Thursday, December 23, 2021
Monday, November 1, 2021
TỪ TÍN NHIỆM ĐẾN THẢM CẢNH
ĐẠI
SỨ FREDERICK NOLTING LÀ 1 TRONG VÀI NGƯỜI HIẾM HOI PHÍA HOA KỲ CAN ĐẢM
VIẾT VỀ SỰ THẬT VÀ CÓ LÒNG ỦNG HỘ TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM VÀ THẤY ĐƯỢC
TẤM LÒNG CỦA TỔNG THỐNG ĐỐI VỚI ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM.
QUYỂN SÁCH
ÔNG VIẾT SẼ LÀ MỘT BẰNG CHỨNG LỊCH SỬ. TRÍCH BÀI "VÒNG HOA TƯỞNG NHỚ –
CỐ TỔNG THỐNG NGÔ ÐÌNH DIỆM MỘT LÒNG VÌ NƯỚC VÌ DÂN
Ông Đại Sứ Hoa Kỳ Frederick Nolting trong cuốn “From Trust To Tragedy”, đã viết về Tổng Thống Ngô Đình Diệm như sau:
Ông ta vô cùng cương quyết trong vấn đề này và ông ta cảm thấy rằng nếu chính phủ Nam VN trở nên lệ thuộc vào Hoa Kỳ thì như vậy chứng tỏ luận cứ của Việt cộng là đúng. Việt cộng thường nói rằng: “Nếu các anh cúi đầu thần phục Hoa Kỳ thì các anh sẽ thấy các anh đúng chỉ là thuộc địa của Mỹ cũng như 75 năm về trước VN đã từng là thuộc địa của Pháp”. Về điểm tế nhị này tôi đã có thể trấn an ông ta, vì toàn bộ ý niệm của những khuyến cáo cho toán đặc nhiệm cũng như những huấn thị cho tôi do TT Kennedy ban hành, là phải giúp Nam VN tự bảo vệ nền độc lập tự Do của họ cho chính họ”
Friday, October 29, 2021
Wednesday, October 13, 2021
Wednesday, September 29, 2021
TRỰC THĂNG OH-6 VÀ CÂU CHUYỆN THÁM THÍNH ĐỊCH QUÂN
September 9 , 2021
Sau khi Chính phủ Mỹ rút hết quân ra khỏi Kabul, Afghanistan, tờ Atlantic đã cho đăng tải bài viết của một cựu phi công Mỹ dưới cái tên Stalker, nói về công việc bí mật của ông ở Afghanistan mà ông gọi là “những chuyến dạo chơi chết chóc”.
Đó là nhiệm vụ không thám vô tuyến điện để phát hiện các ổ nhóm hay chuẩn bị tấn công của Taliban nhằm vào lính Mỹ và dân thường Afghanistan hợp tác với người Mỹ.
Qua những tình tiết trong bài, có thể đoán Stalker là người Afghanistan hoặc là người Mỹ nhưng rất am hiểu về quốc gia này.1. Tôi (Stalker) bắt đầu nhận nhiệm vụ ở Afghanistan vào tháng 6-2011 sau 6 tuần huấn luyện tại một căn cứ bí mật ở sa mạc bang Nevada, Mỹ. Công việc của tôi là bay trên chiếc trực thăng OH-6 Loach mà cánh phi công vẫn gọi đùa là “quả trứng bay” vì hình dạng của nó nhìn y như một quả trứng . Đây là loại trực thăng dành cho những nhiệm vụ đặc biệt nhưng chiếc OH-6 của tôi còn “đặc biệt hơn cả đặc biệt”.
Để giảm tiếng ồn, kỹ sư của Hãng McDonnell Douglas - là nơi chế tạo ra chiếc OH-6 đã thay đổi kết cấu ống xả. Điều này làm cho nó chậm đi, thay vì vận tốc tối đa 240km/giờ thì nay chỉ còn 215km nhưng bù lại, khi bay ở độ cao từ 1km trở lên, dưới đất hầu như không nghe thấy tiếng nổ động cơ.
Ở khoang hành khách, toàn bộ đều được phủ kín bằng vải cách âm, ngay cả hai tấm kính ở hai bên cửa cũng được bịt bằng hai tấm thép. Ghế ngồi chỉ còn lại 1 chiếc để nhường chỗ cho bộ thiết bị kiểm thính, có thể nghe được tất cả mọi cuộc điện thoại vô tuyến ở dưới đất - kể cả điện thoại vệ tinh trong bán kính 1,5km.
Tuy nhiên, người điều khiển có thể thu hẹp bán kính này xuống còn 100m nhằm xác định chính xác tọa độ nơi phát ra cuộc điện đàm.
Ngay phía dưới thiết bị kiểm thính là một khối thuốc nổ TNT nặng 1,5kg. Trong trường hợp bị bắn rơi, tôi (Stalker) hoặc 1 trong 2 phi công chỉ cần gạt một cái nút màu đỏ từ vị trí OFF (tắt) sang vị trí ON (mở) thì chỉ 10 phút, nó sẽ nổ tung, xóa tan mọi thứ. 10 phút ấy đủ để phi hành đoàn thoát ra ngoài nếu còn sống!
Nhiệm vụ của tôi theo lý thuyết là “cảnh báo mọi mối đe dọa từ dưới đất cho các lực lượng đồng minh”. Nếu cần, chúng tôi cũng có thể tấn công bởi chiếc OH-6 được trang bị 2 ống phóng hỏa tiển ở hai bên hông, nằm cạnh khối cảm ứng kiểm thính hình chữ nhật, mỗi ống 8 quả.
Thú thật là tôi hơi căng thẳng khi nghe cấp chỉ huy nói rằng tôi sẽ “thấy những điều khủng khiếp”; nhưng về sau, khi đã kiểm thính hàng nghìn cuộc điện đàm của những kẻ đang cố giết những đồng đội của tôi, tôi cảm thấy điều đó trở nên bình thường bởi lẽ ngay trong phi vụ đầu tiên, tôi đã đối diện với nó.
Đó là một buổi sáng tháng 11 ở miền bắc Afghanistan, nơi có độ cao trung bình 2.300m so với mực nước biển. Bầu trời trong xanh khi chiếc OH-6 của chúng tôi bay dọc theo con đường đất uốn lượn qua những dãy núi dẫn đến căn cứ tiền đồn Lima do một đại đội thủy quân lục chiến Mỹ trấn đóng thì trong tai nghe vang lên một giọng đàn ông, tạm gọi là A, nói bằng tiếng Pasto mà tôi ghi lại nguyên văn.
A: “Hãy đặt IED (Improvised Explosive Device - thiết bị nổ tự chế) ở ngay khúc cua đó. Bọn chúng (lính Mỹ) sẽ không nhìn thấy đâu”.
Một giọng khác - tôi gọi là B - trả lời: “Có thể đợi một chút nữa để tôi quan sát thêm”. Nhưng A nói như gắt: “Không, không! Bọn chúng có thể đến sớm hơn. Ta cần giết càng nhiều càng tốt”.
B: “Theo tôi nên đặt cách khúc cua 100m vì khi đến nơi, bọn chúng sẽ thận trọng dò xét. Lúc qua khỏi khúc cua mà không thấy gì, chúng sẽ chủ quan…”.
A: “Đúng! Làm ngay đi”.
Tôi báo tọa độ của cuộc điện đàm cho phi công qua máy truyền tin nội bộ. Như thường lệ, phi công sẽ gọi về sở chỉ huy để nơi đây có những hành động thích hợp nhưng trong trường hợp này, anh ta quyết định tấn công mà mục tiêu là bọn đang định đặt IED.
Chiếc OH-6 lượn vòng rồi chúi xuống, tôi thấy trực thăng rung lên khi 2 quả hỏa tiển thoát ra khỏi ống phóng rồi gần như ngay lập tức, tôi cảm nhận 2 tiếng nổ đi liền nhau rồi tiếp theo trong tai nghe là sự im lặng lạnh lùng.
Gần 30 phút sau, máy truyền tin trên một chiếc xe bọc thép vũ trang Humvee của đội tuần tra tiền đồn Lima cho biết 3 gã Taliban chết ngay tại chỗ. Tôi cho họ thêm tọa độ của bọn chỉ huy vụ đặt IED mặc dù tôi nghĩ chúng đã cao chạy xa bay nhưng lúc hạ cánh xuống căn cứ, nghe nói đội tuần tra bắn chết thêm 1 tên trong nhóm này.
2. Vào thời điểm năm 2011, khi tôi bắt đầu tham gia nhiệm vụ kiểm thính những cuộc điện đàm của Taliban, đơn vị của tôi chỉ có 20 người đến từ nhiều nơi trên thế giới làm công việc như tôi. Ngoại trừ vài người là dân bản xứ, còn thì tất cả đều phải học 2 ngôn ngữ chính ở Afghanistan là tiếng Dari và tiếng Pasto.
Những chiếc OH-6 của chúng tôi và khoảng 10 loại máy bay khác được đặt dưới sự điều hành trực tiếp của Bộ Chỉ huy hoạt động đặc biệt thuộc Lực lượng không quân AFSOC.
Tuy khác nhau về chủng loại nhưng tất cả các máy bay AFSOC đều được trang bị những vũ khí có khả năng hủy diệt. Nó có thể bắn tan tành một chiếc xe hơi, làm nổ tung một tòa nhà, khoan thủng hầm ngầm hoặc những công sự kiên cố.
Vài ngày trước sinh nhật lần thứ 22 của mình, tôi đã thấy phi công trên chiếc OH-6 của chúng tôi bắn một quả hỏa tiển nhiệt áp vào một nhóm Taliban đang tập trung trong một hẻm núi. 20 người trong số họ tan vào cát bụi.
