa pháo binh VNCH và các cuộc oanh tạc của Không Quân Hoa Kỳ đối đầu với pháo binh cộng quân. Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến đơn giản là không đủ lực lượng để thắng được đông đảo địch quân. Chuẩn Tướng Bùi Thế Lân, Tư lệnh sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến cần được tăng quân.
Trong suốt tháng 8, các cuộc giao tranh tại từng mỗi góc nhà và pháo binh liên tục gây ra nhiều tổn thất hơn cho binh lính VNCH. Kể từ ngày 30 tháng 3, Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến hùng mạnh với 15,000 quân đã thiệt mạng hết 1,358 lính và 5,500 lính bị thương. Các cuộc giao tranh cũng đã gây ra một thiệt hại tương tự cho các cố vấn Mỹ của Sư Đoàn. Vào đầu tháng Bảy, đơn vị Cố vấn Thủy Quân Lục Chiến đã phải yêu cầu khẩn cấp chín sĩ quan thay thế những sĩ quan Mỹ tử nạn.
Những lời yêu cầu lặp đi lặp lại của tướng Lân về việc tăng thêm quân đã được đáp ứng vào ngày 8 tháng 9. Ba tiểu đoàn của Liên đoàn 1 Biệt Động Quân đến thay cho Lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến 147 ở phía Bắc thị xã, nhằm giúp Thủy Quân Lục Chiến dồn thêm các tiểu đoàn cho cuộc tấn công. Lúc này tướng Lân đã có trong tay sáu tiểu đoàn, gồm bốn tiểu đoàn ở hướng Nam và hai tiểu đoàn ở hướng Bắc để thực hiện nhiệm vụ. Ông vẽ sơ đồ giáp công đến giữa thành, bố trí Lữ đoàn 147 ở hướng Bắc và Lữ đoàn 258 ở hướng Nam. Tiểu đoàn 6 được ra lệnh tấn công từ hướng Đông Nam.
Để kéo đối phương ra khỏi Quảng Trị, Hạm Đội 7 của Mỹ đã thực hiện một cuộc đổ bộ giả. Lữ đoàn đổ bộ Thủy Quân Lục Chiến số 9 đã thực hiện tất cả kế hoạch này, bao gồm tung sóng vô tuyến giả, trinh sát các bãi đổ bộ và đưa 400 lính Biệt Động Quân VNCH lên các tàu đổ bộ của Hoa Kỳ. Vào ngày 9 tháng 9, các cuộc pháo kích của Hải Quân, các cuộc không kích chiến thuật và một cuộc tấn công bằng bom B-52 đã dội xuống bãi biển phía Đông thị xã Quảng Trị. Khi trận ném bom ngưng lại, quân Bắc Việt xông ra khỏi các hầm boong-ke để xáp chiến với lực lượng đổ bộ. Họ bị kẹt trong làn pháo của Hải Quân và bị tổn thất nặng nề. Thiết giáp lội nước và trực thăng của Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đã vào đến bờ biển nhưng lại quay lưng lại không tham chiến.
Trong khi Lữ đoàn 9 cầm chân đối phương, cuộc tấn công vào cổ thành mở màn. Phía Cộng quân tái bố trí một số pháo binh của họ trước mối nguy từ Hạm đội 7 đã làm giảm hỏa lực trước các lữ đoàn tấn công. Nhưng Thủy Quân Lục Chiến VNCH vẫn phải đối mặt với một trận đánh khốc liệt. Những đống gạch đổ nát do pháo kích đã tạo ra những vị trí phòng thủ tuyệt vời và hệ thống hầm công sự của cộng quân đã chống đỡ được phần nào hỏa lực phía Thủy Quân Lục Chiến.
Đêm 9 tháng 9, Trung tá Đỗ Hữu Tùng, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu đoàn 6 Thần Ưng TQLC cho một mũi thám báo đột nhập thành. Nhóm này báo lại là đã gặp sự kháng cự ít ỏi, vậy là Trung Tá Tùng phát lệnh tấn công ngay tối hôm sau. Rạng sáng đầu ngày 11 tháng 9, một chốt đại đội đã cắm vào được vào bên trong góc Đông Nam của tòa thành. Trung Tá Tùng tung thêm lính TQLC vào. Đồng thời, các Tiểu đoàn 1 và 2 chiếm được phía sông Thạch Hãn, chặn đường hoạt động của phe địch. Cộng quân phản công nhưng Thủy Quân Lục Chiến giữ vững được chiến tích xương máu của mình.