Có lần trong một phi vụ kiểm thính, tôi thấy kẻ ở dưới đất lặp đi lặp lại những từ vô nghĩa: “Kalima! Kaliiiiiiima. Kalimaaaaaaa. Kalima, Kalima…” nhưng tôi không hiểu gã đó nói gì bởi lẽ ngôn ngữ Pasto và Dari có nhiều nghĩa kép. Lần ấy tôi không báo cho phi công bắn anh ta với ý định sẽ tìm hiểu cặn kẽ về từ này.
Đến khi nghe giải thích của một đồng nghiệp người Pasto, tôi mới hiểu kẻ đã kêu lên từng tràng “Kalima” là muốn các đồng đội của anh ta giải thoát cho anh ta khỏi nỗi thống khổ. Tôi đoán chắc anh ta đã chết vì những lần sau, khi bay qua tọa độ ấy, tôi không bao giờ còn nghe thấy giọng nói của anh ta nữa.
Một lần khác, qua hệ thống kiểm thính, tôi phát hiện một nhóm Taliban đang ở trong một hang núi. Sau khi tôi báo cáo và khi không tìm thấy miệng hang vì Taliban ngụy trang quá khéo léo, phi công OH-6 quyết định gọi chi viện vì loại hỏa tiển trang bị trên OH-6 không thể khoan thủng hang đá này.
Khi 2 trực thăng chở quân Chinook CH-47 xuất hiện, tôi nghe một gã Taliban gào lên trong máy truyền tin: “Abdullah, bắn đi”. Chỉ trong tích tắc, từ hẻm núi phía bên trái tôi, 2 súng phòng không 12,8mm khạc ra từng luồng lửa dài. Thì ra ngoài bọn ở trong hang, vẫn có một nhóm khác gần đó làm nhiệm vụ cảnh giới. Một chiếc Chinook CH-47 trúng đạn vào thân nên vội vã bốc lên còn chiếc kia cố bay vòng qua hẻm núi để tránh đạn.
Trong tai nghe, tôi thấy gã Taliban hét lớn: “Bắn đi, bắn nữa đi. Các anh em, chúng ta đang chiến thắng. Bọn Mỹ sẽ phải bỏ chạy. Đây là ngày vinh quang của chúng ta”. Tôi đã thắc mắc tại sao AFSOC không gửi loại trực thăng tấn công King Cobra mà lại gửi những chiếc Chinook CH-47 nặng nề này?
Có lẽ họ nghĩ rằng chỉ cần đổ hai trung đội xuống, vây chặt cửa hang rồi tiêu diệt bọn Taliban là xong? Khi thấy chiếc Chinook trúng đạn, tôi nghe gã Taliban gào lên: “Waaaaallahu akbar - Chúng tiêu rồi”. Lúc hạ cánh xuống căn cứ, một sĩ quan cho biết 6 lính Mỹ trên chiếc Chinook CH-47 chết, vài người nữa bị thương.
Thời gian trôi qua, tôi học thêm được nhiều từ mã hóa của Taliban. Mùa xuân năm 2014, tôi thực hiện nhiệm vụ kiểm thính để hỗ trợ một đội Lực lượng đặc biệt Mỹ làm công tác dân vận tại một ngôi làng ở miền bắc Afghanistan.
Chiếc OH-6 bay theo vòng tròn trong nhiều giờ, còn tôi cố gắng tìm kiếm những tín hiệu vô tuyến trên mặt đất. Và khi đội Lực lượng đặc biệt kết thúc cuộc bàn bạc với hội đồng làng về kế hoạch xây dựng một giếng nước, họ quay ra những chiếc xe chở quân thì lúc ấy Taliban mới mở máy truyền tin ra lệnh tấn công. Trong tai nghe, vang lên giọng nói của một gã dường như là chỉ huy: “Chúng nó đã ra đến con mương phía đông. Tiến lên tiêu diệt chúng!”.
Giây lát, các loại súng đồng loạt nổ. Vẫn trong tai nghe, gã Taliban ra lệnh: “Bắn vào chiếc máy bay kia (OH-6 của chúng tôi) chứ không thì nó sẽ gọi quân tiếp viện”. Tôi báo cho phi công biết để anh ấy tìm cách né tránh và bắn trả. Lúc vừa bắn hết 8 quả hỏa tiển thì cũng là lúc hai chiếc phản lực cường kích A-10 xuất hiện. Vẫn trong tai nghe, một giọng gào lên: “Tụi mày ở đâu. Tao bị thương rồi”.
Cuộc tấn công thất bại. Trong những lần như vậy, tôi chẳng hiểu Taliban có biết là tôi ở trên cao, theo dõi mọi lời nói của họ trên các tần số vô tuyến mà họ đang sử dụng hay không?
Họ có biết rằng tôi nghe thấy họ khoe khoang về việc họ đã giết được bao nhiêu người Mỹ, hoặc họ sẽ đặt IED ở đâu và khi nào, hoặc cuộc tấn công vào một doanh trại lính Mỹ sẽ bắt đầu lúc mấy giờ, thậm chí là cả những vụ đánh bom tự sát được tiến hành ra sao.
Nếu họ biết, tôi nghĩ họ sẽ không chấm dứt mà họ sẽ có cách thay đổi phương pháp liên lạc và chúng tôi lại tiếp tục chạy theo họ.
3. Kết thúc 2 hợp đồng với AFSOC sau 10 năm ở Afghanistan, tôi đã bay hơn 600 phi vụ với tổng số 2.748 giờ. Có khoảng 150 chuyến bay trong số đó chúng tôi phải chiến đấu, còn lại là chỉ nghe và nghe.
Bên cạnh những bàn bạc của Taliban về phục kích, đặt mìn, tấn công, ám sát, thu thuế nông dân trồng cây thuốc phiện, còn thì tôi cũng phải nghe những điều tương tự như những người hàng xóm nói chuyện với nhau về lương thực, gia súc, ăn uống, những lời phàn nàn về thời tiết, đường sá. Thỉnh thoảng vài kẻ có vẻ là chỉ huy cao cấp của Taliban còn bàn bạc về ngày lính Mỹ rút đi và kế hoạch của họ trong việc lấy lại đất nước.
Khi nghe họ nói, tâm trạng tôi mơ hồ lẫn lộn. Họ chỉ có súng tiểu liên AK và súng chống tăng RPG đã 30 năm tuổi trong khi chúng tôi có những chiếc máy bay trị giá 100 triệu USD nhưng họ vẫn tiếp tục chiến đấu. Lúc chúng tôi rời khỏi một ngôi làng sau khi tin rằng đã bình định được, họ quay lại.
Ngay cả khi họ chết, họ vẫn tin rằng những mục tiêu ấy sẽ đạt được bởi
những người anh em của họ vì “Afghanistan là của chúng tôi”. Tuy nhiên
vấn đề là cái “của chúng tôi” ấy sẽ được họ hành xử như thế nào, hay lại
là những bi kịch thảm khốc thời họ cầm quyền
ở Afghanistan cách đây hơn 20 năm về trước! Bất kể chúng tôi đã làm gì,
chúng tôi đã đi đâu hay chúng tôi đã giết bao nhiêu người trong số họ,
họ vẫn quay trở lại. Những cuộc kiểm thính cho tôi biết chính xác cách họ
sẽ hoàn thành những mục tiêu này và không
gì có thể ngăn cản họ.
Phi vụ cuối cùng của tôi trước khi rời khỏi Afghanistan vẫn là một chuyến kiểm thính. Họ nói với nhau kết quả đàm phán với chính quyền Tổng thống Trump về việc quân Mỹ rút khỏi Afghanistan và lệnh của chỉ huy tối cao “không bắn vào người Mỹ nữa”.
Lúc nghe tôi báo lại, phi công OH-6 bảo tôi rằng hãy để cho anh ta “hốt cú hụi chót” vì có lẽ đó là những chỉ huy cao cấp của Taliban. Nhưng tôi lắc đầu. Tôi đã nhận được lệnh không tấn công Taliban nếu họ không ra tay trước.
Tôi lên máy bay rời khỏi Kabul chỉ 6 ngày trước khi Taliban kiểm soát hầu như toàn bộ đất nước này. Lúc người phi công chỉ cho tôi chỗ treo chiếc tai nghe để giúp tôi giảm tiếng ồn của động cơ máy bay C-130, tôi lắc đầu cảm ơn bởi lẽ tôi đã đeo nó suốt 10 năm rồi. Bây giờ tôi không còn muốn thấy nó một chút nào nữa…
TRỰC THĂNG OH-6 VÀ CHIẾN TRƯỜNG VIỆT NAM
Hãng sản xuất: Hughes Helicopters và McDonnell Douglas.
Loại: trực thăng tấn công và trinh sát hạng nhẹ.
Động cơ: một động cơ Allison T63-A-5a.
Hỏa lực chính: hai súng máy 7,62 mm và 2 giàn hỏa tiễn 70 mm.
Khả năng chuyên chở: bốn lính
Vận tốc bay tối đa: 137 dặm một giờ.
Cayuse có thiết kế hình giọt nước nhỏ gọn
OH-6 Cayuse là loại trực thăng ưu tiên cho các nhiệm vụ đòi hỏi sự cơ động. Nó có thể trang bị nhiều loại vũ khí khác nhau, nhưng không thể chở cùng một lúc.
OH-6 có thể thực hiện linh hoạt do có lực cản không khí thấp, có thể bay luồn rất thấp xuống khe núi, đứng tại chỗ rồi đột ngột bốc lên cao.
Trực thăng trinh sát OH-6 Cayuse hoạt động tại Việt Nam trước 1973 |
Trên chiến trường Việt Nam, OH-6 thường được sử dụng cho nhiệm vụ hộ tống các đơn vị mặt đất, trong đó nổi bật nhất là trinh sát chiến trường, chỉ điểm mục tiêu cho trực thăng UH-1 và AH-1 Cobra.