Về phía Bắc, các Tiểu đoàn 3 và 7 đã quét sạch khu vực đóng quân cộng sản. Sáng ngày 15 tháng 9, Tiểu đoàn 3 xông vào thành. Cộng quân bắt đầu một trận pháo kích dữ dội để cắt Tiểu đoàn 3 và Tiểu đoàn 6 ra nhau, nhưng cả hai đơn vị này vẫn giữ được đội hình tác chiến vào xế chiều.
12:45 trưa ngày 16 tháng 9, lá cờ Việt Nam Cộng Hòa phất phới tung bay trên Tây môn cổ thành, xem như chấm dứt 138 ngày lọt vào tay quân cộng sản Bắc Việt.
Tin chiến thắng đi khắp thế giới. Với miền Nam Việt Nam, việc chiếm lại được tỉnh lỵ cuối cùng trong tay địch là một điều hết sức vui mừng. Ngày 20 tháng 9, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu bay ra ủy lạo Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến, chúc mừng bộ tham mưu, các sĩ quan và binh sĩ. Việc thăng cấp và trao huân chương đã được thực hiện cùng khắp.
Thiếu tướng Lục Quân Hoa Kỳ Howard Cooksey, Tham mưu trưởng của Bộ Chỉ huy Viện Trợ Quân Sự Vùng Một còn đề nghị tặng Huân chương Tổng thống Hoa Kỳ, một anh dũng bội tinh cho lính Mỹ hay đồng minh đã anh dũng chiến đấu trên chiến trường, cho toàn bộ chiến sĩ Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến VNCH, dù điều này không có dấu hiệu đã diễn ra.
– John D. Howard
(Bản dịch Đinh Yên Thảo)
Nguồn: historynet.com
Saturday, September 3, 2022
Tuesday, August 16, 2022
NÓI VỀ NGƯỜI THƯỢNG, NGƯỜI VIỆT VÀ ĐÔNG TÂY NAM BẮC NGHE CHƠI…
NGUYỄN GIA VIỆT
Thursday, July 21, 2022
ĐÀ LẠT : CON ĐƯỜNG SẮT ĐỘC NHẤT VÔ NHỊ CHÂU Á NAY CÒN ĐÂU ...
Tuyến đường sắt răng cưa Tháp Chàm - Đà Lạt được xem là con đường huyền thoại của châu Á, nhưng chỉ sau một thời ngắn đã bị mai một, hoang phế.
Con đường huyền thoại:
Được xây dựng từ năm 1902 - 1932, tuyến đường sắt răng cưa Tháp Chàm - Đà Lạt được xem là con đường huyền thoại của châu Á.
Gọi là con đường huyền thoại vì đây là một trong hai tuyến đường sắt răng cưa leo núi của Thế giới: Một của Việt Nam và một của Thụy Sĩ. Nhưng con đường của Việt Nam kỳ vĩ hơn vì nó vừa dài lại có độ độ dốc lớn hơn con đường của Thụy Sĩ.
Người Pháp và Thụy Sĩ cùng với các thợ Việt đã mất gần 30 năm mới hoàn thành được tuyến đường răng cưa độc đáo, một trong hai đường răng cưa ngoạn mục nhất trên thế giới.
Đường sắt “leo núi”
Đường sắt răng cưa (được thiết riêng cho đầu máy hơi nước răng cưa), với thiết kế có răng cưa giữa đường ray là loại đặc chủng dùng để leo núi, giúp kéo đoàn tàu lên những đoạn đồi, dốc độc nhất vô nhị ở Châu Á.
Để đoàn tàu có thể hoạt động, người ta phải đốt lò than với nhiệt độ hơn 300 độ C, tăng nhiệt để đun 12 m3 nước, tạo ra sức kéo lên tới 700 tấn.