Việc bắn hạ một chiếc trực thăng nhỏ nhẹ và có độ linh hoạt cao như chiếc OH-6 là rất khó khăn, nhưng quan trọng hơn phía sau nó là số lượng đông đảo AH-1 và UH-1 Gunship.
Mặc dù nhiệm vụ chính là trinh sát nhưng khi cần thiết thì OH-6 cũng có khả năng yểm trợ hỏa lực rất hữu hiệu.
Trực thăng OH-6 và UH-1 của Mỹ trên chiến trường Việt Nam |
Friday, September 17, 2021
BẦU CỬ NĂM 1967 Ở MIỀN NAM : DÂN CHỦ NHẤT TRONG LỊCH SỬ VIỆT NAM
Võ Văn Quản
Các cuộc bầu cử, trưng cầu dân ý sau thời kỳ Ông Ngô Đình Diệm nắm quyền không thoát khỏi cái nhìn cú diều của nhiều nhà sử học Việt Nam lẫn một số nhà báo phương Tây cánh tả vốn đã có sẵn định kiến với nhà nước Việt Nam Cộng hòa. Song thiện cảm của giới sử gia và các nghiên cứu khoa học chính trị về tính minh bạch và dân chủ của bầu cử tại miền Nam Việt Nam trong thời kỳ Đệ Nhị và Đệ Tam Cộng hòa đều tăng.
Như cuộc tổng tuyển cử ngày 3/9/1967 của Việt Nam Cộng hòa, New York Times – một trong những tờ báo cánh tả chống chiến tranh Việt Nam mạnh mẽ nhất cũng đã phải so sánh rằng, so với kiểu bầu cử một đảng “làm cho có” (pro forma affairs) ở Bắc Việt, và những cuộc bầu cử 97, 98% của Ông Diệm, giai đoạn mới của Việt Nam Cộng hòa và nền dân chủ của nó có vẻ đáng được đánh giá cao hơn rất nhiều.
Điều mà rất nhiều người quên là, chính trị miền Nam Việt Nam rối ren hơn hẳn miền Bắc do đặc tính của một vùng đất mới với nền chính trị vẫn còn phải qua một thời gian dài thử sai; giống như sự khác biệt giữa miền Viễn Tây hoang dã và vùng phía Đông công nghiệp hóa của Hoa Kỳ vậy. Bản thân chính quyền miền Nam Việt Nam lại phải đối mặt với sự giám sát không chỉ của báo chí tự do ở đây, mà còn là báo chí Mỹ, người dân Mỹ và các nhà phản chiến người Mỹ; điều mà chính quyền Bắc Việt không hề biết và không cần phải biết. Không chỉ vậy, họ cũng không sở hữu được những công cụ đàn áp tuyệt đối mà Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có.
Với một lịch sử lộn xộn của đảo chính quân sự, tướng tá lạm quyền, các cuộc nổi dậy ở địa phương và các cuộc chiến giữa những phe phái tôn giáo, cuộc tổng tuyển cử năm 1967 phải nói là một thành công lớn, khi được tiến hành đúng trình tự, mang lại tính chính danh cho chính quyền mới, tôn trọng đa nguyên (ở một mức độ nhất định) cũng như ổn định nội tại xã hội.
Không chỉ đề xuất về việc xây dựng một bản Hiến pháp mới với một cơ chế lưỡng viện quyền lực hơn, có khả năng đối trọng với vai trò của tổng thống nhiều hơn; cuộc bầu cử còn giới thiệu những yếu tố dân chủ đáng quý ngay trong giai đoạn Chiến tranh Việt Nam đang leo thang: từ các cuộc tranh luận toàn quốc giữa các ứng cử viên, cho đến việc các ứng cử viên được cấp thời lượng phát sóng trên truyền hình khiến cho cuộc đua vào các chức danh dân cử trở nên công bằng và sòng phẳng hơn bao giờ hết.
Các ứng viên thoải mái phê phán chính phủ quân quản ở nhiều phương diện, trong khi bản thân họ cũng đại diện cho các nhóm chính trị đa dạng tại miền Nam Việt Nam: từ các chính trị gia cấp tiến chủ hòa ở đồng bằng sông Cửu Long cho đến những nhóm quân nhân Công giáo tị nạn với lời kêu gọi đưa quân “giải phóng” miền Bắc. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử hiện đại của cả hai miền, không khí thảo luận chính trị lại đa nguyên, đa dạng và được tôn trọng như vậy.
Báo cáo mật của Cục Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) cho chính phủ Hoa Kỳ ngay sau cuộc tổng tuyển cử, vốn có rất ít lý do để nói dối về tình hình tại miền Nam Việt Nam, cũng phải thừa nhận rằng cuộc bầu cử diễn ra rất công bằng và đúng tiêu chuẩn. Trong số 11 ứng cử viên cho chức danh tổng thống, chỉ có một người đại diện quân lực Việt Nam Cộng hòa, và 10 người còn lại có nền tảng, thân thế chính trị đa dạng. Họ cũng được tạo điều kiện tiếp cận với công chúng một cách sòng phẳng. CIA ghi nhận chỉ có khoản 11 khiếu nại đơn lẻ về cuộc bầu cử, và hầu hết đều không đủ cơ sở để chứng minh quá trình bầu cử bị thao túng hay chỉnh sửa kết quả.
Đặc biệt thú vị hơn, luật sư Trương Đình Dzu, dựa vào các kênh tiếp cận công chúng bình đẳng, nhanh chóng đạt được tỉ lệ ủng hộ đáng nể nhờ vào tài ăn nói và xu thế hòa bình của mình. Ông kết thúc cuộc bầu cử ở vị trí thứ hai – 17% – đánh bật mọi kỳ vọng trước đó của giới quân đội VNCH. Và một tương lai dân sự, công bằng, dân chủ của chính quyền miền Nam Việt Nam mở rộng hơn bao giờ hết.
Nhưng rồi năm 1968 với trận Tết Mậu Thân đến. Với những sai lầm chiến thuật của cả quân đội Hoa Kỳ lẫn quân lực Việt Nam Cộng hòa, dù bên nhận phải tổn thất kinh hoàng nhất là Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam (Việt Cộng) và quân đội Bắc Việt, chiến dịch đã khiến cho các kỳ vọng dân sự hóa miền Nam Việt Nam đổ sông đổ bể, và phong trào phản chiến tại Hoa Kỳ lại bị đẩy lên cao hơn bao giờ hết.
Có nhiều lý do để cho rằng đây là chủ đích của phe Bắc Việt, và đây cũng không phải là lần duy nhất họ cố gắng phá hoại các nỗ lực dân sự hóa của chính quyền miền Nam Việt Nam (như vụ ám sát Giáo sư Nguyễn Văn Bông chẳng hạn). Chiến tranh Việt Nam càng đẫm máu, miền Nam Việt Nam càng rối loạn, có vẻ càng có lợi cho công cuộc “thống nhất đất nước” mà các nhà Marxist chủ nghĩa ở Hà Nội vẽ ra.
Bầu cử ở miền Nam Việt Nam, đáng trân trọng, cũng vì lẽ ấy.
Một số hình ảnh về cuộc bầu cử năm 1967 của tạp chí LIFE.
Nguồn: https://www.luatkhoa.org/2020/04/bau-cu-nam-1967-o-mien-nam-dan-chu-nhat-trong-lich-su-viet-nam/
Saturday, September 11, 2021
TƯỞNG NIỆM NGÀY 11 THÁNG 9
Quan Duong |
𝐻𝑖̀𝑛ℎ 1 : Hộ tống hạm LPD 21 |
Đây là chiếc 𝗵𝗼̣̂ 𝘁𝗼̂́𝗻𝗴 𝗵𝗮̣𝗺 𝗟𝗣𝗗 𝟮𝟭 còn có tên là 𝐍𝐞𝐰 𝐘𝐨𝐫𝐤 𝐍𝐞𝐯𝐞𝐫 𝐅𝐨𝐫𝐆𝐞𝐭. Nó chỉ là một trong rất nhiều chiến hạm dùng để phục vụ Hải quân Hoa Kỳ . Chiếc hộ tống hạm này sẽ bình thường như những chiếc khác nếu nó không được làm từ sắt của hai toà nhà The World Trade Center New York bị khủng bố đánh sập vào ngày 11 tháng 9 năm 2001.
Năm 2004 khi mới đang còn bắt đầu khởi công thi cơn bão Katrina đã tấn công chiếc tàu và mưa gió bão bùng đã bao phủ trùm lên. Nghe như đâu đây trong mưa gió tiếng kêu gào của 2996 oan hồn trong đó có 343 lính cứu hỏa và 72 sĩ quan cảnh sát mà giờ xác thân của họ quyện vào trong từng miếng sắt
Khi bão Katrina vẫn còn đang tơi tả thì chúng tôi từ Houston quay trở lại New Orlenas và tiếp tục công việc của mình . Ngồi trên tàu nhìn cảnh vật chung quanh đìu hiu im ắng vì người dân chưa quay về, tôi có cảm tưởng trong từng mét sắt của chiếc tàu là những oan hồn lạnh lẽo mà mọi người trong cơn hốt hoảng của bão Katrina vô tình quên đi . Tôi liên tưởng đến những người dân tôi bị lính miền Bắc tràn vào giết chết oan uổng trong tết Mậu Thân trong cuộc chiến tranh VN mà xác xương của họ cũng từng bị chôn vùi và quên lãng . Tôi cũng liên tưởng đến những vụ cộng sản âm thầm thảm sát những người thua trận mà không qua xét xử ngay trong những ngày đầu họ chiếm được miền Nam . Tất cả những cái chết được che giấu tinh vi núp sau những mỹ từ đẹp đẻ . Những oan hồn chết bởi sự cuồng vọng của cái ác đều bi thương như nhau
Hình 2 : thủ tục hạ thuỷ tại New Oreans Louisiana |
Bốn năm sau chiến hạm được hoàn tất với kinh phí 1,400 triệu đô la . Trước khi giao qua cho Hải quân Mỹ tôi theo chiến hạm này bốn ngày đi sea trial ngoài vịnh Mexico . Nhìn những chiếc trực thăng bay lên đáp xuống, nhìn những giàn hoả tiển phòng không vô cùng hiện đại, nhìn những chiếc tàu đổ bộ phóng ra từ đáy trên đó là những binh sĩ thiện chiến tôi ước gì một ngày nào đó khi quân Trung Quốc ngang ngược làm trùm trên biển đông đụng phải chiếc này thì hay biết mấy . Lúc đó tụi Tàu mới biết thế nào là lễ độ bỏ bớt thói ăn hiếp bắt nạt . Chắc là tôi sẽ vô cùng hả dạ vì mình đã từng là thành viên trong đội ngũ công nhân hoàn thành chiếc chiến hạm này .
Chiếc chiến hạm LPD 21 được hãng bàn giao cho Hải Quân Mỹ sau đó được đem về New York để dân chúng có thể tham quan đúng ngày 11/09/2009 là ngày tưởng niệm 8 năm hai toà tháp đôi bị khủng bố đánh sập
Vào ngày 15/06/2014 một chiếc trực thăng chở một đội đặc nhiệm xuất phát từ chiếc hộ tống hạm này bí mật bay vô đất liền Libya bắt sống được tên Ahmed Abu Khattala . Hắn là tên cầm đầu nhóm khủng bố tấn công vào toà đại sứ Mỹ tại Libya vào ngày 11/09/2012 giết chết Đại sứ Christopher Stevens. Sau khi bắt được hắn đội đặc nhiệm đem về nhốt trên tàu sau dó đưa căn cứ Mỹ tại Quatar trước khi giải giao hắn về Mỹ
Chiến hạm 𝐍𝐞𝐰 𝐘𝐨𝐫𝐤 𝐍𝐞𝐯𝐞𝐫 𝐅𝐨𝐫𝐆𝐞𝐭 được góp từ thịt xương của ngươi đã chết và mồ hôi của những người còn sống để tưởng niệm về hai toà tháp đôi bị khủng bố đánh sập
Hình 3 : khi tôi còn làm công nhân trên chiếc hạm
|
Trước tình trạng tụi Trung Quốc đang bị Mỹ phản đối vụ ỷ lớn ăn hiếp các nước nhỏ chung quanh biển Đông tôi cũng mong ước sao buổi sáng nào đó thức dậy thấy chiếc này hiện diện trong vùng biển Việt Nam để dạy cho tụi Trung Quốc một bài học chơi sao cho đúng luật khi ra chốn giang hồ
Quan Duong
sept 2019
Tuesday, August 31, 2021
VIỆT NAM CỘNG HÒA VÀ NHỮNG NGƯỜI VIỆT NAM ĐẦU TIÊN DỰ THẾ VẬN HỘI OLYMPIC
NGUYỄN HẠNH
Những vận động viên mà bạn có thể chưa từng nghe tên.
on 23/07/2021
Phái đoàn miền Nam Việt Nam diễn hành tại Lễ khai mạc Thế Vận Hội Tokyo 1964. Ảnh: Olympics.Tối nay, 18 vận động viên đại diện cho Việt Nam sẽ ra mắt khán giả thế giới tại Thế Vận Hội Tokyo 2020. Bạn có biết vào 57 năm trước, cũng tại Nhật Bản, 16 người Việt Nam đã tranh tài tại Thế Vận Hội Mùa hè Tokyo 1964? Tất cả họ đến từ miền Nam Việt Nam.
Hai giờ chiều ngày 10/10/1964, tại sân vận động Olympic, Tokyo, Quốc kỳ Việt Nam Cộng Hòa nền vàng ba sọc đỏ dẫn bước 16 vận động viên Việt Nam đóng bộ com-lê đen bước đi trước tiếng reo hò của hàng triệu khán giả. [1]
Khi đất nước vẫn ngập trong nội chiến với miền Bắc, 16 người đó thuộc một trong những thế hệ người Việt Nam đầu tiên thi đấu thể thao ở đẳng cấp quốc tế với điều kiện tập luyện rất thiếu thốn.
Bất chấp hoàn cảnh khắc nghiệt, người miền Nam đã tranh tài tại giải thể thao danh giá nhất hành tinh từ năm 1952 tại Thế Vận Hội Helsinki, Phần Lan liên tục cho đến năm 1972 tại Thế Vận Hội Munich tại Tây Đức.
Trong suốt thời gian này, miền Bắc đã không tham gia Thế Vận Hội, mãi cho đến năm 1980. [2]
Những vận động viên miền Nam đã làm điều đó như thế nào? Câu chuyện của họ là một phần lịch sử không thể chối cãi của nền thể thao Việt Nam. Sau năm 1975, lịch sử này đã bị chính trị làm cho mờ nhạt. Đây là lúc làm sống lại câu chuyện về những con người đầu tiên đã đưa Việt Nam ra thế giới bằng ý chí và nghị lực thể thao.
Miền Nam từng tranh tài ở thế vận hội như thế nào?
Tranh tài ở thế vận hội khi đó không đơn giản là đất nước ghi danh để bạn tham gia. Bạn phải là nhà vô địch hoặc có thứ hạng cao trong khu vực. Các vận động viên Việt Nam Cộng Hòa, hay thời đó người ta gọi họ là các lực sĩ, cũng không phải ngoại lệ.
Ủy ban Olympic Quốc Gia Việt Nam được thành lập vào ngày 25/11/1951 và được Ủy Ban Olympic Quốc Tế công nhận. Một năm sau, Việt Nam bắt đầu thi đấu ở thế vận hội. [3]
Năm 1952, miền Nam tham gia thế vận hội thể thao đầu tiên của mình tại Helsinki, Phần Lan với 8 vận động viên ở 5 bộ môn: điền kinh, boxing, đấu kiếm, đua xe đạp đường trường và bơi lội. [4]
Cua-rơ Bùi Văn Hoàng (áo trắng) và cua-rơ Trương Kim Hùng trong một buổi tập tại Đà Lạt vào năm 1968. Cả hai cùng tham gia Thế vận hội Thành phố Mexico 1968. Ảnh: Bettmann/CORBIS.Năm 1956, Việt Nam thi đấu bộ môn đua xe đạp lòng chảo với hai cua-rơ Lê Văn Phước (27 tuổi) và Nguyễn Văn Nhiêu (26 tuổi). [5]
Thế Vận Hội Tokyo 1964 đánh dấu Việt Nam lần đầu tranh tài tại môn Judo với ba võ sĩ Nguyễn Văn Bình (25 tuổi), Thuc Thuan Thai (39 tuổi), và Lê Bá Thành (30 tuổi). [6] Đây cũng là lần miền Nam có số vận động viên tham gia thế vận hội đông nhất với 16 người.
Năm 1968, các xạ thủ Việt Nam lần đầu tranh tài môn bắn súng tại Thế vận hội Mexico. [7] Trung tá quân đội Vũ Văn Danh (42 tuổi) thi đấu nội dung súng ngắn bắn nhanh 25 mét, Trung tá cảnh sát Hồ Minh Thu (39 tuổi) và Dương Văn Dan (31 tuổi) thi đấu ở nội dung súng ngắn 50 mét.
Thế Vận Hội Mexico cũng đánh dấu lần đầu tiên phụ nữ miền Nam bắt đầu thi đấu ở Olympic.
Cô Hoàng Thị Hương là nữ xạ thủ Việt Nam đầu tiên thi đấu ở thế vận hội. Cô học bắn súng khá muộn từ người chồng quân nhân của mình. Cô thi đấu tại thế vận hội sau cùng mà miền Nam tham gia, vào năm 1972 tại Tây Đức. Người ta gọi cô là Annie Oakley của miền Nam Việt Nam vì tài năng bắn súng làm kinh ngạc các quý ông (Annie Oakley là xạ thủ nổi tiếng tại Mỹ vào cuối thế kỷ 19).
Xạ thủ Hoàng Thị Hương: Phụ nữ cũng bắn súng giỏi
Vào tháng 8/1972, xạ thủ Hoàng Thị Hương còn cách ngày thi đấu tại Tây Đức chưa đầy hai tháng. Cô dành bốn tiếng mỗi ngày tập luyện tại trường bắn.
Đó là thời điểm hãng tin AP thực hiện một bài viết về cô. Nên có nhiều phụ nữ tham gia môn bắn súng hơn nữa, cô Hương nêu ý kiến trong bài báo, “vì đây là bộ môn mà phụ nữ có thể tranh tài ngang hàng (về các nội dung thi đấu) với cánh đàn ông”. [8]
Tại trường bắn, người ta thấy cô tập luyện với khẩu súng lục do chính tay cô gọt dũa báng súng sao cho thật vừa vặn với lòng bàn tay. Cô mang theo các con của mình khi tập luyện. Chính những đứa con, chứ không phải thế vận hội, mới là lý do ban đầu đưa cô đến với môn bắn súng.
Xạ thủ Hoàng Thị Hương có sáu đứa con. Cô học bắn súng vào năm 1965 từ người chồng quân nhân cũng là xạ thủ thế vận hội – Trung tá quân đội Vũ Văn Danh – khi gia đình sống tại một đồn lính trong vùng chiến sự tại Huế. Trong bối cảnh như vậy, Trung tá Danh đã dạy vợ bắn súng để đề phòng quân Việt Cộng.