Các bánh răng cưa được thiết kế chuyên dụng cho việc leo núi
Bánh răng của đầu máy bám chặt vào răng cưa đường ray để tàu leo lên dốc và xuống dốc
Khi tàu chạy đến gần đoạn răng cưa, lái tàu giảm tốc độ, khởi động giàn bánh răng ở đầu tàu, cho móc vào đường ray răng cưa (nằm giữa 2 thanh ray trơn) rồi khóa hệ thống bánh răng. Bánh răng của đầu máy bám chặt vào răng cưa đường ray để tàu leo lên dốc và xuống dốc. Những bánh răng cưa này có thể tự điều chỉnh chiều cao phù hợp với độ mòn của các bánh xe mặt bằng.
Giấy phút huy hoàng chỉ trong chốc lát
Sau năm 1975, sau khi được khôi phục, tàu đã kéo còi trở lại (5/1975). Nhưng chỉ chạy được chưa tới 30 chuyến thì đoàn tàu chính thức ngưng chạy. Sau đó bị tháo dỡ, đa phần dùng để đại tu cho tuyến đường Bắc - Nam (đường sắt Thống Nhất), nhưng vì đoạn đường sử dụng đầu máy thông thường, không khớp với các bánh răng cưa (được thiết riêng cho đầu máy hơi nước răng cưa) thì bị đem đi … bán phế liệu.
Đoạn đường sử dụng đầu máy thông thường, không khớp với các bánh răng cưa thì sau đó đã bị đem đi … bán phế liệu.
Tuyến đường có đi ngang cầu Dran, Đơn Dương Nhưng chỉ một thời gian sau cũng bị dỡ bỏ, bán phế liệu
Vua Bảo Đại và Toàn Quyền Pháp Rene Robin khánh thành tuyến xe lửa
Tất cả chỉ còn là hoài cổ?
Ngày nay ở Việt Nam đâu còn thấy hình ảnh đoàn tàu ì ạch “thở” phì phò leo núi! Còn đâu ngắm cảnh con tàu nhả làn khói than đá hay gỗ thông băng qua cánh rừng thông trong làn khói phản phất mùi nhựa thông, mùi than đá!
Các đầu kéo hơi nước, toa xe, cơ phận rời và thiết bị mà trọng lượng tổng cộng là 250 tấn rời khỏi Việt Nam.
Có ai còn nhớ tiếng va chạm kim khí răng của bánh răng đầu máy với răng của đường ray mà tưởng tượng cảnh con tàu ghì sát, ôm chặt vào đường sắt để leo lên hay tuột xuống núi vùng mù sương Langbiang Đalat? Có ai còn nhớ tiếng còi “hít”chói tai đặc trưng của tàu chạy bằng hơi nước xưa kia…?
Những thứ đó phải vượt hành trình nửa vòng trái đất để đến xứ Thụy Sĩ mà nghe, mà thấy, những đầu kéo của ta đang hoạt động trên “đất khách, quê người”.
Thực tại
Vào những năm cuối cùng của thế kỉ 20, các kỹ sư người Thụy Sĩ đã sang Việt Nam để tìm kiếm những đầu máy cổ nguyên gốc của họ. Họ mua lại tất cả 7 đầu kéo mà Việt Nam xử dụng tới năm 1967, cùng với 2 bộ sườn xe và một số thiết bị, toa chở hàng ... đem về Thụy Sĩ với chiến dịch mang tên “Back to Switzerland”.
Những đầu máy đã được tập kết về Thụy Sĩ và được tu sửa lại
Và đưa vào sử dụng từ năm 1993
Đầu máy chạy bằng hơi nước còn lại duy nhất của thế giới chuẩn bị vượt đèo Furka, Thụy Sĩ
Còn ở Việt Nam, đầu máy nằm trơ trọi, miễn cưỡng trở thành vật phẩm trưng bày tại ga Đà Lạt
Những đầu máy đó khi được chuyển về Thụy Sĩ thì như được tái sinh một lần nữa. Cụ thể là 3 trong số 7 đầu kéo được đưa vào sử dụng từ năm 1993, các đầu kéo và các thiết bị còn lại được tân trang như mới và được đưa ra trưng bày tại buổi triển lãm “Tuyến đường sắt miền núi Furka” tại Bảo tàng Vận tải ở Lucerne, Thụy Sĩ.
-----------------------------
Nguồn : https://thuthachviet.com/Bai-Viet/da-lat-con-duong-sat-doc-nhat-vo-nhi-chau-a-nay-con-dau...-222