Kỹ năng bắn súng của cô lần đầu hữu dụng vào năm 1968 trong cuộc tấn công Tết Mậu Thân. Cô bảo vệ sáu đứa con của mình với khẩu súng đã lên sẵn đạn.
Năm 1969, cô tham gia một cuộc thi bắn súng với 45 nam quân nhân cốt để giải khuây, nhưng cuối cùng đã hạ hết các tay súng và giành huy chương vàng. Kể từ đó, cô đại diện miền Nam Việt Nam tại các cuộc thi bắn súng quốc tế và giành huy chương vàng Đông Nam Á vào năm 1971.
Tháng 10/1972, cô thi đấu nội dung súng ngắn 50 mét, xếp hạng 56/59 xạ thủ. [9]
Xạ thủ Hoàng Thị Hương không phải là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên thi đấu tại thế vận hội. Có một vận động viên khác đã ghi tên mình vào lịch sử đó.
Kình ngư Nguyễn Minh Tâm: Người phụ nữ Việt Nam đầu tiên tham gia Thế Vận Hội
Người phụ nữ Việt Nam đầu tiên thi đấu tại thế vận hội là kình ngư Nguyễn Minh Tâm. [10] Cô thi đấu lần đầu ở bộ môn bơi lội vào năm 18 tuổi tại Thế vận hội Mexico năm 1968.
Ngoài cô ra, còn có kình ngư Nguyễn Thị Mỹ Liên, nhưng chỉ có Tâm được công nhận là phụ nữ đầu tiên của Việt Nam Cộng Hòa tham gia thế vận hội.
Kình ngư Nguyễn Minh Tâm sinh ngày 26/8/1950. Cô sinh ra trong một gia đình giàu có tại Sài Gòn. [11] Cô là thành viên của câu lạc bộ thể thao sang trọng dành cho giới nhà giàu Sài Gòn có tên là Cercle Sportif, nơi có hồ bơi đẹp nhất thành phố. (Nơi này bị chính quyền tịch thu sau năm 1975, hiện là Cung Văn hóa Lao động TP. HCM.) [12]
Tại Thế Vận Hội Mexico 1968, Nguyễn Minh Tâm thi đấu ở hai nội dung bơi tự do 100 mét và 200 mét. Ở nội dung thứ nhất, cô xếp hạng 53/61 vận động viên với thời gian 1 phút 09. [13] Ở nội dung thứ nhì, cô không được công nhận thành tích cùng với 7 vận động viên khác. [14]
Nguyễn Minh Tâm không tham gia thế vận hội sau cùng của miền Nam vào năm 1972 tại Tây Đức. Năm đó, phái đoàn thể thao miền Nam Việt Nam chỉ tham gia môn bắn súng với hai xạ thủ.
Trong sáu thế vận hội mà miền Nam tham gia, có sáu vận động viên thi đấu liên tục hai kỳ là Lê Văn Phước (đua xe đạp đường trường), Trần Văn Xuân (đấu kiếm), Phan Huu Dong (bơi lội), Hồ Minh Thu (bắn súng), và Nguyễn Văn Lý (điền Kinh).
Đoàn thể thao miền Nam không giành được huy chương nào trong sáu kỳ tham gia thế vận hội. Tranh tài tại châu Á, miền Nam Việt Nam có một số gương mặt nổi bật như Hồ Minh Thu giành huy chương đồng bộ môn bắn súng vào năm 1970 tại Bangkok; [15] Trần Gia Thu giành huy chương đồng môn đua xe đạp đường trường năm 1966 tại Bangkok; [16] Ngô Thành Liêm và Trần Văn Nên giành huy chương đồng môn đua xe đạp đường trường vào năm 1958 tại Tokyo. [17] [18]
Miền Nam gặp không ít khó khăn khi tham gia các thế vận hội hay các giải đấu lớn. Vấn đề không nằm ở tài năng của các vận động viên mà ở khía cạnh tài chính.
Thể thao miền Nam thi đấu trong khó khăn
Nếu trở về thời kỳ đó, bạn có thể sẽ thấy khó chịu khi đất nước đang ngập trong đau khổ của chiến tranh, chết chóc, mà lại có người cứ tập luyện thể thao để thi đấu quốc tế – một việc rất tốn kém.
Đối với một đất nước không có truyền thống thể thao, việc các vận động viên miền Nam đạt đến tiêu chuẩn thi đấu tại thế vận hội đã là một nỗ lực đáng được ghi nhận. Báo chí quốc tế đã ghi nhận họ tập luyện trong một điều kiện thiếu thốn nhưng không bao giờ từ bỏ hy vọng.
Tháng 8/1960, các quan chức Ủy Ban Olympic Quốc Gia Miền Nam thông báo phải cắt số vận động viên sẽ tham gia Olympic tại Rome, Italy từ 5 người xuống còn 3 người vì lý do tài chính. [19]
Tháng 4/1969, Hiệp hội Quần vợt Việt Nam thông báo hủy tham gia giải quần vợt Davis Cup tại Tokyo diễn ra vào cuối tháng cũng vì lý do về tài chính. [20] Ngoài ra, tay vợt ngôi sao của đội có tên Lưu Hoàng Đức lúc đó đã mất tích ở Hồng Kông.
Năm 1968, 11 vận động viên miền Nam lên đường thi đấu tại Thế Vận Hội Rome, Italy nhưng chính phủ chỉ tài trợ vé máy bay, các chi phí khác vận động viên phải tự túc.
Trước Thế Vận Hội Rome, Russ Whitman, huấn luyện viên cho các vận động viên, nói với báo chí rằng họ hầu như không có chỗ tập luyện, các sân vận động của thành phố đã trở thành các khu tị nạn vì cuộc tấn công Mậu Thân. [21]
Để thi đấu chuyên nghiệp, vận động viên cần giữ nhịp độ tập luyện liên tục. Tuy nhiên, việc đó là quá sức trong tình trạng chiến tranh tại miền Nam.
Russ lấy ví dụ rằng dân chúng từng bị yêu cầu ở nhà ít nhất trong 40 ngày khi xảy ra cuộc tấn công Mậu Thân. Không ai có thể giữ được thân hình tối ưu để thi đấu trong điều kiện như vậy.
“Ngay lúc này chúng tôi không có thời gian và tiền bạc cho thể thao”, Trung tá Vũ Văn Danh nói vào năm 1972, “khi hòa bình đến chúng tôi sẽ chơi tốt hơn nữa”. [22]
Tuy nhiên, hòa bình vào tháng 4/1975 đã vượt xa những gì Trung tá Danh có thể hình dung.
Việt Nam tại thế vận hội sau 1975
Trong khi miền Nam tham dự sáu kỳ thế vận hội liên tục và Liên Xô, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cũng tham gia từ năm 1952, chính quyền miền Bắc Việt Nam đã không tham gia. [23] [24]
Năm 1976, Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký quyết định thành lập Ủy ban Olympic Quốc gia Việt Nam. [25] Mãi đến năm 1980 thì ủy ban này mới được Ủy ban Olympic Quốc tế công nhận.
Vì vậy, Việt Nam đã bỏ lỡ Thế vận hội Montreal vào năm 1976 tại Canada.
Năm 1980, các vận động Việt Nam trở lại thi đấu tại Thế vận hội tại Liên Xô với 22 vận động viên.
Việt Nam tiếp tục bỏ lỡ một kỳ Olympics nữa vào năm 1984 sau khi Liên Xô tẩy chay Thế vận hội mùa hè Los Angeles, Mỹ. [26] Không chỉ có Việt Nam, các nước cộng sản như Bulgaria, Đông Đức, Mông Cổ và Tiệp Khắc và Lào cũng tuyên bố không tham gia. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn tham gia. [27]
Đến nay, Ủy ban Olympic Quốc gia Việt Nam vẫn không ghi rõ trong phần giới thiệu trên websites rằng Việt Nam Cộng Hòa đã đại diện cho Việt Nam thi đấu tại các thế vận hội từ năm 1952. [28]
Việt Nam giành được huy chương thế vận hội đầu tiên vào năm 2000. Người mang về huy chương bạc năm đó là võ sĩ Taekwondo nữ Trần Hiếu Ngân. [29]
Nguồn: https://www.luatkhoa.org/2021/07/viet-nam-cong-hoa-va-nhung-nguoi-viet-nam-dau-tien-du-olympics/
Tuesday, July 20, 2021
KỶ NIỆM NGÀY KÝ KẾT HIỆP ĐỊNH GENÈVE 20 THÁNG 7 - BỐI CẢNH, DIỄN TIẾN, NỘI DUNG VÀ HẬU QUẢ
Đỗ Kim Thêm
Lễ ký kết Hiệp định Genève, nguồn ảnh @ Internet
Bối cảnh
Ngày 20 tháng 7 năm 1954 là ngày ký kết Hiệp định Genève. Trong bối cảnh xung đột quốc tế và quốc gia, Hiệp định được hình thành để chia lãnh thổ Việt Nam thành hai miền Nam và Bắc, mở đầu cho cuộc di cư của non một triệu người từ Bắc vào Nam; ngược lại, có khoảng 130.000 quân Việt Minh tại miền Nam tập kết ra Bắc và 10.000 ở lại để lo xây dựng cơ sở ban đầu cho cuộc chiến sắp tới. Các biến chuyển trọng đại này đã tạo nên khúc quanh cho lịch sử Việt Nam hiện đại.
Sử gia Hà Nội ca ngợi rằng chiến thắng Điện Biên Phủ của Việt Minh trong ngày 7 tháng 5 năm 1954 là nguyên nhân chính buộc cho Pháp phải mở ra hội nghị ngay ngày hôm sau tại Genève.
Sự thật khác hẳn. Đó là một tình cờ trùng hợp ngẩu nhiên trong lịch sử. Hội nghị đã được triệu tập từ ngày 26 tháng 4 năm 1954, nghiã là trước khi Pháp bại trận. Theo kế hoạch đàm phán, ngày 8 tháng 5 năm 1954 mở đầu cho giai đoạn thứ hai để các Ngoại trưởng Liên Xô, Pháp, Anh, Mỹ và Trung Cộng thảo luận về các hậu quả của chiến tranh Cao Ly. Ngày Pháp đầu hàng tại Điện Biên Phủ cũng là ngày các ngoại trưởng tham dự giải quyết vấn đề Đông Dương và tất cả đều có các quan điểm dị biệt.
Việt Nam tham gia hội nghị, nhưng có hai phái đoàn, một phái đoàn làm đại diện cho chính phủ Quốc Gia Việt Nam của chế độ Bảo Đại, do Đặc sứ Nguyễn Quốc Định làm Trưởng đoàn, sau thay thế bởi Nguyễn Trung Vinh rồi Trần Văn Đỗ, một phái đoàn thứ hai làm đại diện cho Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (VNDCCH) do Thủ tướng Phạm văn Đồng, thay mặt cho Việt Minh.
Kết quả Hiệp định Genève là một cách thu xếp quyền
lợi của các cường quốc có ít nhiều quan hệ với Việt Nam và không phản
ảnh thực tế chính trị và quân sự của Viêt Nam. Việt Minh chiến thắng
trên chiến trường Điện Biên Phủ, nhưng tại bàn hội nghị Genève không
chiếm ưu thế tuyệt đối mà chỉ tham gia để cùng tranh giành quyền lực.
Anh
Thái độ của Anh trong hội nghị là tránh đối đầu với
Nga và Trung Quốc, không muốn phụ thuộc vào Mỹ và Pháp. Quan tâm chính
của Anh là quyền lợi kinh tế của Khối Thịnh vượng Chung (Commonwealth of
Nations), tìm cách tránh những bất lợi kinh tế cho các thuộc địa Hong
Kong, Mã Lai và Singapore khi chiến tranh Việt Nam có thể lan rộng.
Liên Xô
Cho đến giữa thập niên 1950, Liên Xô không quan tâm đặc biệt đến Đông Dương, mà trọng điểm chiến lược là phát huy thanh thế tại Đông Âu và giải quyết các đe dọa của Mỹ và khối NATO, trong khi những vấn đề Berlin và Đức đang là sôi bỏng hơn tại châu Á.
Khi Trung Hoa đang chiếm ưu thế chính trị tại châu Á, thì vấn đề tương lai của Việt Nam cũng như phát triển chủ nghĩa Cộng sàn tại khu vực là ngoài tầm kiểm soát của Liên Xô.
Chính vì lý do này, sau khi Stalin chết, giới lãnh
đạo mới là Chrustchow, Bulganin, Malenkow và Molotov bắt đầu xem Đông
Dương là một cơ hội mới để tham dự hội nghị, để nhờ đó mà Liên Xô có thể
tiếp xúc với phương Tây và ngăn trở mọi chủ trương của Liên minh Quân
sự châu Âu.
Hoa Kỳ
Dù bắt đầu quan tâm đến sự ngăn chặn tham vọng bành trướng của phong trào Cộng sản Quốc tế, nhưng Mỹ tỏ ra cực kỳ dè dặt trong khi tham gia Hội nghị Genève, vì hội nghị còn kéo dài và đang lâm vào cảnh bế tắc.
Mỹ cho là, nếu Hội nghị còn tiếp diễn mà Trung Cộng can thiệp chính trị và Việt Minh còn tiếp tục thắng trận, thì đối sách của Mỹ phải là lập kế hoạch đóng quân tại Việt Nam. Quốc hội Mỹ đang chuẩn bị một dự luật cho phép Tổng Thống mang quân sang Việt Nam. Đó là trong trường hợp khẩn cấp, nếu Paris không có giải pháp nào cho khủng hoảng. Nhưng Hoa Kỳ vẫn không biết rõ chủ trương của Pháp sau khi bại trận. Tổng thống Eisenhower và Ngoại trưởng John Foster Dulles thấy là việc thống nhất hành động trong ngoại giao là cần thiết. Trước mắt, điểm quan trọng nhất mà Ngoại trưởng Dulles muốn chỉ là sao cho hội nghị thất bại.
Cuối cùng, Hoa Kỳ chọn một thái độ khôn ngoan hơn là không mang một sứ mệnh nào trong hội nghị và chờ xem kết quả.
Pháp
Khi Đệ nhị Thế chiến kết thúc, Pháp là một thành viên trong khối NATO, nên cũng phải có trách nhiệm trong vai trò mới này. Trong khi đó, dân chúng Pháp chống mãnh liệt về nỗ lực tân trang của Đức trong khuôn khổ mới. Cuối cùng, tháng 8 năm 1954, Quốc hội Pháp từ chối phê chuẩn Hiệp ước thành lập Liên minh Quân sự châu Âu, kết quả này không do Liên Xô tác động.
Sau đó, việc thành lập quân đội Đức hoàn toàn do Mỹ thoả thuận. Đức đưa quân đội hội nhập trong khuôn khổ của khối NATO cũng làm cho thái độ Pháp chống Đức cũng giảm dần.
Để giải quyết vấn đề Đông Dương, vai trò chính là Pháp trong hội nghị Genève. Trước đó, Pháp đã trải qua 19 chính phủ kế tiếp, 5 Cao ủy và 6 Tổng Tư lệnh chỉ huy Đông Dương, nhưng không tạo ra một đường lối nhất quán để chống Việt Minh hữu hiệu và chấm dứt cuộc chiến.
Thua Việt Minh về quân sự có nghĩa là Pháp không thể tái chiếm Đông Dương, uy tín Pháp ở trong nước lẫn quốc tế không còn, trong khi dân chúng Pháp phản đối chính giới kịch liệt và nội bộ các chính đảng chia rẽ trầm trọng. Tình hình phân hoá làm cho Pháp muốn giải quyết trước mắt vấn đề quân sự và sau đó là chính trị. Thực tế không đơn giản vì Pháp có hai khó khăn chính.
Một mặt, Pháp phải giải quyết vấn đề với chính phủ Quốc Gia Việt Nam. Trước đó, ngày 4 tháng 6 năm 1954, Cựu Hoàng Bảo Đại và Tổng Thống Pháp Vincent Auriol đã ký Hiệp định Elysée công nhận nền độc lập và chủ quyền của Việt Nam.
Trên cơ sở Hiệp định Elysée, hai thủ tướng Joseph Laniel và Bửu Lộc ký kết Hiệp định Matignon, nội dung là liên kết giữa hai nước trong chi tiết. Điểm tương thuận quan trọng là Việt Nam gia nhập khối các quốc gia liên kết với Pháp. Về mặt công pháp quốc tế, hai thỏa ước này, dù riêng rẽ, đã bổ khuyết và kiện toàn cho nhau.
Ngày 12 tháng 7, nội các của Thủ tướng Laniel sụp đổ, nội các mới của Pierre Mandes-France thành hình. Ngay khi nhậm chức vào ngày 18 tháng 6, Tân Thủ tướng Mendès-France tuyên bố sẽ từ chức nếu trong vòng một tháng không đạt được thoả thuận ngừng bắn ở Đông Dương. Dù chưa được Quốc Hội Pháp thông qua, nhưng Mandès-France hứa tiếp tục tôn trọng hiệp định Elysée. Ngoài ra, Bidault, Ngoại trưởng Pháp, long trọng tuyên hứa với Bảo Đại là sẽ không có giải pháp chia đôi lãnh thổ.
Mặt khác, vấn đề chính trị và quyền lợi kinh tế của Pháp phải được giải quyết trong khuôn khổ ba xứ Đông Dương, nghĩa là có liên hệ đến Cambodia và Lào.
Về sau, do áp lực chính trị nặng nề, Mandes-France
chủ trương khác với Laniel là muốn Pháp rút ra khỏi chiến trường Việt
Nam trong danh dự, đồng thuận cho việc phân chia lãnh thổ Việt Nam, đồng
thời duy trì những lợi ích kinh tế và văn hoá trong khu vực Đông Dương.
Tất cả các triển vọng đều tùy thuộc vào giải pháp ngoại giao.
Trung Cộng
Đối với Trung Quốc, đây là lần đầu tiên tham gia vào một sinh hoạt quốc tế với mục tiêu phô trương thanh thế, Ngoại Trưởng Chu Ân Lai làm Trưởng đoàn gồm một lực luợng hùng hầu gần 200 nhân viên tháp tùng.
Sau khi chiếm Hoa Lục, Trung Cộng muốn chứng tỏ là không có tham vọng bành trướng đối với Ấn Độ, Nam Dương và các nước không liên kết. Sau thời gian nội chiến, Trung Cộng hy vọng là đất nuớc sẽ ổn định về ngoại giao và nội trị, nhưng cũng cảm thấy Quốc Dân Đảng, một Đồng minh của Mỹ, đang là một mối đe doạ tiềm tàng khi chủ trương Quang phục Lục địa vẫn còn được tuyên truyền mạnh mẽ tại Đài Loan. Một thực tế khác là Trung Cộng phải hỗ trợ chính trị cho Nga vì cần Nga viện trợ kinh tế.
Chu Ân Lai quan tâm nhất là ngăn trở Mỹ can thiệp làm cho Việt Nam quá mạnh và khu vực Đông Nam Á bị phân hoá trầm trọng. Dù chủ trương chia cắt Việt Nam, nhưng Chu Ân Lai chống việc ngoại quốc đóng quân. Khi Miền Bắc, dù theo Cộng Sản, không bị các nước Cộng Sản can thiệp, thì miền Nam, dù theo Mỹ, không thể để cho quân Mỹ chiếm đóng.
Dù muốn thực hiện chủ trương ôn hoà, nhưng cuối cùng, Chu Ân Lai phải chọn một quyết định quan trọng do Nga đề xuất là đồng ý tách rời vấn đề Đông Dương thành hai đề tài thảo luận riêng biệt: quân sự và chánh trị.
Sau khi Pháp công nhận Quốc gia Việt Nam là một nước
độc lập và có chủ quyền, Chu Ân Lai tuyên bố thừa nhận có hai chính phủ
tại Việt Nam và giải pháp chính trị sẽ do hai chính phủ trực tiếp thương
thảo. Nhưng thành công lớn nhất của Chu Ân Lai là áp lực trực tiếp với
Hồ Chí Minh tại Liễu Châu, tỉnh Quảng Tây, phải chấp nhận những thoả
thuận về chính trị tại Genève.
Việt Minh
Chiến thắng Điện Biên Phủ giúp cho Việt Minh tự tin hơn và tìm cách nâng đỡ nhóm Cộng sản Pathet Lào và Khmer Issarak để được quốc tế công nhận. Thanh thế lên cao khi áp dụng chiến thuật cố hữu vừa đánh vừa đàm, nay Việt Minh bắt đầu lo chuyển sang vận động quần chúng cho tổng tuyển cử sắp tới.
Thái độ của phái đoàn Việt Minh trong hội nghị là bất nhất. Lúc đầu, chối bỏ việc xâm nhập Lào và Cambodia, do Chu Ân Lai tạo áp lực nặng nề, Việt Minh phải công nhận sự hiện diện của lực lượng này trong thực tế và hứa là sẽ rút.
Trong suối thời gian hội nghị, Việt Minh chứng tỏ là
trung thành theo những chỉ thị của Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh vì không có
phương sách ngoại giao độc lập nào nổi bật.
Quốc Gia Việt Nam
Bên cạnh các phái đoàn của Lào và Cambodia, Quốc Gia Việt Nam tham gia với tư cách một chính phủ quốc gia độc lập trong Liên hiệp Pháp và không ở vào một vị thế thuận lợi để bảo vệ lập trường theo hai thỏa ước Elysée và Matignon.
Lúc đầu, Bảo Đại đòi hỏi Pháp phải tôn trọng sự thống nhất lãnh thổ của Việt Nam. Do Bảo Đại tin vào lời hứa của Pháp là Việt Nam sẽ không bao giờ chia cắt, đó là điều kiện mà Bảo Đại chấp nhận để cử phái đoàn của Quốc Gia Việt Nam tham dự hội nghị. Pháp đã nhượng bộ.
Ngay từ buổi đầu, Trưởng đoàn Nguyễn Quốc Định đòi hỏi là không công nhận sự hiện diện của phái đoàn Việt Minh. Khi Pháp gặp nhiều khó khăn để thuyết phục Bảo Đại, phải nhờ phái đoàn Mỹ làm trung gian để lo tách rời giải pháp chánh trị ra khỏi quân sự được kết quả. Với giải pháp quân sự thuần túy, Pháp có thể thỏa hiệp được.
Hai thỏa ước mà Pháp ký kết với Quốc Gia Việt Nam không gây được tiếng vang trên chính giới quốc tế, vì lý do là Pháp thay đổi thái độ và Mỹ không quan tâm ủng hộ. Về sau, không còn quốc gia nào đặt ra vấn đề hiệu lực pháp lý của hai thỏa ước này để thảo luận.
Diễn tiến
Tất cả diễn biến trong suốt thời gian hội nghị
không theo một nguyên tắc hay trình tự rõ rệt nào, vì Liên Xô và Trung
Quốc chủ động toàn bộ trong những khóa họp chính thức hay mật đàm.
Dù không có kinh nghiệm về các vấn đề quốc tế, nhưng khi tham gia tìm kiếm hòa bình cho Đông Dương, mục tiêu của Trung Quốc là phô trương thanh thế, nên không nhất thiết hậu thuẫn toàn diện cho Việt Minh. Khi Việt Minh kiên quyết đòi kiểm soát Cambodia và Lào, chủ trương này là trái với quan điểm của Trung Quốc.
Trong các cuộc mật đàm với Mendès-France ở Tòa đại sứ Pháp ở Bern, Thụy Sĩ, Chu Ân Lai tỏ ra là một chính khách quốc tế tuân thủ sinh hoạt ngoại giao, không cổ vũ cho đường lối đấu tranh cách mạng sắt máu, áp lực mạnh cho Việt Minh phải chấm dứt can thiệp vào nội tình ở Cambodia và Lào, phải chấp nhận giải pháp tiên quyết là đình chiến và chính trị sẽ hậu xét.
Sau đó, vào cuối tháng Sáu, Chu Ân Lai thăm Ấn Độ và Miến Điện để trình bày về kết qủa sơ khởi của hội nghị đồng thời quan điểm sống chung hòa bình. Hai nước này đang không công nhận chính phủ VNDCCH.
Nhằm thuyết phục Việt Minh chấp nhận lập trường của các nước đang thương nghị, từ ngày 3 đến 5 tháng Bảy, Chu Ân Lai trở lại Liễu Châu, tỉnh Quảng Tây, gặp Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp. Khi Võ Nguyên Giáp thuyết trình về thắng lợi quân sự và nêu ra kế hoạch chôn giấu võ khí, lưu 10.000 cán bộ ở miền Nam sau khi đình chiến, Chu Ân Lai tỏ ra không quan tâm khiá cạnh quân sự, mà chỉ đề cập các tương thuận chính trị đạt được tại Genève.
Theo hồi ký của Võ Nguyên Giáp, Hồ Chí Minh bị áp lực của Chu Ân Lai quá nặng nề, nên đành phải nhượng bộ. Thái độ này làm cho Võ Nguyên Giáp phải ngỡ ngàng về tình hữu hảo hai nước.
Các tư liệu của nhiều tác giả xác nhận một sự thật khác: vĩ tuyến 17 được lựa chọn chỉ xảy ra về sau, đúng vào ngày 20 tháng 7 ở biệt thự tạm trú của Trưởng phái đoàn Nga Vyacheslav Molotov, trong sự hiện diện của Mendès-France, Anthony Eden, Chu Ân Lai và Phạm Văn Đồng.
Khi Phạm Văn Đồng không thể tự quyền quyết định mà phải nhượng bộ, cuộc mặc cả trở nên gay go hơn. Nội dung tranh cãi là từ vĩ tuyến 13 chuyển lên vĩ tuyến 16, trong khi Mendès-France vẫn kiên quyết giữ vĩ tuyến 18. Cuối cùng, Molotov đề xuất vĩ tuyến 17 và đã được tất cả đồng thuận.
Giải pháp chính trị cũng không phải là tài năng sáng
tạo của Việt Minh, mà là được tất cả phái đoàn tham gia ngả giá sau đó.
Mendès-France đề nghị là không cần ấn định thời hạn cho cuộc tổng tuyển
cử. Phạm Văn Đồng lúc đầu đề nghị sáu tháng, sau sửa lại thành một năm
và có thể là mười tám tháng. Cuối cùng, Molotov đề nghị hai năm và được
đa số hiện diện chấp thuận.
Nội dung
Hiệp định Genève là một ký kết giữa Henri Delteil, Thiếu tướng, thay mặt Tổng Tư lệnh Quân đội Liên Hiệp Pháp ở Đông Dương và Tạ Quang Bửu, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Đại diện các nước khác tham gia đàm phán không ký vào bản hiệp định. Bản văn gồm 47 điều, nội dung chính là đình chỉ chiến sự, nhưng đất nước bị chia đôi, vĩ tuyến 17 trở thành ranh giới giữa hai miền Nam Bắc, dân chúng được tùy nghi lựa chọn miền cư ngụ.
Về chi tiết, Hiệp ước đình chiến tiên liệu việc trao đổi các lực lương vũ trang. Việt Minh rút các đơn vị về miền Bắc trên vĩ tuyến 17, trong khi các lực lượng của Pháp ra khỏi miền Bắc. Cho đến khi nào có cuộc tổng tuyển cử cho Việt Nam, hai bên được quyền cai trị trong lãnh thổ của mình và vĩ tuyến 17 là một vùng phi quân sự được hai bên tôn trọng. Cả hai bên bị cấm mở rộng các tiềm năng quân sự hay tham gia các liên minh quân sự. Một Uỷ ban Quốc tế về Kiểm soát Đình chiến được thành lập để theo dõi việc thi hành gồm có đại diện các nước Ba Lan, Canada và Ấn Độ
Trong cuộc họp ngày 21 tháng 7 năm 1954, các phái đoàn “thông qua” bản văn “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương“.
Theo nội dung, đây là lời tuyên bố dự kiến một giải pháp chính trị cho tương lai của Việt Nam. Điểm đặc biệt là không phái đoàn nào có cam kết và ký tên trong lời tuyên bố, nên không có hiệu lực ràng buộc về công pháp quốc tế.
Bản văn gồm 13 điều, mà điều 7 là quan trọng nhất mang nội dung chính là „Cuộc tổng tuyển cử sẽ tổ chức vào tháng 7 năm 1956 dưới sự kiểm soát của một Ủy Ban Quốc tế … Kể từ ngày 20 tháng 7 năm 1955, những giới chức có thẩm quyền trong hai vùng sẽ gặp gỡ để thương lượng vấn đề tổng tuyển cử.“ Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến được thành lập với đại diện của Ấn Độ làm chủ tịch, Gia Nã Đại và Ba Lan làm hội viên để giám sát.
Lập trường của Quốc Gia Việt Nam là không chấp nhận tham gia bản tuyên ngôn này và đã ra một bản tuyên ngôn riêng xác nhận sự tôn trọng hòa bình của mình, nhưng đòi hỏi tổng tuyển cử phải do Liên Hiệp Quốc giám sát.
Hoa Kỳ cũng bầy tỏ thái độ trung lập và tuyên hứa là sẽ cứu xét cẩn trọng nếu có sự vi phạm thỏa hiệp đình chiến.
Hậu quả
Ai thắng ai thua là một vấn đề gây nhiều tranh cải sau khi ký kết Hiệp định và là nguyên nhân chính cho việc xung đột vũ trang của hai miền.
Nhìn chung, Việt Minh cho rằng Pháp không thể đạt được trên bàn hội nghị Genève những gì mà Pháp không giành được trên chiến trường Điện Biên Phủ.
Sử sách Hà Nội ca ngợi thành quả đấu tranh của Việt Minh là “nêu cao được tinh thần độc lập, tự chủ trong đàm phán, kiên trì mục tiêu chiến lược; đánh giá chính xác tình hình, tìm ra đối sách phù hợp. Nhờ phát huy tối đa nội lực, mà Việt Minh kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự, chính trị và ngoại giao.“
Đâu là sự thật?
Nhìn trong toàn cảnh mà các sử liệu và hồi ký về sau nêu rõ một sự thật khác: Võ Nguyên Giáp và Mao Trạch Đông thắng Pháp ở Điện Biên Phủ, Hồ Chí Minh thua Trung Quốc ở Liễu Châu và Phạm Văn Đồng thua các Cường quốc ở Genève.
Tiếp theo chiến thắng huy hoàng Điện Biên Phủ, câu hỏi tự nhiên là tại sao Việt Minh không tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn trên tinh thần tiến công cách mạng mà phải đàm phán?
Các cán bộ Tuyên giáo của Việt Minh về sau lập luận: “Đó là một nhận định sáng suốt và thực tế. Những thắng lợi tạo ra chưa có tính chất chiến lược, không thể đàm phán song phương khi vấn đề đã quốc tế hóa và phải tìm điểm dừng cần thiết trong phạm vi quân sự.“
Trong bóng hậu trường đàm phán có các sự thật khác mà hồi ký của Khrushchev hé lộ một phần trong chi tiết. Khrushchev kể lại nội dung trao đổi giữa Chu Ân Lai với Hồ Chí Minh. Về diễn tiến trận Điện Biên Phủ, Hồ Chí Minh cho biết tình hình chiến sự là tuyệt vọng, nếu không ngừng bắn sớm, Việt Minh không thể chống Pháp trong lâu dài. Trước nguy cơ này, Viêt Minh, khi cùng đường, có thể tháo chạy qua biên giới tìm nơi trú ẩn và xin Trung Quốc tiến quân sang Việt Nam, như đã làm ở Triều Tiên.
Ý kiến của Nga cũng quan trọng không kém Trung Quốc. Khi khả năng tác chiến của Việt Minh kiệt quệ, Hồ Chí Minh lo sợ nếu Mỹ sẽ can thiệp, tình hình sẽ trầm trọng hơn; chủ trương ôn hòa của Nga Xô khiến cho Việt Minh lo ngại. Nếu không tuân thủ, viện trợ cả hai sẽ không còn như trước, triển vọng chung là bi quan hơn.
Chu Ân Lai không chấp nhận yêu cầu này vì không muốn đánh Pháp thay cho Việt Mnh, tổn thất nặng nề ở Triều Tiên là kinh nghiệm thương đau mà Trung Quốc phải tránh trong lúc cần phô trương thanh thế hiếu hoà để xây dựng đất nước. Nhưng thực tế, Chu Ân Lai không trả lời dứt khoát. Thái độ lập lờ đồng loã là khích lệ cho Việt Minh hăng hái hơn.
Ngược lại, theo một tài liệu gần đây của các sử gia Trung Quốc, Quân đội Trung Quốc có mặt tại Bắc Việt ngay từ đầu cuộc chiến chống Pháp. Sau tháng 4 năm 1950, Vi Quốc Thanh cùng Trần Canh chỉ huy Nhóm Cố vấn quân sự đã có khoảng 281 sĩ quan tham gia. Hỗ trợ quân sự cho Bắc Việt thay đổi từ 3 sư đoàn năm 1950 lên đến 7 sư đoàn năm 1952. Số người Trung Quốc làm việc tại Bắc Việt là khoảng 15.000 người.
Từ 1950-1956, Trung Cộng đã trang bị cho Hà Nội 5 sư đoàn bộ binh, 1 sư đoàn pháo binh, 1 sư đoàn phòng không và 1 trung đoàn bảo an.
Khi tổng kết cuộc chiến Việt Nam, Trung Quóc cho là đã cung cấp 155 ngàn khẩu súng, 58 triệu viên đạn, 4630 khẩu pháo, 108 triệu đạn pháo, 840 ngàn quả lựu đạn, 1200 xe tải, 1 triệu 4 quân phục, 14 ngàn tấn lương thực và 26 ngàn tấn nhiên liệu. Tổng số hàng hóa, nguyên liệu, thuốc men và nhiên liệu trị giá 43,2 tỷ Mỹ Kim.
Dù các số liệu và nguồn tin khác nhau khó kiểm chứng, nhưng Bằc Kinh cho biết một sự thật: nếu không có Trung Quốc trực tiếp chiến đấu và viện trợ súng đạn, chiến thắng Điện Biện Phủ không thể xảy ra, cũng có nghĩa là, Điện Biên Phủ là một phần chiến thắng của Trung Cộng.
Sau này, theo một tự sự của Lê Duẩn, không phải Chu Ân Lai điều động mà chính Mao Trạch Đông trực tiếp áp lực cho Hồ Chí Minh phải ký kết Hiệp định Genève, vì không còn có thể tiếp tục quân viện cho Việt Minh trong lâu dài.
Tóm lại, do áp lực nặng nề của cường quốc tham gia, Việt Minh đồng thuận các yêu sách và ký kết hiệp định Genève.
Trong khi nguyện vọng chính của Việt Minh là độc lập dân tộc cho Việt Nam, Lào và Cambodia. Việt Minh không đạt được toàn vẹn nguyện vọng này, nhưng kiểm soát được miền Bắc. Với sự hợp tác của Pathet Lào, Việt Minh cũng chiếm một phần lãnh thổ của Lào. Nếu so với yêu sách nguyên thủy, trong mọi trường hợp, Việt Minh đã đạt được thắng lợi.
Trong khi Pháp đã hứa trao trả độc lập cho chính phủ Bảo Đại trong vòng hai năm, và sau đó lại quyết định phân chia lãnh thổ tạo nên hai chính phủ riêng biệt: VNDCCH tại miền Bắc và VNCH tại miền Nam. Việt Minh đồng ý là việc tranh giành quyền lực bằng đấu tranh chính trị, sẽ không còn bằng quân sự và lạc quan là sẽ thắng trong cuộc tổng tuyển cử sắp tới.
Khi Thủ tướng Phạm văn Đồng thua tại Hội nghị Genève, đó là lý do giải thích tại sao Hà Nội đã không phổ biến những diễn biến chi tiết cho dân chúng biết và chỉ nêu lên hai điểm quan trọng nhất: Với chiến thắng Điện Biên Phủ, Việt Nam là một dân tộc anh hùng thắng chủ nghĩa thực dân Pháp; thành quả của hội nghị là kiểm soát được một nửa lãnh thổ, đó là một thắng lợi lớn trong lịch sử.
Thành công về mặt tuyên truyền cho thế giới, vị thế VNDCCH được nâng cao. Sau Hiệp định Genève, Bắc Việt mở rộng phạm vi bang giao trong các nước XHCN và nhiều nước Á, Phi, Mỹ La tinh, có tiếng nói trong nhiều tổ chức quốc tế.
Riêng đối với Pháp, Pháp đã đạt mục tiêu trong việc tách rời giải pháp ngưng bắn ra khỏi chánh trị. Pháp rút quân, loại Việt Minh và phe Cộng Sản Cambodia, Lào ra khỏi những quốc gia này. Giải pháp này Pháp được Nga và Trung Cộng ủng hộ.
Theo dõi hội nghị trong suốt thời gian, Mỹ chỉ đóng vai trò Quan sát viên. Ngoại trưởng Dulles rời bỏ hội nghị sớm nhất cũng đồng nghĩa là không chịu trực tiếp thương thuyết với Trung Hoa, tuyên bố trước báo chí là chỉ gặp Chu Ân Lai trong trường hợp duy nhất là trong tai nạn giao thông.
Sau khi ký kết Hiệp định, tình hình thay đổi buộc Tổng thống Eisenhower và Ngoại trưởng Dulles phải chuyển huớng triệt để trong chính sách. Kết hợp với chính phủ Anh, Ngoại trưởng Dulles đề ra một chương trình là phải giới hạn các thiệt hại có thể sẽ xảy ra.
Hai mục tiêu chung trước mắt là Phong trào giải thể chế độ thực dân phải tiếp tục tiến hành, Pháp phải vĩnh viễn rút quân ra khỏi Đông Dương và trao trả độc lập cho Lào, Cambodia và Việt nam; thực tế có nghĩa là, cô lập Việt Minh tại miền Bắc, trong khi Lào, Cambodia và Nam Việt Nam được hoàn toàn độc lập.
Khi theo đuổi chính sách này, Mỹ đóng vai trò thay thế cho Pháp và bảo vệ an ninh cho Đông Dương, sẽ gắn bó với định mệnh của Việt Nam và là tiền đề làm cho Mỹ trực tiếp can thiệp vào cuộc chiến Việt Nam về sau.
NGUỒN : https://kimthemdo.com/2021/03/25/so-sanh-hai-hiep-dinh-geneve-1954-va-paris-1973-i/